LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế của Việt Nam ngày càng phát triển, kéo theo những chính
sách của nhà nước về Kinh tế-Chính trị-Văn hóa-Xã hội cũng phaỉ thay đổi
theo để phù hợp với sự thay đổi này. Điều này cũng đồng nghĩa với việc nhà
nước cần thay đổi pháp luật cho phù hợp với thực tế cuộc sống, giúp cho pháp
luật có thể được thực thi một cách có hiệu quả cao trong cuộc sống đúng với ý
nghĩa cho sự ra đời của nó.
Kinh tế phát triển, quan hệ kinh doanh thương mại cũng phát triển theo.
Các quan hệ kinh doanh thương mại giữa các chủ thể kinh doanh được ghi
nhận thông qua hợp đồng kinh doanh thương mại. Chính vì vậy, nên khi nền
kinh tế có sự thay đổi thì pháp luật về hợp đồng kinh doanh thương mại cũng
thay đổi để đáp ứng được nhu cầu của các chủ thể kinh doanh lúc bấy giờ.
Đặc biệt, khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế
giới (WTO) thì nó đã đánh dấu một bước phát triển về kinh tế của Việt Nam.
Khi Việt Nam là thành viên của WTO thì các hoạt động kinh doanh thương
mại rất phát triển, rất đa dạng và phức tạp. Khi đó hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế ngày càng nhiều, các vấn đề phát sinh từ quan hệ hợp đồng này
rất phức tạp. Sự thay đổi này chính là sự gia nhập thị trường quốc tế của các
cá nhân và doanh nghịêp Việt Nam, cũng như sự gia nhập thị trường trong
nước của các cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy pháp luật Việt
Nam cần phải thay đổi cho phù hợp, đây cũng chính là nghĩa vụ của một nước
thành viên khi tham gia tổ chức thương mại quốc tế. Chính vì thế nên tôi chọn
đề tài: "Những thay đôỉ cơ bản của pháp luật hợp đồng mua bán hàng
hoá trong kinh doanh thƣơng mại khi Việt Nam trở thành thành viên của
WTO".
1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HOÁ
I.Sự ra đời của pháp luật hợp đồng
Trong cuộc sống, để tồn tại được thì con người phải đáp ứng đủ những
nhu cầu thiết yếu nhất. Những nhu cầu này có thể được đáp ứng do chính bản
thân mình tự làm ra hoặc có thể do người khác cung cấp. Ngay từ thời xa xưa
ông cha ta đã biết trao đổi hàng hoá cho nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Đến ngày nay thì việc mua bán,trao đổi hàng hoá còn mang một ý nghĩa khác
là tạo lợi nhuận, tìm kiếm giá trị, làm tăng tài sản. Xã hội ngày càng phát triển
thì công nghệ ngày càng phát triển, nhu cầu con người ngày càng cao, khi đó
tất yếu phát sinh việc có nhiều người có nhu cầu trùng nhau, tuy nhiên nhà
cung cấp lại chỉ có hạn , điều này dễ dàng nảy sinh các tranh chấp. Để phòng
ngừa những tranh chấp có thể sảy ra thì nhà làm luật phải tạo ra những quy
phạm pháp luật để điều chỉnh vấn đề này. Khi đó pháp luật hợp đồng đã ra
đời, pháp luật hợp đồng ra đời đã rạo ra môi trường pháp lý cho các hoạt động
mua bán hàng hoá, trao đổi nói chung và mua bán trao đổi hàng hoá nói riêng.
Nó góp phần giúp cho các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng có một sân chơi
chung, quy tắc xử sự chung phù hợp và đạt được mục đích của mình.
II. Hợp đồng mua bán hàng hoá
1.Khái niệm hợp đồng
Luật hợp đồng là một trong những luật lâu đời nhất liên quan đến hoạt
động giao lưu dân sự, kinh doanh thương mại. Nói một cách khác, nó đã tồn
tại từ lúc khởi đầu của xã hội có tổ chức. Nếu sự an toàn của con người, tài
sản được đảm bảo trên cơ sở nhưng quy định của luật hình sự thì sự an toàn
cà trật tự trong thế giới kinh doanh lại phụ thuộc vào luật hợp đồng. Hợp đồng
càng ngày càng được xác lập một cách phổ biến hơn, thường xuyên hơn và
tạo thành một phần quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Dưới
góc độ pháp lý khác nhau, hợp đồng được đề cập đến như là một sự thống
2
nhất ý trí của nhiều người nhằm dung hoà các lợi ích để đạt được điều mà
mình đang hướng tới.
Tuy nhiên ở mỗi nước khác nhau thì nhìn hợp đồng với một quan niệm
khác nhau nhưng nhìn chung hợp đồng được hiểu là sự thống nhất ý chí của
các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật này nhằm dung hoà các lợi ích để đạt
được điều mình đang hướng tới.
Về bản chất pháp lý của hợp đồng thì đều là sự thoả thuận giữa các chủ
thêt tham gia quan hệ hợp đồng với mục đích làm phát sinh một hậu quả pháp
lý. Hậu quả pháp lý này có giá trị bắt buộc các bên phải thực hiện đúng theo
hợp đồng.
Theo quy định tại Đ388_BLDS2005 Việt Nam thì : “ Hợp đồng dân sự
là sự thoả thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và
nghĩa vụ dân sự”.
