Mô hình hóa môi trường- Mô hình đánh giá ô nhiễm hồ chứa
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
Chương 1: GIỚI THIỆU
Hiện nay, ô nhiễm môi trường đang là vấn đề báo động song hành với
sự phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển. Tại nhiều
nơi, chất lượng nước, đất, không khí suy giảm nhanh chóng vượt qua khả năng
tự làm sạch tự nhiên.
Trong lĩnh vực khoa học quản lý môi trường và kỹ thuật môi trường,
việc quan trắc dự báo diễn biến mọi trường mang tầm quan trọng cho các
quyết định giải quyết vấn đề. Tuy nhiên việc đo đạc, quan trắc môi trường rất
tốn kém kinh phí và công suất con người. Nhằm giảm thiểu khó khăn này, các
nhà khoa học đã và đang tiếp túc phát triển và ứng dụng các mô hình đánh
giá chất lượng, ô nhiễm, quản lý môi trường.
“Môi hình đánh giá ô nhiễm hồ chứa” là một trong những thành công
của Mô hình hóa môi trường. Mô hình này giúp các nhà quản lý tính toán, dự
đoán được mức độ ô nhiễm của hồ ở hiện tại và tương lai.
CBGD:Trần Ngọc Châu
1
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
Chương 2: NỘI DUNG
2.1.
Giới thiệu về hồ chứa
Hồ được định nghĩa là thủy vực giới hạn bởi bờ, có thể khép kín hoặc
không khép kín. Theo độ sâu hồ được chia thành hai loại: hồ nông và hồ sâu.
Hồ nông có độ sâu dưới 7 m có điều kiện quang hợp tốt; khả năng
phú dưỡng cao.
Hồ sâu có độ sâu trên 7 m nơi chế độ phân tầng về nhiệt độ, chất
dinh dưỡng và oxy rõ rệt.
Mô hình hóa chất lượng nước trong hồ (lake) và hồ chứa (reservoir) có
sự khác biệt so với mô hình hóa chất lượng nước sông, cửa sông hoặc bờ biển.
Tuy mục đích sử dụng của nước hồ tương tự nước sông như cung cấp các tiện
nghi, thủy sản và cấp nước, nhưng những đặc điểm môi trường của hồ chứa
tạo nên sự khác biệt rất lớn so với kênh sông nơi có dòng chảy.
Phần lớn mô hình hồ và hồ chứa đều liên quan tới sự phân tầng nhiệt và
phú dưỡng, sự quan tâm về BOD/DO có vị trí quan trọng thứ hai, tảo được
quan tâm nhiều hơn so với vi khuẩn.
Hình 2.1: Hồ chứa nhu cầu sinh hoạt
CBGD:Trần Ngọc Châu
Hình 2.2: Hồ chứa nhu cầu thủy điện
2
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
2.2. Ứng dụng mô hình vào quản lý hồ chứa
2.2.1. Mô Hình Toán Học của thủy động lực học và chất lượng nước
trong một hồ chứa nhiệt đới, Đông Bắc Brazil (Braz. J. Aquat. Sci.
Technol., 2008, 12(1):19-30.)
Tóm tắt
Araujo, M. Costa, M.F.; Aureliano, J.T. & Silva, M.A. năm 2008. Mô
hình toán học của thủy động lực học và chất lượng nước trong một hồ chứa
nhiệt đới, vùng Đông Bắc Brazil. Braz. J. Aquat. Braz. J. Aquat. Sci. Technol.
12(1):19-30. ISSN 1808-7035. Hệ thống sông Pirapama trong bang
Pernambuco, Đông Bắc Brazil, là một trong những nguồn nước lớn cuối cùng
của nguồn cung cấp nước đầy đủ cho khu vực. Hồ chứa được xây dựng để lưu
trữ nước để sử dụng trong sinh hoạt, nông nghiệp và công nghiệp. Tuy nhiên,
việc hình thành các hồ chứa sẽ bắt đầu một quá trình vật chất khoáng hữu cơ,
dẫn đến hiện tượng phú dưỡng của vùng biển và sự suy giảm nồng độ oxy hòa
tan, dẫn đến hiện tượng thiếu ôxy gần lòng hồ. Hồ nước cũng bị ảnh hưởng
bởi yếu tố đầu vào thượng nguồn nước thải sinh hoạt, nông nghiệp và nước
thải từ các nhà máy mía đường và chưng cất. Công việc này được áp dụng một
cách tiếp cận một chiều thẳng đứng (CE-Qual-R1) để mô phỏng sự hình
thành của các hồ chứa, phân tích các lựa chọn các hoạt động thay thế khác
nhau. Hiện tượng phú dưỡng, thiếu oxy và nhiệt phân tầng tiềm năng đã được
nghiên cứu. Dữ liệu chất lượng nước thu được trong 17 tháng được sử dụng để
điều chỉnh tỷ lệ mô hình và các thông số. Sau khi mô hình đã được hiệu chuẩn,
xác nhận, kịch bản giả định hoạt động được mô phỏng, có cách tính lượng
nước bơm vào hay xả thải ra. Điều kiện thiếu ôxy mạnh (DO nồng độ nhỏ hơn
1,0 mg.L-1), liên quan đến hiện tượng phú dưỡng cao (PO4 cao và nồng độ
chất diệp lục trong hồ cao), đã được tìm thấy trong tất cả các kịch bản mô
phỏng. Về chất lượng nướctrong hồ chứa, việc sử dụng các cửa thoát nước ở
đáy hồ làm cho chất lượng nước tốt hơn, vì nó làm cho các vùng nước thiếu
ôxy từ các lớp sâu nhất của hồ chứa thoát ra ngoài dễ dàng..Tuy nhiên, những
hoạt động này làm cho chất lượng nước hạ lưu hồ chứa bị tổn hại.
