CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƢU
ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.
Tổng quan về vốn lƣu động
1.1.1. Khái niệm vốn lưu động
Theo GS.TS.Ngô Thế Chi, PGS.TS. Nguyễn Trọng Cơ, Giáo trình phân tích tài
chính doanh nghiệp, NXB Tài chính Hà Nội, năm 2008 đã viết: “Vốn lưu động là biểu
hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên đặc điểm vận động của vốn lưu động luôn
chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động. Trong các doanh nghiệp
người ta chia tài sản lưu động thành hai loại: tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu
động lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất bao gồm những tài sản ở khâu dự trữ sản
xuất như nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu,…và tài sản ở khâu sản
xuất như bán thành phẩm, sản phẩm dở dang, chi phí chờ phân bổ,…Còn tài sản lưu
thông bao gồm các sản phẩm, thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các
khoản vốn trong thanh toán, các khoản chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước…
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu
động lưu thông luôn vận động, thay thế và chuyển hóa lẫn nhau, đảm bảo cho quá tình
sản xuất kinh được liên tục”.
Còn TS. Nguyễn Minh Kiều, Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB Giáo dục,
năm 2006 lại viết: “Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu
động và đầu tư ngắn hạn nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp
thực hiện được thường xuyên, liên tục cho đến khi hoàn thành một vòng tuần hoàn của
một chu kỳ sản xuất”.
Bên cạnh đó theo PGS.TS Phạm Thị Gái, Phân tích hoạt động kinh doanh, NXB
Giáo dục, năm 2004 đã viết: “Vốn lưu động được hiểu là toàn bộ tài sản biểu hiện
bằng tiền. Hay nói cách khác đó là giá trị những tài sản lưu động mà doanh nghiệp đã
đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, đầu tư tài
sản ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng hóa tồn kho, tài sản lưu động khác“.
Từ những quan niệm trên, ta rút ra khái niệm chung về vốn lưu động:
“Vốn lưu động là số tiền ứng trước nhằm hình thành tài sản ngắn hạn và đầu
tư ngắn hạn của doanh nghiệp để đảm bảo cho sản xuất kinh doanh được diễn ra
bình thường liên tục. Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần,
tuần hoàn và hoàn thành tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh, thường
không quá một năm”.
1
1.1.2. Phân loại vốn lưu động
Mục đích của việc phân loại vốn lưu động là để cho các doanh nghiệp có các
nhìn nhận khác nhau về vai trò và tác dụng của vốn trong những trường hợp khác
nhau. Việc phân loại vốn lưu động cũng giúp cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng
vốn có hiệu quả hơn. Tùy theo những tiêu thức khác nhau mà có cách phân loại khác nhau.
(1) Phân loại vốn lưu động căn cứ theo nguồn hình thành
Dựa vào nguồn hình thành vốn lưu động được chia làm 4 loại:
Vốn điều lệ: đó là số vốn lưu động được hình thành từ nguồn vốn điều lệ ban
đầu khi doanh nghiệp mới thành lập hoặc nguồn vốn điều lệ bổ sung trong quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguồn vốn tự bổ sung: là nguồn vốn lưu động mà doanh nghiệp tự bổ sung
trong quá trình sản xuất kinh doanh từ lợi nhuận của doanh nghiệp được tái đầu tư.
Nguồn vốn liên doanh, liên kết: là số vốn lưu động hình thành từ góp vốn liên
doanh giữa các bên tham gia liên doanh. Vốn góp liên doanh có thể bằng tiền mặt hoặc
bằng hiện vật.
Nguồn vốn đi vay: là nguồn vốn lưu động được hình thành thông qua việc đi
vay các tổ chức tín dụng, phát hành trái phiếu.