2. Nội dung của hợp đồng
2.1. Hợp đồng mua bán hàng hoá nói chung
a. Đặc điểm chung của hợp đồng mua bán hàng hoá
Hợp đồng mua bán hàng hoá nói chung là một hợp đồng dân sự. Chính
vì vậy nó có đặc điểm của một hợp đồng dân sự, đó là sự thoả thuận giữa các
bên trong quan hệ hợp đồng, thể hiện nguyên tắc tự do ý chí của các chủ thể
trong quan hệ hợp đồng. Theo đó các bên tự nguyện thoả thuận với nhau để
xác định nội dung của hợp đồng. Mục đích của sự thoả thuận này là phát sinh
một hậu quả pháp lý có giá trị ràng buộc các bên khi tham gia quan hệ này.
b.Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá
Pháp luật quy định chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá là tất cả
pháp nhân, cá nhân đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
Đối với cá nhân phải là người có năng lực hành vi dân sự.Những người
có năng lực hành vi dân sự bao gồm:
-Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (
Trừ trường hợp người đó bị mất năng lực hành vi dân sự hay hạn chế năng lực
3
hành vi dân sự ) thì có quyền tham gia các quan hệ hợp đồng mà pháp luật
cho phép.
-Người từ đủ 6 tuôỉ đến dưới 18 tuổi là người chưa thành niên và là chủ
thể của quan hệ pháp luật hợp đồng khi được pháp luật cho phép: Đó là những
hợp đồng mà phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý ( người từ đủ 6
tuổi đến dưới 15 tuổi) và những người từ đủ tuổi 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có
tài sản riêng đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện
quan hệ hợp đồng mà không cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.
Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
c. Đối tƣợng của hợp đồng mua bán hàng hoá:
Đó là các loại hàng hoá mà pháp luật cho phép mua bán, trao đổi: có thể
đó là các hàng hoá phục vụ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, cũng có thể là
các loại hàng hoá phục vục mục đích kinh doanh sinh lời. Đối với những hàng
hoá phục vụ mục đích kinh doanh sinh lời thì phải thoả mãn là những hàng
được phép mua bán, trao đổi (được phép kinh doanh); các loại hàng hoá hạn
chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện phải tuân thủ quy định của pháp
luật.
d. Khách thể:
Khách thể của hợp đồng mua bán hàng hoá là các hàng hoá đó hay lợi
ích thu được từ việc mua bán hàng hoá đó.
2.2. Hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thƣơng mại:
a. Chủ thể:
Hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại là một loại
hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng. Chính bởi vậy ít nhất điều kiện về chủ thể
của hợp đồng phải đạt đủ điều kiện của chủ thể hợp đồng mua bán hàng hoá
nói chung. Do tính chất đặc biệt của loại hợp đồng này nên pháp luật đã quy
định chỉ những chủ thể đặc biệt và phải đạt đủ điều kiện thì mới được tham
gia quan hệ này.
4
Trước đây khi nhà nước còn độc quyền về ngoại thương thì chủ thể của
các hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại chủ yếu là các
doanh nghiệp nhà nước. Khi nhà nước xoá bỏ cơ chế tập trung bao cấp để
chuyển sang cơ chế thị trường thì các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hợp
đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại được phát triển rộng
hơn, thể hiện quyền tự do kinh doanh của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Khi đó chủ thể của quan hệ hợp đồng này là các thương nhân: bao gồm cả cá
nhân và pháp nhân( các loại hình doanh nghiệp).
b. Đối tượng
Do tính chất đặc biệt của loại hợp đồng này nên đối tượng của hợp đồng
cũng khác với hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường. Với hợp đồng mua
bán hàng hoá thông thường thì đối tượng của nó có thể là các loại hàng hoá
thông thường hay hàng hoá đặc biệt nhưng số lượng của nó là ít. Nhưng riêng
với hàng hoá trong lĩnh vực kinh doanh thương mại thì hàng hoá phải là
những loại có số lượng lớn và phải là những loại hàng hoá được phép kinh
doanh, đối với những hàng hoá hạn chế kinh doanh hay kinh doanh có điều
kiện thì phải tuân thủ những quy định của pháp luật về những hàng hoá đó.
Trong mỗi thời kì khác nhau thì các loại hàng hoá trong kinh doanh
thương mại lại khác nhau. Hiện nay theo quy định tại Điều 3 khoản 2 Luật
thương Mại 2005 thì hàng hoá đó là: “ Tất cả các loại động sản, kể cả động
sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai”.
c. Khách thể
Nếu khách thể của hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường là hàng
hoá và lợi ích thu được từ việc mua bán hàng hoá đó thì khách thể của hợp
đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại chỉ là lợi nhuận.
5
CHƢƠNG II: NHỮNG THAY ĐỔI CƠ BẢN CỦA
PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ
TRONG KINH DOANH THƢƠNG MẠI QUA TỪNG
THỜI KÌ
I. Giai đoạn trƣớc năm 1986
Cho đến nửa đầu thế kỉ XX, pháp luật về hợp đồng của Việt Nam nhìn
chung vẫn được quy định trong một thể thống nhất.