Từ khóa: hồ chứa năng động, hiện tượng phú dưỡng, lưu vực sông Pirapama,
mô hình CE-Qual-R1.
Giới thiệu
Do thời gian hạn hán dữ dội và kéo dài dân số của khu vực Recife
Metropolitan đã buộc chịu đựng thời gian thiếu nước nước nghiêm trọng. Lưu
vực sông Pirapama được coi là một trong những nguồn nước lớn cuối cùng có
sẵn trong bang Pernambuco. Chính phủ Nhà nước xác định xây dựng một hồ
chứa đặt tại sông Pirapama để tăng nguồn nước cho nông nghiệp đô thị, dân
cư và công nghiệp. Con đập trên sông Pirapama đã được lên kế hoạch xây
dựng có thể để phù hợp với nhu cầu trong khu vực. Con đập đã được hoạt
động từ năm 2011.
CBGD:Trần Ngọc Châu
3
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
Do sự phân tầng (nhiệt, hóa học hoặc thủy lực) vùng nước sâu nhất
của hồ chứa tạo điều kiện cho các loài vi khuẩn hoạt động dẫn đến sự thiếu
oxy . Vi khuẩn hoạt động có thể sản xuất các loại khí chẳng hạn như sulphua
và khí mê-tan có thể gây ra sự ăn mòn của cơ cấu đập, đường ống thủy lực và
máy móc thiết bị cung cấp nước. Do đó, nhân viên môi trường cần có biện
pháp khắc phục rủi ro (Heide, 1982). Để giảm những tổn hại đã được xem xét
nhiều lần trong thiết kế và xây dựng hồ chứa (Hernandez et al, 1989; Araujo et
al, 1990.Wu và cộng sự, 1996).
Trong bài báo này, mô hình toán học CE-Qual-R1 (USACE / WES,
1986) được sử dụng để suy ra sự thay đổi chất lượng nước trong hồ Pirapama,
nước vào hồ chứa và giai đoạn ổn định. Sự ảnh hưởng của hoạt động khác
nhau cũng được kiểm tra chặt chẽ. Trong phần đầu của nghiên cứu, kết quả
mô hình được so sánh với các dữ liệu chất lượng nước như là một cách để điều
chỉnh mô hình tỷ lệ và các thông số. Sau đó, hai trường hợp giả thuyết được
mô phỏng. Những tình huống này cho phép khám phá loại bỏ chất dư thừa
chảy ra hồ thông qua hai cấu trúc đập khác nhau trên hồ chứa .
Mô hình chất lượng nước và quản lý hồ chứa
Trong nỗ lực cuối cùng đáng kể, các nhà khoa học đã đóng góp
trong việc phát triển các mô hình toán học để dự đoán trạng thái phú dưỡng
của tự nhiên và nhân tạo trong hồ như các chức năng của đầu vào chất dinh
dưỡng (Jørgensen, 1986; Jørgensen & Bendoricchio, 2001). Các tác phẩm của
Chen & Orlob (1972) và Di Toro et al. (1971) đại diện trong lĩnh vực các mô
hình của hiện tượng phú dưỡng. Sau khi các mô hình chất lượng nước đầu tiên
đã được nghiên cứu , rất nhiều mô hình mới các công cụ mới đã nhanh chóng
phát triển với định hướng chủ yếu là ứng dụng thực tế cho quản lý môi
trường. Nyholm (1978), ví dụ phát triển một mô hình cho sự tăng trưởng thực
vật phù du, phốt pho và nitơ trong hiện tượng phú dưỡng hồ chứa. Mô hình
này đã được sử dụng để mô phỏng một chu kỳ dinh dưỡng 1-năm ở 12 hồ
khác nhau tại Đan Mạch, như là một phần của việc khảo sát chất lượng nước
được thực hiện bởi Viện chất lượng nước, Đan Mạch. Jørgensen et al. (1978)
xác nhận một mô hình phú dưỡng hóa sử dụng dữ liệu từ cả hai hồ Lyngby và
Glumso. Mô hình của họ đã được điều chỉnh trên cơ sở dữ liệu thu được từ các
phép đo của hồ Lyngby trong thời gian 1952-1958. Sau khi xác nhận, mô hình
đã được sử dụng để mô phỏng những thay đổi của hồ Lyngby trong giai đoạn
1959-1975.
Schnoor & OÂ'Connors (1980) cũng sử dụng một mô hình hiện
tượng phú dưỡng để điều tra sự phát triển dinh dưỡng của một hồ chứa thời
gian ngắn bị bỏ hoang tại Trung tâm Texas, Hoa Kỳ (Hồ Lyndon B. Johnson),
và hồ bị bỏ hoang một thời gian dài (Hồ Ontario). Những tác giả áp dụng
phương pháp này như một công cụ quản lý cho giới hạn photpho trong 81 hồ
của viện Khảo sát hiện tượng phú dưỡng quốc gia Hoa Kỳ (NES).
CBGD:Trần Ngọc Châu
4
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
Mô hình CE-Qual-R1 đã được sử dụng để đánh giá dữ liệu thu thập tại
một hồ chứa nhỏ trong tình trạng phú dưỡng ở gần Spring Valley, Wisconsin,
USA (Wlosinski & Collins, 1985). Dữ liệu thu thập hàng tuần hoặc hai tuần
một lần vào năm 1981 và 1982 đã được sử dụng như là một cơ sở cho việc
hiệu chuẩn và xác nhận việc mô phỏng. so sánh hơn 3200 giá trị đo được so
với dự đoán, trong 20 biến số khác nhau, được thực hiện cho từng năm. Kết
quả chỉ ra rằng mô hình có thể dự đoán thời gian biến đổi của chất lượng nước
tại hồ chứa.