(2) Phân loại vốn lưu động căn cứ theo vai trò của từng loại vốn lưu động
trong quá trình sản xuất
Dựa vào cách phân loại này cho thấy vai trò và sự phân bổ của vốn lưu động
trong từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh từ đó doanh nghiệp có biện pháp
điều chỉnh cơ cấu vốn lưu động hợp lý sao cho có hiệu quả sử dụng cao nhất. Theo
cách phân loại này, vốn lưu động của doanh nghiệp có thể chia thành 3 loại:
Vốn lƣu động trong khâu dự trữ sản xuất: đó là giá trị các khoản nguyên vật
liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu động lực, phụ tùng thay thế, công cụ lao động.
Vốn lƣu động trong khâu sản xuất: là các khoản giá trị sản xuất sản phẩm dở
dang, bán thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết chuyển,…
Vốn lƣu động trong khâu lƣu thông: là các khoản giá trị thành phẩm, vốn bằng
tiền, các khoản vốn đầu tư ngắn hạn (đầu tư các khoản ngắn hạn, cho vay ngắn hạn…),
các khoản kí quỹ kí cược ngắn hạn, các khoản vốn trong thanh toán (các khoản phải
thu, khoản tạm ứng).
(3) Phân loại vốn lưu động căn cứ vào hình thái biểu hiện
Đây là cách phân loại giúp cho doanh nghiệp xem xét, đánh giá mức tồn kho dự
trữ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp từ đó có các cách quản lý và giải pháp
2
Thang Long University Library
thích hợp để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. Theo cách phân loại này, VLĐ
được chia làm 4 loại:
Vốn vật tƣ hàng hóa: là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện bằng
hiện vật cụ thể như: nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm...
Vốn bằng tiền: bao gồm các khoản vốn tiền tệ như: tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi
ngân hàng, các khoản vốn thanh toán, các khoản đầu tư ngắn hạn.
Các khoản phải thu, phải trả:
-
Các khoản phải thu: Chủ yếu là các khoản phải thu từ khách hàng, thể hiện số
tiền mà khách hàng nợ doanh nghiệp phát sinh trong quá trình kinh doanh buôn
bán hàng hóa dưới hình thức trả sau.
-
Các khoản phải trả: Là các khoản vốn mà doanh nghiệp phải thanh toán cho
khách hàng theo hợp đồng kinh doanh, các khoản phải nộp ngân sách nhà nước
hoặc thanh toán lương cho người lao động.
Vốn lƣu động khác: Bao gồm các khoản tạm ứng, chi phí trả trước, cầm cố, ký
quỹ, ký cược…
1.1.3. Đặc điểm vốn lưu động
Vốn lưu động của các doanh nghiệp không ngừng vận động qua các chu kỳ kinh
doanh: dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục và
thường xuyên lặp lại theo chu kỳ và được gọi đó là quá trình tuần hoàn của vốn lưu
động. Do đó, vốn lưu động có hai đặc điểm sau:
Thứ nhất, vốn lưu động tham gia vào chu kỳ sản xuất kinh doanh và bị hao mòn
trong quá trình sản xuất đó. Giá trị của nó chuyển hết một lần vào giá trị sản phẩm để
cấu thành lên giá trị sản phẩm. Với một chu kỳ sản xuất, doanh nghiệp nhập mua
nguyên vật liệu và bắt đầu tiến hành sản xuất tạo ra sản phẩm, giá thành sản phẩm sẽ
bao gồm tất cả những giá trị của nguyên vật liệu tạo ra nó.
Thứ hai, qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh vốn lưu động thường xuyên
thay đổi hình thái biểu hiện, từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu chuyển sang vốn vật tư
hàng hóa dự trữ và vốn sản xuất rồi cuối cùng trở về hình thái vốn tiền tệ. Sau mỗi chu
kỳ thái sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một vòng chu chuyển. Cụ thể:
Trong doanh nghiệp sản xuất: VLĐ chia thành ba giai đoạn: T-H-SX-H’-T’
Giai đoạn mua sắm vật tư (T-H): đây là giai đoạn khởi đầu vòng tuần hoàn, ban
đầu là hình thái tiền tệ được dùng để mua sắm các đối tượng lao động để dự trữ sản xuất.