Trong giai đoạn cơ chế tập trung quan liêu bao cấp này thì khái niệm hợp
đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại còn rất mơ hồ. Hợp
đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại trong thời kì này không
khác với hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường cho mấy. Và pháp luật
điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong thời kì này rất ít, hầu như là không có.
Trong thời kì Phong Kiến và trong thời kì Pháp Thuộc thì hầu hết các quan hệ
hợp đồng đều được điều chỉnh bởi các phong tục tập quán, các tục lệ, các quy
phạm đạo đức.
Trong giai đoạn này thì các quan hệ hợp đồng dân sự hầu như bị bỏ ngỏ
và không được chú trọng tới, không một văn bản nào chính thức điều chỉnh
các quan hệ này. Điều này cho thấy vai trò và vị trí mờ nhạt của pháp luật dân
sự nói chung và pháp luật hợp đồng nói riêng.
Khác với hợp đồng dân sự, với xu hướng coi sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể là hai loại hình sở hữu chủ yếu đối với tư liệu sản xuất trong nền kinh
tế kế hoạch hoá tập chung cùng với mô hình quản lý mà các nhà làm luật Việt
Nam tiếp thu từ liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước kia, mộy
ngành luật kinh tế ở Việt Nam đã dần được hình thành và kèm theo đó, pháp
luật về hợp đồng kinh tế cũng được chú trọng và đóng một vai trò vô cùng
quan trọng trong công cuộc xât dựng và quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
giai đoạn này.
6
Hợp đồng kinh tế lần đầu tiên được quy định dưới khái niệm “Hợp đồng
kinh doanh” theo điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh ban hành kèm theo
quyết định số 735/ttg ngày 10/4/1956, đến năm 1960 khái niệm “ Hợp đồng
kinh tế” chính thức được sử dụng trong điều kiện tạm thời về chế độ hợp đồng
kinh tế ban hành kèm theo nghị định số 54 của Chính Phủ quy định về chế độ
hợp đồng kinh tế thay thế cho nghị định số 004/NĐ_TTg.
Với đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là sự phát triển kinh tế theo kế
hoạch tập trung cao độ nên pháp luật hợp đồng kinh tế thời kì này đã phản
ánh đúng bản chất và chức năng của hợp đồng khác hẳn với bản chất nguyên
gốc của nó.
Về chức năng : Hợp đồng kinh tế là căn cứ thực hiện và hoàn thành chỉ
tiêu kế hoạch của nhà nước.
Về dấu hiệu : Hợp đồng kinh tế được phân biệt với hợp đồng dân sự ở
khía cạnh chủ thể và mục đích kí kết hợp đồng. Các chủ thể này kí kết hợp
đồng với nhau trên cơ sở sự chỉ đạo của cơ quan quản lý nhà nước. Quan hệ
hợp đồng kinh tế thời kì này không phản ánh đúng bản chất của quan hệ hàng
hoá, tiền tệ. Hợp đồng kinh tế cũng mất đi giá trị đích thực của mình với tư
cách là hình thức pháp lý chủ yếu của quan hệ kinh tế.
II.Giai đoạn sau năm 1986
Bước sang cơ chế thị trường, trong điều kiện đổi mới, khi quyền tự do
kinh doanh được xem như một quyên tắc hiến định thì nguyên tắc tự do, tự
nguyện, bình đẳng, tính độc lập và tự chịu trách nhiệm về tài sản được coi là
nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hợp đồng. Cũng chính nguyên tắc đó, cùng
nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng, tính độc lập và tự chịu trách nhiệm về
tài sản được coi là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hợp đồng. Cũng chính
nguyên tắc đó cùng nguyên tắc tự định đoạt của việc giải quyết tranh chấp đã
chi phối toàn bộ quan hệ trao đổi của nền kinh tế thị trường. Điều đó dường
như đã làm mờ nhạt ranh giới đã được xác định giữa hợp đồng kinh tế và hợp
đồng dân sự trong cơ chế kế hoạch hoá. Để thích ứng với cơ chế kinh tế mới,
7
hợp đồng kinh tế đã buộc phải xác định lại tiêu chí nhận dạng của nó bao
gồm: Chủ thể, mục đích và hình thức hoạt động.
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 ngay tại Đ1 đã định nghĩa về
hợp đồng kinh tế với bản chất hoàn toàn mới so với trước đây : “ Hợp đồng
kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu, giao dịch giữa các bên kí kết
về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu,
ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh
doanh có sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng
cà thực hiện kế hoạch của mình “.
Như vậy, pháp luật hợp đồng kinh tế trong giai đoạn mới đã phản ánh
một cách nhìn nhận hoàn toàn khác về hợp đồng kinh tế, theo đó thừa nhận
nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng , thừa nhận địa bình đẳng của các bên
tham gia hợp đồng kinh tế và quan trọng hơn đó là gỡ bỏ những ràng buộc về
trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng trước nhà nước, hạn chế sự can
thiệp và chỉ đạo sâu của nhà nước vào trong mối quan hệ này, thừa nhận mục
đích kí kết hợp đồng của các bên là nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh
doanh của chính mình.
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế là văn bản pháp luật có thể coi là đầu tiên
điều chỉnh về hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại một
cách rõ ràng nhất.