Tundisi (1990) xác định và mô tả một số đặc điểm cơ bản của vùng
nhiệt đới và cận nhiệt đới của các hồ chứa nước ở Nam Mỹ rất cần thiết sử
dụng mô hình hóa. Tác giả cho rằng kích thước, khối lượng và quy mô của các
hệ sinh thái nhân tạo lớn rất tiện cho việc thực hiện của một số phương pháp
phương pháp tiếp cận hữu ích bằng các các mô hình, bao gồm cả hải dương
học kỹ thuật và sử dụng chuyên sâu của hình ảnh vệ tinh. Đồng thời, nó được
nhấn mạnh rằng đó là cần thiết để xem xét khả năng phục hồi của sông, chất
lượng nước sử dụng và các yêu cầu chế độ dòng chảy trong khu vực hạ lưu.
Trong cùng năm đó, Araujo et al. (1990) sử dụng mô hình CE-Qual-R1 để
phân tích tính hữu dụng và tính khả thi của cơ cấu thủy lực trong việc cho
phép quản lý thủ tục để kiểm soát chất lượng nước hồ chứa. Một ví dụ là
nghiên cứu về tính khả thi của một ống dẫn phía dưới hồ nhằm cải thiện chất
lượng nước Hồ chứa Cachoeira Porteira, Brazil. Các mô phỏng liên quan đến
bốn giả thuyết khác nhau, với việc xem xét tỷ lệ lưu lượng khác nhau thông
qua một cống thoát phía dưới. Các thay đổi xu hướng chất lượng hồ chứa nước
đã được phân tích, nhấn mạnh cường độ của sự phân tầng, hiện tượng phú
dưỡng, và thiếu ôxy do thảm thực vật tự nhiên bị ngập ún. Kết quả cho thấy,
cần xem xét cẩn thận vị trí đặt ống dẫn từ khâu thiết kế đến lúc vận hành hồ
chứa.
Tư liệu và phương pháp
Lưu vực sông Pirapama, bang Pernambuco, Brazil, diện tích bề mặt
600 km2 (Hình 2.3). Sông đầu nguồn dài 450m, và các dòng sông chạy dài
khoảng 80 km cho đến Đại Tây Dương (Araujo et al, 1999).
CBGD:Trần Ngọc Châu
5
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
Hình 2.3: Bang Pernambuco, Brazil với diện tích bề mặt 600 km2
Khí hậu nhiệt đới, ẩm ướt và ấm áp, và nhiệt độ trung bình là
26 ± 2.8 C. Lượng bốc hơi và lượng mưa hàng năm tương ứng là 1,5 m và 1,2
m. Vùng thuỷ văn đặc trưng bởi hai giai đoạn được xác định rõ: một mùa khô
(tháng 9 – tháng 3, lượng mưa hàng tháng khoảng 0.06m và lượng bốc hơi
>0.06m) và mùa mưa (tháng 3 – tháng 9, lượng mưa và bốc hơi tương đối
bằng nhau). Lưu vực tiếp nhận lượng nước lớn từ nông nghiệp và công nghiệp
không được xử lí, hoặc được xử lý một phần. Các vùng thấp được bao quanh
bởi rừng ngập mặn có chất lượng tương đối tốt. Các tính năng chính của hồ
chứa Pirapama được trình bày trong Bảng 2.1.
o
Bảng 2.1: Các tính năng chính của hồ chứa Pirapama
Tính năng
MLS ( độ cao tính thừ đáy)
Lưu lượng dòng chảy nhánh
Diện tích bề mặt ( độ cao 45,7m)
Khối lượng tích lũy ( độ cao 45,7m)
Cấu trúc bơm nước
Cấu trúc đập
Giá trị
23m
10,5 m3.s-1
6,610 x 103m2
60,973 x 103m2
Trên cao: 39,1m
Thấp hơn: 28,5m
Đập tràn: 45,7m; Ống dẫn phía dưới:
26m
CE-Qual-R1 (Quân đoàn kỹ sư, Qual loạt mô hình 1-D cho Hồ chứa) là
một mô hình toán học thực hiện bởi các trạm thí nghiệm Đường thủy, do đoàn
kỹ sư quân đội Hoa Kỳ đảm nhiệm(Wlosinski & Collins 1985; USACE /
WES, 1986). Cấu trúc của nó được đặc trưng bởi một cách tiếp cận theo chiều
dọc một chiều áp dụng cho các hồ chứa, khái niệm như một chuỗi các lớp
nước có độ dày phụ thuộc vào dòng chảy (Hình 2.4). Nó có thể được sử dụng
để giúp cải thiện chất lượng nước trong hồ chứa và trong hạ lưu dòng chảy.
CBGD:Trần Ngọc Châu
6
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
Hình 2.4: Mô phỏng hình học của một hồ chứa và các cơ chế vận chuyển khối
lượng trong mô hình CE-Qual-R1
Công thức bảo toàn khối lượng trong mô hình CE-Qual-R1 :
Trong đó:
k
= chỉ số cho nhánh
V = thể tích lớp (m 3)
C = nguyên liệu tập trung (g.m-3)
Qvào = lớp dòng chảy (m3.s-1)
Cvào = nguyên liệu cho lớp (g.m-3)
Qra = lớp dòng chảy (m3.s 1)
D = hệ số khuếch tán (m2.s-1)
A = diện tích bề mặt của lớp (m2)
DZ = độ dày lớp (m)
F = vật chất nạp (g.s-1)
S = vật chất chìm (g.s-1)
t = thời gian (s)
z = độ cao lớp (m)
Các tính năng của mô hình cho phép mô tả thời gian xem xét theo chiều
dọc của các biến số khác nhau. Các biến trong nghiên cứu này là nhiệt độ, oxy
hòa tan, một trong những nhóm của tảo (chlorophyll-a), mảnh vụn, hòa tan
hữu cơ, orthophosphate, ammonia (nitrite + nitrat), carbon, động vật phù du,
pH, carbon dioxide và feacal coliforms.