Nền kinh tế của nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi và ngày một
phát triển dẫn đến các quan hệ kinh doanh thương mại cũng phát triển theo
đòi hỏi pháp luật phải có sự thay đổi, bổ sung cho phù hợp.
Từ khi có pháp lệnh hợp đồng kinh tế cho đến khi bộ luật dân sự ra đời
thì sự khác biệt cơ bản nhất giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế chính
là mục đích kí kết hợp đồng. Mục đích kí kết hợp đồng kinh tế là nhằm phục
vụ hoạt động sản xuất kinh doanh thì mục đích của hợp đồng dân sự chỉ nhằm
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tiêu dung.
8
Tuy nhiên, cho đến khi bộ luật dân sự 1995 ra đời ( Bộ luật này được
Quốc Hội thông qua ngày 28/10/1995 và có hiệu lực 1/7/1996 ) thì ranh giới
giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự càng trở nên mong manh khó xác
định. Khái niệm hợp đồng dân sự bao chum lên khái niệm hợp đồng kinh tế.
Việc khó xác định ranh giới giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự
đã làm cho quan hệ hợp đồng trong kinh doanh thương mại không đi vào cuộc
sống hay pháp luật khó được thực thi. Việc khó phân biệt này sẽ tất yếu dẫn
đến việc xác định sai quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng và khi
sảy ra tranh chấp thì không biết thẩm quỳên giải quyết thuộc về ai, nếu như
trong hợp đồng các bên không thoả thuận về phương thức giải quyết tranh
chấp.
Trước bối cảnh ấy, khoa học pháp lý Việt Nam đã và đang phải đối mặt
với một vấn đề thực tiễn nan giải là : Liệu luật kinh tế có thể tồn tại với tư
cách là một ngành luật độc lập hay không? Và số phận của hợp đồng kinh tế
trong cơ chế kinh tế mới như thế nào khi mà điều kiện kinh tế xã hội khách
quan, nơi mà nó được sinh ra để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là cơ chế
kinh tế kế hoạch hoá tập trung không còn nữa?.
Khi sự tồn tại song song và đồng thời của hai hợp đồng kinh tế và hợp
đồng dân sự còn đang gây nhiều tranh cãi thì năm 1997, Luật Thương Mại ra
đời ( Quốc Hội thông qua ngày 10/5/1997), trong đó điều chỉnh các hành vi
thương mại của thương nhân và quy định một số hợp đồng đặc thù trong lĩnh
vực thương mại. Có thể nói đây là một văn bản chứa đựng nhiều tư tưởng tiến
bộ và phối hợp với quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế thị
trường. Tuy nhiên trong bối cảnh luật pháp Việt Nam mà cụ thể là pháp luật
về hợp đồng Việt Nam thì sự ra đời của Luật Thương Mại lại góp phần làm
rắc rối thêm những khó khăn trong việc áp dụng và thực thi pháp luật hợp
đồng. Được xây dựng không dựa trên quan điểm nhất quán nào về mối quan
hệ với Luật Dân Sự cũng như không nhằm làm thay thế Pháp lệnh hợp đồng
kinh tế hay dung hoà những mâu thuẫn nội tại trong pháp luật về hợp đồng
9
của Việt Nam, vô tình Luật Thương Mại lại càng làm nổi bật hơn những
vướng mắc về mặt lý luận và thực tiễn trong hệ thống các quy định về hợp
đồng của chúng ta.
Luật Thương Mại điều chỉnh hành vi thương mại của các thương nhân,
đồng thời quy định một số loại hợp đồng cụ thể trong lĩnh vực thương mại với
các yêu cầu về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, phương thức giải quyết
tranh chấp, thời hiệu giải quyết tranh chấp khá khác biệt. Luật này một phần
lặp lại các nguyên tắc của Luật Dân Sự về hợp đồng, mặt khác lại không quy
định mộ cách toàn diện và đầy đủ các vấn đề pháp lý có liên quan đến hợp
đồng trong khi cũng không dẫn chiếu đến các văn bản điều chỉnh khác. Vì
vậy, một số quan hệ hợp đồng thương mại đồng thời cũng rơi vào tầm điều
chỉnh của hợp đồng kinh tế, một số khác lại rơi vào phạm vi điều chỉnh của
Luật Dân Sự, dẫn đến sự khác nhau trong cơ chế điều chỉnh và áp dụng luật
đối với các quan hệ mang bản chất giống nhau.
Để giải quyết vấn đề này và đồng thời đáp ứng theo nền kinh tế mở cửa
và đang dần hội nhập với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới thì
đòi hỏi nhà lập pháp phải thay đổi pháp luật cho phù hợp.
Theo điều kiện đó thì Bộ Luật Dân Sự 2005 ( Quốc Hội thông qua ngày
14/6/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2006 ). Văn bản pháp luật này ra đời và
có hiệu lực cũng là lúc chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế
1989. Cũng trong năm 2005 thì Luật Thương Mại 2005 (Quốc Hội thông qua
ngày 14/6/2005 ) ra đời thay thế cho Luật Thương Mại 1997. Khi hai văn bản
này ra đời thì hầu như chấm dứt hay hạn chế tối đa việc quy định lẫn lộn giữa
hai loại hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế. Và tại Luật Thương Mại 2005
đã cho thấy rõ nét nhất về những thay đổi của pháp luật hợp đồng mua bán
hàng hoá trong kinh doanh thương mại khi Việt Nam sắp trở thành thành viên
của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Những thay đổi này được thể hiện
chính thông qua những quy định mới, khác của hợp đồng mua bán hàng hoá
trong Luật Thương Mại 2005 so với Luật Thương Mại 1997.
10
III. Những thay đổi cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hoá
trong kinh doanh thƣơng mại đƣợc quy định trong Luật thƣơng
mại 2005 so với Luật thƣơng mại 1997.
1. Chủ thể
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá là thương nhân và các tổ chức,
cá nhân không phải là thương nhân.
Thương nhân là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá theo quy định
tại Luật Thương Mại 1997 khác với Luật Thương Mại 2005;Theo Điều 17_
Luật Thương Mại 1997 quy định: “ Hộ gia đình, tổ hợp tác có đủ điều kiện để
kinh doanh thương mại theo quy định của pháp lụât nếu có yêu cầu hoạt động
thương mại thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấo giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân”; Còn theo quy định của Luật
Thương Mại 2005 thì hộ gia đình và tổ hợp tác không được xếp là tổ chức hay
cá nhân cho nên nó sẽ không phải là thương nhân.
2. Đối tƣợng
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá là hàng hoá
Theo Điều 5 khoản 3_ Luật Thương Mại 1997 quy định hàng hoá chỉ
bao gồm máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng,
các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh
dưới hình thức cho thuê, bán. Theo đó, nhiều loại tài sản khác không được coi
là hàng hoá như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu,
và các chứng từ có giá, bí quyết và các loại tài sản vô hình khác. Việc giải
quyết tranh chấp có liên quan đến các loại tài sản này sẽ không được coi là
tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại theo
pháp luật Việt Nam. Như vậy, quy định về hàng hoá của Luật Thương Mại
1997 là đối tượng hẹp so với thông lệ quốc tế, điều này đã gây ra những khó
khăn nhất định khi chúng ta gia nhập WTO.
11
Theo Điều 3 khoản 2_ Luật Thương Mại 2005 đã mở rộng quy định về
hàng hoá. Theo đó, hàng hoá bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản
hình thành trong tương lai; và các vật gắn liền với đất đai. Tuy nhiên, khái
niệm về hàng hoá vẫn còn hạn chế, chúng ta dễ dàng nhận thấy trong quy
định này : Hàng hoá chỉ bao gồm các loại tài sản hữu hình. Như vậy các loại
tài sản vô hình khác như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ…..chưa
được thừa nhận là hàng hoá. Trong khi đó các văn bản khác như Bộ Luật Dân
Sự 2005, Luật Đất Đai 2003 quy định người có quyền sử dụng đất có quyền
chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp…..thậm chí thừa nhận trên thực tế sàn
giao dịch về quyền sử dụng đất.
3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá là cách thức thể hiện ý chí
thoả thuận giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Nó có thể thực hiện bằng
lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại
hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn
bản thì phải tuân theo các quy định đó. Hình thức văn bản bao gồm cả điện
báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác.
Các hình thức hợp đồng mua bán hàng hoá đó đã tạo điều kiện thuận lợi
giúp cho các bên tham gia quan hệ mua bán hàng hoá có thể lựa chọn hình
thức phù hợp nhất đảm bảo quyền lợi của mình. Những quy định của Luật
Thương Mại Việt Nam phù hợp với pháp luật quốc tế về mua bán hàng hoá,
đã bước đầu tạo ra những quy định tương thích với không gian pháp lý quốc
tế, tạo điều kiện cho sự hội nhập khi các chủ thể có quan hệ hợp đồng thương
mại quốc tế. Như vậy Luật Thương Mại 2005 đã vượt ra và khắc phục được
hạn chế về hình thức hợp đồng do các văn bản pháp luật trước đó quy định về
vấn đề này, ví dụ như Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Quy định này cũng khắc phục được hạn chế của Luật Thương Mại 1997.
Luật Thương Mại 1997 có sự phân biệt về hình thức giữa hợp đồng mua bán
hàng hoá trong nước với hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước
12
ngoài. Hình thức hợp đồng bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể chỉ được
áp dụng đối với các hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước. Còn hợp đồng
mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài phải được lập thành văn bản
và đó cũng là hình thức duy nhất đối với hợp đồng mua bán hàng hoá với
thương nhân nước ngoài.
4. Nội dung
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá là tất cả những gì mà các bên
thoả thuận và pháp luật quy định đối với một hợp đồng, theo đó hình thành
nên quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Một hợp đồng mua bán
hàng hoá sẽ có giá trị pháp lý khi thoả mãn tối thiểu những điều kiện về nội
dung mà pháp luật quy định. Khi thiếu một trong các nội dung đó thì hợp
đồng không thể phát sinh hiệu lực.