Đại diện vật lý của hồ chứa cũng được thể hiện đầy đủ bằng cách sử
dụng công cụ này. Một chức năng được sử dụng để tính toán hiệu quả các hồ
chứa khu vực Pirapama như là một chức năng về độ cao từ MSL. Một tương
quan hệ số 0,97 đã thu được bằng cách sử dụng sáu mươi điểm vối độ cao
khác nhau trong khu vực nghiên cứu. Đập hồ chứa được thiết kế có kiểm soát
cửa xả, cung cấp nước đường ống dẫn, và một ống dẫn ở phía dưới.
Một loạt dòng chảy hàng tháng trong 64 năm đã được phân tích để có
được một dòng chảy trung bình dài hạn được sử dụng để thiết lập điều kiện
ranh giới thượng lưu cho tất cả các kịch bản mô phỏng (Bảng 2.2). Một chu kì
4 năm và dữ liệu chất lượng nước được thu thập từ 2 trạm lấy mẫu.Các trạm
lấy mẫu PP2-20 thu thập dữ liệu điều kiện biên thượng nguồn (Bảng 3) và
CBGD:Trần Ngọc Châu
7
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
trạm PP2-50, nằm ở các phần sâu hơn gần đập. Dữ liệu trung bình hàng ngày
thu được từ hai trạm khí tượng trong khu vực (IPA / LAMEPE, 2000), tạo
điều kiện và cơ sở dữ liệu để hiệu chỉnh mô hình.
Bảng 2.2: Mô phỏng các kịch bản của hồ chứa Pirapama.
Kịch bản
Hiệu chuẩn
Dự báo mô phỏng 1 - FS1
Dự báo mô phỏng 2 – FS2
Bơm nước
Giới hạn dòng chảy
( độ cao, MSL)
( độ cao, MSL)
Trên ống dẫn (39,1m)
Dưới ống dẫn (25,5m)
Trên ống dẫn (39,1m)
Đập tràn (45,7m)
Đập tràn (45,7m)
Dưới ống dẫn (23m)
Bảng 2.3: Số liệu các biến số: Tối thiểu, tối đa và các giá trị trung bình được
trình bày, với thời gian tương ứng của nó (tháng)
Chương trình hồ chứa với tất cả các mô phỏng dựa trên các
bước sau:
- Chương trình hồ chứa bắt đầu từ ngày đầu tiên mùa mưa (ngày 01 tháng
3 năm2001);
- Lưu lượng tối thiểu 1,2 m3.s-1 của dòng chảy hạ lưu cùng toàn bộ thời
gian mô phỏng – bao gồm khi hồ chứa đầy;
- Bơm khoảng 1,8 m3.s-1 vào năm 2001 và 2002, bắt đầu từ khi mực nước
đạt độ cao của đập tràn (45.7m);
- Bơm 3,6 m3.s-1, từ tháng Giêng năm 2003 trở đi.
CBGD:Trần Ngọc Châu
8
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
Kết quả và thảo luận
Kết quả mô phỏng được phân tích xem xét chất lượng nước hồ chứa
biến thể. Việc lựa chọn các thông số cần thiết nhằm cho phép một số lượng
xác định các cơ chế chính ảnh hưởng đến chất lượng nước hồ chứa.
Kinh nghiệm làm hồ chứa ở các nước nhiệt đới khác, nơi ảnh hưởng
của các tác động nhân tạo đã được nghiên cứu, cho biết sự phổ biến của các
quá trình nào đó mà ảnh hưởng đến nước các cơ chế kiểm soát chất lượng
nước hồ (Baxter et al, 1965. Heide, năm 1982 Lewis Jr, 1987, Hernandez et al,
1989; Jørgensen & Araujo, 1988; Araujo, năm 1991; Araujo et al. Năm 1990;
Tundisi, năm 1990; Salas & Martino, năm 1991). đặc biệt chú ý các quy trình
sau:
- Phân tầng tiềm năng - Nhiệt năng của hồ phân phối dọc theo cột
nước.
- Hiện tượng phú dưỡng tiềm năng - sự tăng cường quá nhiều chất
hữu cơ trong hồ chứa;
- Thiếu ôxy tiềm năng - sự suy giảm oxy hòa tan liên quan đến sự
xuống cấp của chất hữu cơ xâm nhập vào hồ chứa.
Mô hình điều chỉnh hồ chứa Pirapama (hiệu chuẩn - xác
nhận).
Sự thay đổi về thời gian theo chiều dọc của nhiệt độ T ( oC), pH, oxy
hòa tan DO (mg.L-1), nhu cầu oxy sinh địa hoá - BOD5, 20 (mg.L-1), và
Orthophosphate - PO4 (mg.L-1) được minh họa trong hình 2.5 và 2.6.Những
hồ sơ được trình bày trong năm chuỗi 17 tháng (từ tháng Tám năm 2001 đến
tháng năm 2002) cho thấy sự khác biệt từ các lĩnh vực dữ liệu và đầu ra mô
hình cuối cùng cho điều kiện thực tế (kịch bản hiệu chuẩn-xác nhận).Hai giai
đoạn này đại diện cho khoảng một nửa tổng thời gian mô phỏng.Trong hình
2.5 và 2.6 trục ngang tương ứng với giá trị các biến và trục dọc sang chiều sâu
cột nước. Dữ liệu không được vẽ trong một số những hình ảnh đồ họa vì
không đo được / hoặc phân tích. Hơn nữa, không có thông tin về các loài cố
định nitơ, thực vật phù du và động vật phù du có sẵn.
Hình 2.5 đại diện cho khoảng thời gian hiệu chuẩn (từ Tháng Tám,
2001 đến Tháng Ba, 2002) liên quan đến mùa mưa mùa khô. Một khi mô hình
các thông số và tỷ lệ đã được điều chỉnh và cố định, mô hình xác nhận thực
hiện bởi việc so sánh giữa số kết quả đầu ra và số liệu thứ hai (từ năm 2002
đến Tháng Mười Hai, năm 2002); cũng liên quan đến mùa mưa và mùa khô.
Phân tích độ nhạy liên quan đến-CE Qual-R1 mô hình hóa các hồ chứa
nhiệt đới đã chỉ ra các thông số có ảnh hưởng nhất trong chất lượng nước hồ
(Araujo et al, 1990; Araujo, 1991). Đó là: tỷ lệ quang hợp của tảo (AMU); tỉ lệ
CBGD:Trần Ngọc Châu
9
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
tương đương giữa vật chất hữu cơ và carbon (BIOC); tỉ lệ tương đương giữa
chất hữu cơ và nitơ (BION); tỉ lệ tương đương giữa vật chất và phốt pho hữu
cơ (BIOP); và tốc độ phân hủy tối đa của chất hữu cơ (DOMK). Mỗi tham số
được chỉ định phạm vi và phân phối thống kê dựa trên giá trị xuất bản văn học
(Bowie et al, 1985;. USACE / WES, 1986; Jørgensen et al, 1991;. Jørgensen &
Bendoricchio, 2001) .
Chiến lược sử dụng để hiệu chuẩn được thực hiện 200 mô phỏng ngẫu
nhiên bằng cách sử dụng phương pháp Monte Carlo. Điều này cho phép các
thông số được thay đổi ngẫu nhiên theo phân phối thống kê được xác định
trước (phân phối bình thường) và mô phỏng cho phép được lặp đi lặp lại để
đáp ứng số liệu thống kê có thể được phân tích.Các thiết lập tốt nhất các giá trị
tham số đã thu được khi giá trị nhỏ nhất của hàm mục tiêu (tính toán sau khi
mỗi mô phỏng Monte Carlo) đã đạt được (Jørgensen & Bendoricchio, 2001).
Trong đó:
N : số lượng biến
Xit: giá trị tính toán thứ i của biến trạng thái
Xio: giá trị đo tương ứng
Xim: giá trị trung bình
Cấu hình thẳng đứng của nhiệt độ chỉ ra rằng hồ chứa Pirapama là một
hồ chứa có khả năng chống chịu yếu - phân tầng. Sự khác biệt giữa nhiệt độ bề
mặt và dưới đáy được quan sát thấy rõ trong mùa khô (tháng Chín đến tháng
Ba trong cả hai năm), mặc dù chúng không đáng kể.
Nồng độ đo và mô phỏng của PO4 trong hình 2.5 và 2.6 cho thấy mức
độ cao làm giàu khoáng sản của vùng nước hồ chứa.Phân phối theo chiều dọc
cho thấy giá trị cao hơn (hơn 0,2 mg.L-1) ở gần phía dưới, có lẽ liên quan đến
PO4, hấp thụ các chất rắn lơ lửng, suy thoái chất hữu cơ và các trầm tích, thiếu
ôxy. Các giá trị orthophosphate thấp hơn gần bề mặt hồ quan sát được trong
các lĩnh vực dữ liệu và mô phỏng là một hệ quả của sự đồng hóa tảo.
Gần bề mặt nước và bên trong, các giá trị cao của DO là quan sát được.
Những nồng độ quan trọng được tìm thấy trong trên mặt nước hồ cũng liên
quan đến thực vật phù du sản xuất oxy trong quá trình quang hợp. Oxy hoà tan
(DO) mô tả trong hình 2.5 và 2.6, cùng với sự hoạt động mạnh mẽ của vi
khuẩn diễn ra trong hồ chứa Pirapama. Giá trị cao hơn của sự hoạt động được
quan sát thấy ở phần dưới của cột nước. Nồng độ hữu cơ cao có liên quan đến
các điều kiện thiếu ôxy mạnh (DO thấp hơn 1,0 mg.L -1) dưới độ sâu 10 m,
được xác nhận trong các dữ liệu và kết quả mô hình.
CBGD:Trần Ngọc Châu
10
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
Bảng 2.4: Mô tả và hiệu chỉnh giá trị trong mô phỏng hồ chứa
Pirapama, Brazil
Biến (đơn vị)
AMU (day-1)
Mô tả
Tỉ lệ quang hợp của
tảo trong khoảng
chứa
Khoảng giá trị
Giá trị mô phỏng
0.1 – 11.5
1.7
BIOC (-)
Tỉ lệ tương đương
giữa vật chất hữu
cơ và cacbon
0.4 – 0.6
0.45
BION (-)
Tỉ lệ tương đương
giữa vật chất hữu
cơ và nito
0.0005 – 0.09
0.015
BIOP (-)
Tỉ lệ tương đương
giữa vật chất hữu
cơ và photpho
0.0001 – 0.02
0.0003
BOMK (day-)
Tốc độ tối đa phân
hủy chất hữu cơ
0.004 – 0.64
0.08
Phân tầng tiềm năng
Xu hướng phân tầng nhiệt của hồ chứa được đánh giá từ sự tăng nhiệt độ
theo độ cao (độ cao của nhiệt độ tối đa) và nhiệt độ giải phóng tối đa Gradient
giá trị -MTG (Hình 2.7a và 2.7b). Điều này đã được quan sát cho tất cả các
kịch bản được nghiên cứu. Biên độ nhiệt độ giữa trên cùng của và dưới giới
hạn cho thấy giá trị tối đa <10C.m-1 đối với hầu hết các mô phỏng.