Luật Thương Mại 1997 quy định: Hợp đồng mua bán hàng hoá, dù là
trong nước hay đối với thương nhân nước ngoài phải có các nội dung chủ yếu
sau đây: Tên hàng, số lượng hàng hoá, quy cách, chất lượng hàng hoá, giá cả
hàng hoá, phương thức thanh toán, thời hạn và địa điểm giao nhận hàng hoá
và các thoả thuận khác. Tuy nhiên, đến Luật Thương Mại 2005 đã không quy
định về nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá. Trên cơ sở việc xác lập
mối quan hệ với Bộ Luật Dân Sự 2005, khi xem xét về nội dung của hợp đồng
mua bán hàng hoá chúng ta có thể dựa trên các quy định chung của Bộ Luật
Dân Sự 2005.
5. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
Giao kết hợp đồng là một bước rất quan trọng trong việc xác lập quan hệ
hợp đồng giữa các bên. Nếu giao kết hợp đồng không phù hợp với quy định
của pháp luật thì quan hệ hợp đồng sẽ không tồn tại, hay nếu khi giao kết hợp
đồng các bên không thể hiện được đúng ý định, mục đích của mình thì tất yếu
sảy ra tranh chấp. Khi đó sẽ gây cho các bên những thiệt hại không đáng có.
Mục đích giao kết hợp đồng không đạt được.
13
Trong vấn đề đề nghị giao kết hợp và chấp nhận giao kết hợp đồng thì
Luật Thương Mại 1997 và Luật Thương Mại 2005 hầu như không có sự thay
đổi. Tuy nhiên về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thì có sự khác nhau. Cụ
thể là ở Luật Thương Mại 1997 có quy định thời hạn có hiệu lực của hợp
đồng, đó là 30 ngày kể từ ngày chào hàng được chuyển cho bên chào hàng.
Nhưng trong Luật Thương Mại 2005 và trong Luật Dân Sự 2005 lại không
quy định cụ thể vấn đề này.
6. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh
doanh thƣơng mại.
Trong quan hệ kinh doanh thương mại nói riêng và trong quan hệ mua
bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại nói riêng thì tranh chấp sảy ra
giữa các bên là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy việc quy định cách thức giải
quyết tranh chấp là điều rất quan trọng và cần thiết.
Trước khi Luật Thương Mại 2005 ra đời thì cơ chế giải quyết các tranh
chấp trong hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại thuộc
sự điều chỉnh của Luật Thương Mại 1997( chương IV) và pháp lệnh hợp đồng
kinh tế 1989, cùng pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 1994. Nhưng
khi bộ Luật Dân Sự 2005 ra đời đã chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh hợp đồng
kinh tế 1989, khi đó cơ chế giải quyết các tranh chấp về hợp đồng mua bán
hàng hoá trong kinh doanh thương mại chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật
Thương Mại 2005( chương VII) và Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Và
Bộ Luật tố tụng dân sự 2004.
Điều này tạo rất nhiều thuận lợi cho các chủ thể khi tham gia quan hệ
này. Bởi có trường hợp do mâu thuẫn thẩm quyền cũng như việc khó khăn khi
chọn luật áp dụng cho việc giải quyết những tranh chấp khi nó sảy ra đã làm
cho các chủ thể gặp rất nhiều rủi ro, tốn kém. Việc thống nhất pháp luật về
hợp đồng nói chung và pháp luật giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
thương mại nói riêng cũng là một nghĩa vụ khi Việt Nam trở thành thành viên
của WTO.
14
CHƢƠNG III. PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HOÁ TRONG KINH DOANH THƢƠNG MẠI
KHI VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO
I. Những cam kết của Việt Nam về lĩnh vực thƣơng mại
hàng hoá khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức
thƣơng mại thế giới (WTO).
1. Gia nhập WTO
WTO là tên viết tắt tiếng Anh của Tổ chức thương mại thế giới. WTO
được chính thức thành lập từ ngày 1/1/1995 theo hiệp định thành lập tổ chức
thương mại thế giới ký tại Marrakéh (Marốc) ngày 15/4/1994
WTO ra đời với bốn chức năng chính là:
Thứ nhất: hỗ trợ và giám sát việc thực hiện các hiệp định WTO
Thứ hai: Thúc đẩy sự tự do hoá thương mại và là diễn đàn cho các cuộc
đàm phán thương mại.
Thứ ba: Giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên.
Thứ tư: Rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên
WTO là một hệ thống thương mại đa phương, nên việc trở thành thành
viên của WTO sẽ đem lại những lợi ích như:
Thứ nhất: Mở rộng cơ hội thương mại với các nước thành viên WTO
trên cơ sở được hưởng những ưu đãi do kết quả 50 năm đàm phán từ khi
thành lập Hiệp định chung về thuế quan thương mại (GATT) đến nay.
Thứ hai: Tạo ra môi trường kinh doanh ổn định hơn thông qua quan hệ
thương mại rang buộc chặt chẽ, các quy định rõ ràng và khả năng dự báo
trước.
Thứ ba: Thông qua một cơ chế giải quyết tranh chấp để bảo vệ các
quyền lợi cuả mình.
Thứ tư: Thoát khỏi thế cô lập, hội nhập với nền kinh tế thế giới, qua đó
nâng cao lợi ích kinh tế và lợi ích các mặt khác.
15
Thứ năm: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước thông qua việc đặt
các doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh, tiếp cận với công nghệ, trình độ,
chất lượng quốc tế, đổi mới hệ thống luật pháp, tăng cường thu hút vốn đầu tư
dưới các hình thức khác nhau.