Quan sát các số liệu theo chiều dọc và sự tiến hóa, độ lớn của sự phân
tầng nhiệt phụ thuộc vào mỗi tình huống được phân tích. khi sử dụng outtake
28,5 m dường như ít thuận lợi và chu kỳ phân tầng dữ dội hơn kịch bản FS1.
Kịch bản FS2 (hình 2.7c) khác nhau từ tình huống: sau khi bắt đầu của
quá trình làm đầy hồ chứa số liệu cột nước là quan sát thấy ở các tháng sau đó.
Sự thay đổi nhiệt độ cần xem xét đến các ống dẫn ở đáy hồ.
Hiện tượng phú dưỡng tiềm năng
CBGD:Trần Ngọc Châu
11
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
Phổ biến quá mức của tảo trong tất cả các kịch bản có thể được quan
sát, đặc biệt là trong mùa mưa (Hình 2.8). Vào những tháng mô phỏng thứ ba
và thứ tư, nồng độ tảo lớn được quan sát thấy ở các khu vực trong phú dưỡng
tất cả các kịch bản. Giai đoạn này được đặc trưng bởi một xu hướng mạnh mẽ
của phân tầng nhiệt.
Lúc này giá trị thời gian của tảo lên đến 17 mg.L-1 chlorophyll-a
(CHL-a) đã được quan sát cho các lớp bề mặt của hồ chứa để nghiên cứu tất cả
các trường hợp liên quan. Sau thời hạn đó CHL-nồng độ đạt đỉnh độ lớn khác
nhau tùy thuộc vào các hoạt động biến thểcủa tảo. Hiệu chuẩn và dự báo kịch
bản FS1 (trong hình 2.8) điểm ra ba đỉnh thực vật phù du lớn hơn tải trọng hữu
cơ và vô cơ cũng được quan sát (tháng ba đến tháng Sáu năm 2001, tháng batháng bảy năm 2002; và tháng ba đến tháng Tám, năm 2003). Tuy nhiên, dự
báo khác kịch bản FS2 đã trình bày một hành vi khác nhau liên quan đến hiện
tượng phú dưỡng, việc loại bỏ các vùng ô nhiễm thông qua ống dẫn dưới cùng
thúc đẩy giảm đáng kể CHL.
Trong tất cả các kịch bản, những tháng tối đa xuấ hiện thực vật phù du
thì có liên quan đến sự giảm mực nước (giảm đến 0,20 - 0.30m). Việc này
cũng quan sát tại chỗ ở các hệ thống hồ chứa khác tương tự (ví dụ như
Tapacurá hồ chứa, COMPESA, 2000), Đặc biệt là khi căng thẳng gia tăng tảo
WS đăng ký.
Thời gian phú dưỡng của phốt pho tổng được trình bày trong hình 2.9.
Trong tất cả các kịch bản, mức độ phốt pho hòa tan được quan sát thấy ở các
cột nước, phần lớn vượt quá giới hạn cổ điển 100 mg.L-1 được đề xuất bởi
Vollenweider (1968) cho các hồ ôn đới, và giá trị cụ thể là 119 mg.L-1 gần
đây gợi ý cho các hồ chứa nhiệt đới (Salas & Martino, 1991).
Các hình dạng của đường cong có một chu kỳ 12 tháng, nhấn mạnh ảnh hưởng
mạnh mẽ của mùa nhiệt đới điển hình, bất kể lựa chọn hoạt động được coi là.
Hình 2.5.
CBGD:Trần Ngọc Châu
12
Báo cáo Mô hình hóa
CBGD:Trần Ngọc Châu
Nhóm 1
13
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
Hình 2.5 : So sánh giữa các trường dữ liệu thực nghiệm (•) và kết quả mô
hình (___ ) để hiệu chỉnh kịch bản (tháng 8 năm 2001 đến tháng 3 năm 2002).
CBGD:Trần Ngọc Châu
14
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
Hình 2.6 So sánh giữa các trường dữ liệu thực nghiệm (•) và kết quả mô hình
(____ ) để xác nhận kịch bản (Tháng Tư đến tháng 12 năm 2002)
Tiềm năng thiếu Ôxy
Khu vực thiếu ôxy được định nghĩa là khu vực có nồng độ DO dưới 1,0
mg.L ..
-1
Số lượng lớn các chất hữu cơ có nguồn gốc từ các vùng thượng nguồn
của con đập có thể gây ra nồng độ BOD cao trong cột nước. Hình 2.10a và
2.10b cho thấy một điều kiện thiếu ôxy liên tục, trong thực tế thời gian mô
phỏng toàn bộ, hiệu chuẩn và FS1. DO tập trung theo chiều dọc kịch bảng này
cho cho thấy là điển hình (hình 2.5 và 2.6). Trong một số kịch bản DO bão
hòa trên bề mặt được quan sát, nguyên nhân đề cập đến quá trình quang hợp
sản xuất do oxy từ tảo. Điều này cho thấy mức độ hiện tượng phú dưỡng cao
khi đập đang hoạt động (24 tháng sau khi bắt đầu của quá trình làm đầy), và
sau đó. Một kịch bản tương tự được quan sát từ mô phỏng FS1 vì chất lượng
nước tốt hơn của các lớp tiếp theo.
Kịch bản FS2 đại diện cho tình hình ít quan trọng (Hình 2.10c), mô
phỏng cột nước có xu hướng được oxy hóa trong mùa mưa, điển hình từ năm
thứ hai trở đi. Điều kiện như vậy xuất phát từ việc sử dụng có hiệu quả của các
lớp dưới cùng, đã có thể giải phóng các vùng nước thiếu ôxy từ các lớp sâu
nhất của hồ bơi, hồ chứa. Những đập kỹ thuật hoạt động liên tục, để giảm
thiểu tác động đến chất lượng nước trong thực tế để loại bỏ các lớp thiếu ôxy
và nâng cao cột nước dọc nhờ cơ chế khuếch tán vật lý hỗn loạn (Araujo et al,
1990; Wu et al, 1996 ). Tuy nhiên, mặc dù tất cả các lợi ích, việc sử dụng của
các lớp phía dưới đã chứng minh ở các vùng hạ lưu, đặc biệt là ngay sau khi
đập.
Bên cạnh những tác động nghiêm trọng đến tính đa dạng sinh học trong
hệ sinh thái nước, được đề xuất bởi kết quả mô phỏng, có thể gây ra những
hậu quả có hại khác.Trong điều kiện yếm khí, phốt pho sẽ được phát tán từ các
lớp trầm tích và vận chuyển bằng cơ chế vật lý ở các lớp bề mặt của hồ chứa.
Lĩnh vực phân tích thử nghiệm đã xác nhận giả thuyết thiếu ôxy ở lớp trầm
tích như là một nguồn quan trọng của chất dinh dưỡng cho cột nước (Baccini,
1985; Schindler, 1985). Cơ chế này rất quan trọng đối với sự phát triển của
tình trạng dinh dưỡng ở các hồ chứa bởi nhu cầu oxy cao sinh vật đáy (Chen
& Orlob, năm 1975, Henderson- Sellers, 1984).
CBGD:Trần Ngọc Châu
15
Báo cáo Mô hình hóa
CBGD:Trần Ngọc Châu
Nhóm 1
16
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
Hình 2.7 : Sự biến thiên nhiệt độ theo chiều sâu của các mô phỏng và dự
báo. (a) Kịch bản hiệu chuẩn, (b) Dự báo kịch bản FS1, và (c) Dự báo kịch
bản FS2.
Hình 2.8 : Sự biến thiên nhiệt độ trong khu vực phú dưỡng trong các mô
phỏng.
Hình 2.9 : Sự biến thiên nồng độ photpho trong các mô phỏng
CBGD:Trần Ngọc Châu
17
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
Kết luận
Trong bài báo này được sử dụng mô hình mô phỏng theo chiều
thẳng đứng để đánh giá sự hình thành của một hồ bơi chứa một phần Đông
Bắc của Brazil. Lựa chọn thay thế đập hoạt động khác nhau được điều tra. Các
kịch bản mô phỏng chỉ ra rằng chất lượng nước tại hồ chứa Pirapama được
liên kết với tải lượng chất hữu cơ và vô cơ. Hệ thống này không có khả năng
phục hồi từ thượng nguồn của chính nó. Khả năng thiếu oxy đã được quan sát
ngay ở thượng nguồn kết hợp với những kinh nghiệm đã nghiên cứu tương tự
(COMPESA năm 2000).
Các tùy chọn bơm nước bằng cách sử dụng ống dẫn (mô phỏng
FS1), thực tế tình hình sử dụng để hiệu chỉnh mô hình không mang lại nhiều
lợi thế để cải thiện chất lượng nước trong hồ chứa. Lựa chọn giữa hai lựa chọn
thay thế này phải xem xét vệ sinh, nguy cơ sức khỏe cộng đồng và chi phí liên
quan để xử lý nước.
Kết quả cũng cho thấy rằng việc sử dụng các ống dẫn ở dưới là cách
hợp lý để giảm thiểu tác động đến chất lượng nước trong hồ chứa. Các giải
pháp thu được cho kịch bản FS2 dự báo cho thấy giảm sự phân tầng nhiệt, sự
xáo trộn của nước theo chiều sâu. Tuy nhiên, về tiêu chuẩn chất lượng nước
cũng thỏa mãn nhu cầu. Vì vậy, những ống dẫn phải được lắp đặt đúng địa
điểm và thời gian.
CBGD:Trần Ngọc Châu
18
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
Hình 2.10: Sự biến thiên độ dày của lớp oxy trong các mô phỏng. (a) Hiệu
chỉnh kịch bản, (b) Dự báo kịch bản FS1, và (c) Dự báo kịch bản FS2.