Từ những phân tích trên cho thấy Việt Nam cần thiết phải ra nhập WTO
để hoàn thiện mình, đưa nền kinh tế đất nước phát triển theo tiến trình phát
triển của nền kinh tế thế giới.
Sau 11 năm đàm phán gia nhập WTO thì đến tháng 11/2006 Việt Nam
chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới. Và
đã tham gia ký kết trên 20 hiệp định thương mại song phương và đa phương.
2. Cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO
Để bước vào sân chơi mới thì Việt Nam phải cam kết thực hiện những
quy định chung của sân chơi mới này.
Theo kết quả đàm phán, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định
và quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm mới gia nhập. Tuy
nhiên do nước ta đang phát triển ở trình độ thấp lại đang trong quá trình
chuyển đổi nên ta yêu cầu và được WTO chấp nhận cho hưởng một thời gian
chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến Thuế tiêu thụ đặc
biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh. Thể hiện thông qua các cam
kết về thương mại hàng hoá.
Các cam kết chính trong vấn đề đa phương là: Việt Nam chấp nhận bị
coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm tức là không muộn hơn
31/12/2018. Tuy nhiên trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh được với đối
tác nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo kinh tế thị trường thì
đối tác đó ngừng áp dụng chế độ “phi thị trường” với ta. Và các thành viên
WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù với hàng xuất khẩu nước
ta mặc dù bị coi là nền kinh tế phi thị trường.
Cam kết này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế.
Việc bị coi là nền kinh tế phi thị trường sẽ làm cho hàng hoá xuất khẩu của
16
chúng ta không được bảo vệ. Theo đó các chủ thể của quan hệ hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế mà là bên Việt Nam là bên bán hàng rất không có lợi.
Họ rất rễ trở thành bị đơn trong các vụ kiện quốc tế, điều này làm cho họ bị
thiệt hại rất nhiều và gây tâm lý không muốn tham gia thị trường thế giới vì
họ không được bảo vệ.
Chính vì vậy nhà nước ta phải ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các
văn bản pháp luật cho phù hợp với tình hình kinh tế đất nước trong thời đại
mới. Đồng thời đó cũng chính là nghĩa vụ của chúng ta. Điển hình là sự ra đời
của Luật cạnh tranh, Luật đầu tư, Luật thuế,…..cùng các nghị định hướng dẫn
thi hành nhằm nội luật hoá các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên
hay các nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế để cho các chủ thể khi tham
gia các quan hệ pháp luật không bị bỡ ngỡ, cũng như tạo sự chủ động hơn cho
họ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Gia nhập WTO thì sự thay đổi quan trọng nhất là sự không phân biệt đối
xử giữa người Việt Nam và người nước ngoài trong việc tham gia các hoạt
động thương mại.
3. Pháp luật hợp đồng mua bán hàng hoá trong kinh doanh thƣơng
mại khi Việt Nam là thành viên của WTO.
3.1. Chủ thể
Cam kết khi gia nhập WTO thể hiện rất rõ quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp nước ngoài, không phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp nước ngoài. Điều này đã làm cho quan hệ hợp đồng mua bán
hàng hoá càng phát triển do chủ thể của hợp đồng tăng lên. Cụ thể là trong
bản cam kết gia nhập WTO Việt Nam đã cam kết về quyền nhập khẩu và xuất
khẩu hàng hoá:” Các thành viên đề nghị Việt Nam cam kết kể từ ngày gia
nhập, mọi thể nhân hoặc pháp nhân, dù là thể nhân hay pháp nhân Việt Nam
hoặc nước ngoài, đều có quyền trở thành nhà nhập khẩu hoặc xuất khẩu đứng
tên trên hồ sơ đối với mọi sản phẩm được phép nhập khẩu vào Việt Nam hoặc
xuất khẩu từ Việt Nam, và trong trường hợp nhập khẩu sẽ có quyền bán hoặc
17
cung cấp các sản phẩm đó cho mọi thể nhân hoặc pháp nhân Việt Nam hay
nước ngoài, có quyền phân phối các sản phẩm đó. Một thành viên lưu ý rằng
hiện tại quyền nhập khẩu đòi hỏi nhà nhập khẩu phải có đầu tư vào Việt Nam.
Một thành viên cũng đề nghị Việt Nam xác nhận rằng tới thời điểm Việt Nam
gia nhập WTO, quyền kinh doanh sẽ được quản lí phù hợp với mọi quy định
liên quan của WTO. Một số thành viên cũng đề nghị Việt Nam cam kết sẽ
giành quyền kinh doanh đối với mọi hàng hoá chịu sự điều chỉnh của cơ chế
thương mại nhà nước vào một thời điểm xác định cụ thể trong tương lai và sẽ
đảm bảo rằng các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp do nhà nước kiểm
soát và các doanh nghiệp được hưởng lợi ích mang tính độc quyền hoặc đặc
quyền sẽ tuân theo các tiêu chí thương mại và nguyên tắc không phân biệt đối
xử”.
Để trả lời cho vấn đề này thì chúng ta đã cam kết theo các mục từ 137
đến 147 của báo cáo của ban công tác. Theo đó trong lĩnh vực mua bán hàng
hoá, Việt Nam thực hiện bằng việc ban hành các văn bản pháp luật để cụ thể
hoá cam kết của mình, đó là:
Thứ nhất: Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư
trong năm 2005, Nghị định số 12/2006/NĐ-CP về hoạt động mua bán hàng
hoá quốc tế, nhằm thống nhất pháp luật điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hoá
trong nước cũng như quốc tế.