2.2.2 NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG MÔ HÌNH WASP MÔ PHỎNG CHẤT
LƯỢNG NƯỚC HỒ DẦU TIẾNG
(TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 12, SỐ 02 – 2009)
TÓM TẮT:
Dựa vào một số điểm đo rời rạc theo không gian và thời gian, những nhà
quản lý môi trường cần đến các mô hình để tái tạo các quá trình tự nhiên xảy
ra trong môi trường ở một khoảng thời gian nào đó, chúng là phương tiện để
nhận thông tin về tình trạng có thể có của môi trường khi chịu tác động lớn từ
phía con người. Bài báo này trình bày tóm tắt các nghiên cứu bước đầu về khả
năng áp dụng mô hình WASP (Water Quality Analysis Simulation Program)
được phát triển bởi USEPA để mô phỏng chất lượng nước hồ Dầu Tiếng. Kết
quả cho thấy mô hình WASP hoàn toàn có khả năng sử dụng để mô phỏng
diễn biến chất lượng nước hồ. Để nâng cao hiệu quả sử dụng mô hình và độ
chính xác của các mô phỏng thì các dữ liệu đầu vào của mô hình, đặc biệt là
mô phỏng sự phân tầng và dòng chảy trong hồ là các yếu tố quan trọng cần
nghiên cứu thêm.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hồ Dầu Tiếng, là hồ chứa thứ tư có diện tích trên 10.000 ha của Việt
Nam và là công trình thủy lợi lớn nhất ở Việt Nam bắt đầu vận hành năm
1985. Hồ có tổng diện tích nước mặt là 270 km2 và diện tích lưu vực 2.700
km2. Nằm ở thượng lưu sông Sài Gòn, hồ chứa Dầu Tiếng đóng vai trò hết
sức quan trọng trong việc dự trữ cung cấp nước ngọt, điều hoà môi trường
thuỷ lực, điều tiết lũ ở hạ lưu, kiểm soát mặn ở hạ lưu, nuôi trồng thuỷ sản, du
lịch và bảo tồn sinh thái, liên quan đến đời sống hàng triệu dân các tỉnh Tây
Ninh, Bình Dương, Bình Phước và Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên cho
đến nay, công tác quản lý chất lượng nước ở hồ Dầu Tiếng vẫn chưa được
quan tâm đúng mức. Hơn nữa, công tác quản lý và dự báo chất lượng nước hồ
CBGD:Trần Ngọc Châu
19
Báo cáo Mô hình hóa
Nhóm 1
lại hoàn toàn bị bỏ ngỏ. Chưa có một đề tài nào nghiên cứu khả năng ứng
dụng của công cụ mô hình hoá vào mô phỏng, đánh giá cũng như dự báo chất
lượng nước ở hồ DT. Chương trình mô phỏng phân tích chất lượng nước
WASP (Water Quality Analysis Simulation Program) của USEPA đã được
ứng dụng nhiều trên thế giới. Các ứng dụng điển hình của mô hình WASP
được biết đến như: nghiên cứu về phú dưỡng vịnh Tampa; phú dưỡng ở cửa
sông Neuse, sông Potomac; phú dưỡng ở các hồ chứa và sông Coosa; nghiên
cứu ô nhiễm PCB trên hệ thống hồ Greak, ô nhiễm chất hữu cơ dễ bay hơi ở
cửa sông Delaware, ô nhiễm kim loại nặng ở sông Deep, ô nhiễm thuỷ ngân
trên sông Savannah… Ở Việt Nam, việc ứng dụng công cụ mô hình hoá vào
quản lý chất lượng nước cũng đã thực hiện không ít, nhưng chủ yếu là với
chất lượng nước sông và kênh rạch. Điều này không ngoại trừ với mô hình
WASP. Vấn đề đặt ra là trong điều kiện hồ Dầu Tiếng, mô hình WASP liệu có
khả năng áp dụng để mô phỏng chất lượng nước hồ được hay không, nhất là
trong tình trạng hiện nay chất lượng nước hồ Dầu Tiếng đang suy giảm và đặc
biệt là đang chịu tác động bởi nhiều hoạt động của con người như nuôi cá bè,
sử dụng đất gây xói mòn thượng nguồn lưu vực, khai thác cát…
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Hồ chứa nước Dầu Tiếng (hồ DT) được xây dựng ở thượng lưu sông Sài
Gòn, nằm trên địa phận tỉnh Tây Ninh và Bình Dương, trải dài từ 11o12’ tới
12o00’ vĩ độ Bắc và từ 106o10’ đến 106o30’ kinh độ Đông, cách TP HCM
khoảng 100km theo đường liên tỉnh. Mực nước dâng bình thường ở hồ DT ở
cao trình +24,4m và mực nước chết ở cao trình +17,0m. Tổng lượng dòng
chảy dao động từ 1.680 triệu m3 đến 470 triệu m3 tương ứng với mực nước ở
cao trình +24,4m và +17m. Diện tích mặt hồ khoảng 264 km2 ứng với mực
nước +24,4m và khoảng 120km2 ứng với mực nước +17,0m. Thời gian lưu
nước là 350 ngày, dài 28 km, độ dốc đáy 0.25, Chỉ số SDI là 0.48.
Lưu lượng bình quân 62.24m3/s qua 3 nhánh chính: Tống Lê Chân, Tha
La và Suối Ngô. Nhánh Tống Lê Chân có diện tích lưu vực lớn nhất với
1.534km2, đóng góp 78% tổng lưu lượng vào hồ, tiếp nhận phần lớn lượng
phù sa đổ vào hồ. Hiện tại hồ Dầu Tiếng chưa có một trạm quan trắc nào dành
cho việc đánh giá chất lượng nước hồ, cũng chưa có một chính sách, công cụ
nào để quản lý chất lượng nguồn nước. Việc đo đạc chất lượng nước có triển
khai (do Công ty Khai thác thuỷ lợi Dầu Tiếng thực hiện) nhưng chỉ chú trọng
vào giám sát bồi lắng hồ và thực hiện gần đây nhất theo đề tài nghiên cứu
đánh giá chất lượng nước và phú dưỡng hồ. Kết quả đánh giá cho thấy chất
lượng nước hồ có suy giảm vào năm 2005- 2006, ở mức độ tiền phú dưỡng, do
các hoạt động chủ yếu như liệt kê ở Bảng 2.5.
CBGD:Trần Ngọc Châu
20
- Xem thêm -