Thứ hai: Đại diện Việt Nam lưu ý rằng để có quyền nhập khẩu, các cá
nhân hoặc doanh nghiệp muốn trở thành nhà nhập khẩu đứng tên trên hồ sơ
không bắt buộc phải đầu tư tại Việt Nam, dù là mức tối thiểu, mà chỉ cần làm
thủ tục đăng kí. Theo đó Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 23/2007/NĐCP quy định về hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan đến
mua bán hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
và Nghị định số 90/2007/NĐ-CP quy định về quyền xuất khẩu, nhập khẩu của
thương nhân nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt Nam.
18
Tuy nhiên nếu cá nhân hoặc doanh nghiệp muốn trở thành nhà nhập
khẩu đứng tên trên hồ sơ đăng ký để trở thành nhà nhập khẩu đứng tên trên hồ
sơ đăng ký, thì cá nhân hay doanh nghiệp đó phải tiến hành đăng ký kinh
doanh tại Việt Nam. Theo đó Chính Phủ đã ra Nghị định số 88/2006/NĐ-CP
ngày 29/8/2006 về đăng kí kinh doanh. Theo nghị định này thì các cá nhân
phải thực hiện đăng kí kinh doanh để tham gia xuất khẩu và nhập khẩu; và
Nghị định 101/2006/NĐ-CP quy định về đăng kí lại, chuyển đổi và đăng kí
đổi giấy chứng nhận đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
theo quy định của Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư. Hai nghị định này giúp
cho các bên kinh doanh nước ngoài về mặt thủ tục khi tham gia vào môi
trường kinh doanh tại Việt Nam. Qua đó đối với nhà đầu tư nước ngoài thì
giấy chứng nhận đầu tư cũng chính là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Bên cạnh đó chúng ta cũng đã mở rộng phạm vi kinh doanh cho các
doanh nghiệp khi họ đăng ký ngành nghề kinh doanh: Các nhà đầu tư trong
nước, kể cả là doanh nghiệp hay hộ kinh doanh cá thể, đều được tự do đăng
ký mọi ngành nghề kinh doanh, trừ những ngành nghề bị pháp luật Việt Nam
cấm. Chính Phủ cũng đã ban hành Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12
tháng 6 năm 2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm
kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
Ngoài ra Chính Phủ đang dự thảo Nghị định mới nhất trong đó quy định
bãi bỏ yêu cầu về vốn đầu tư tối thiểu. Điều này giúp cho các cá nhân và
doanh nghiệp nước ngoài dễ dàng gia nhập thị trường Việt Nam hơn khi rào
cản về vốn không còn nữa.
Từ những quy định đó ta có thể khẳng định sau khi Việt Nam gia nhập
WTO thì chủ thể của quan hệ mua bán hàng hoá trong kinh doanh thương mại
sẽ tăng lên rất nhiều.
19
3.2. Đối tƣợng
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá khi Việt Nam là thành viên
của WTO cũng thay đổi bởi có sự tham gia quan hệ này của rất nhiều chủ thể
nước ngoài. Tuy vậy về cơ bản thì sự thay đổi đó không phải lớn bởi theo
quyền tự do kinh doanh của mọi cá nhân và doanh nghiệp, theo đó đối tượng
của hợp đông là tất cả những loại động sản, kể cả bất động sản hình thành
trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai (Điều 3 khoản 2 Luật thương
mại 2005). Tuy nhiên không phải tất cả các hàng hóa đó đều được phép kinh
doanh. Chính Phủ quy định có những loại hàng hoá kinh doanh có điều kiện
và khi gia nhập WTO những loại hàng hoá này được quy định trong Nghị
định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2006 quy định chi tiết Luật
thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh
doanh có điều kiện.
Mặc dù chúng ta đảm bảo quyền kinh doanh của cá nhân và doanh
nghiệp nước ngoài nhưng các cam kết đó sẽ không ảnh hưởng đến quyền của
ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối
với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo - tạp chí….
Hay như để bảo hộ nền sản xuất trong nước khi chung ta mới gia nhập
thị trường quốc tế, để giúp cho các nhà sản xuất này có thể chuẩn bị thích ứng
với sự cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài. Theo đó chúng ta định có
một số loại hàng hoá sẽ bị hạn chế nhập khẩu vào Việt Nam cũng như Việt
Nam sẽ đánh thuế cao đối với hàng nhập khẩu đó, Ngoài ra chúng ta còn quy
định hạn chế định lượng đối với một số hàng hoá mà chúng ta không khuyến
khích lưu thông trong nước để đảm bảo mục tiêu an toàn, sức khoẻ và môi
trường. Bao gồm cấm, hạn ngạch và chế độ cấp phép nhập khẩu. Ví dụ như :
Ta đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày
31/5/2007; Với thuốc lá điếu và xì gà, đây cũng là một phần của chương trình
chống hút thuốc nhằm hạn chế sản xuất và tiêu thụ thuốc lá. Chính phủ đã quy
20
- Xem thêm -