Giai đoạn sản xuất (H-SX-H’): giai đoạn này doanh nghiệp tiến hành sản xuất
sản phẩm từ vốn vật tư dự trữ trải qua quá trình sản xuất trở thành sản phẩm dở dang
rồi bán thành phẩm. Kết thúc quá trình sản xuất thì chuyển sang vốn thành phẩm.
3
Giai đoạn tiêu thụ (H’-T’): doanh nghiệp trải qua quá trình tiêu thụ sản phẩm và
thu tiền về. Ở giai đoạn này, vốn lưu động từ hình thái vốn thành phẩm chuyển sang vốn
tiền tệ.
Trong doanh nghiệp thương mại: VLĐ chia thành hai giai đoạn: T-H-T’
Giai đoạn mua (T-H): từ vốn bằng tiền chuyển sang hình thái vốn hàng hóa dự trữ.
Giai đoạn bán (H-T’): từ vốn hàng hóa dự trữ chuyển sang hình thái vốn bằng tiền.
Do quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục nên sự vận động của VLĐ đi từ
hình thái này sang hình thái khác. Bắt đầu từ hình thái vốn bằng tiền và kết thúc một
chu kỳ cũng bằng vốn bằng tiền, tạo thành vòng tuần hoàn của vốn lưu động. Sự tuần
hoàn này có tính chu kỳ tạo thành sự luân chuyển của VLĐ.
1.1.4. Vai trò vốn lưu động
Để tiến hành sản xuất, ngoài tài sản cố định như máy móc, thiết bị, nhà xưởng...
doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng tiền nhất định để mua sắm hàng hóa, nguyên vật
liệu... phục vụ cho quá trình sản xuất. Như vậy, vốn lưu động là điều kiện đầu tiên để
doanh nghiệp đi vào hoạt động hay nói cách khác vốn lưu động là điều kiện tiên quyết
của quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, vốn lưu động còn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp
được tiến hành thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động còn là công cụ phản ánh đánh giá
quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp.
Vốn lưu động còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của doanh
nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong việc sử
dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô của doanh nghiệp phải huy động một lượng
vốn nhất định để đầu tư ít nhất là đủ để dự trữ vật tư hàng hóa. VLĐ còn giúp cho
doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh
nghiệp.
Vốn lưu động còn là bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm do đặc
điểm luân chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Giá trị của hàng hóa bán ra
được tính toán trên cơ sở bù đắp được giá thành sản phẩm cộng thêm một phần lợi
nhuận. Do đó, vốn lưu động đóng vai trò quyết định trong việc tính giá cả hàng hóa
bán ra.
1.2.
Tổng quan về hiệu quả sử dụng vốn lƣu động trong doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp
Hiệu quả là một khái niệm luôn được đề cập trong nền kinh tế thị trường các
doanh nghiệp luôn hướng tới hiệu quả kinh tế, chính phủ nỗ lực đạt hiệu quả kinh tế xã hội. Theo nghĩa chung nhất, hiệu quả là một khái niệm phản ánh trình độ sử dụng
4
Thang Long University Library
các yếu tố cần thiết để tham gia vào một hoạt động nào đó với những mục đích xác
định do con người đặt ra.
Do đó, hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một phạm trù kinh tế đánh giá trình độ
sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp đó đạt được kết quả cao nhất.
Trình độ sử dụng vốn lưu động được thể hiện ở viêc doanh nghiệp sử dụng vốn
lưu động như thế nào trong các quá trình dự trữ, sản xuất và lưu thông. Quá trình vận
động của vốn lưu động bắt đầu từ việc dùng tiền tệ mua sắm vật tư dự trữ cho sản
xuất, tiến hành sản xuất và khi sản xuất xong doanh nghiệp tổ chức tiêu thụ để thu về
một số vốn dưới hình thái tiền tệ ban đầu với giá trị tăng thêm. Mỗi lần vận động như
vậy được gọi là một vòng luân chuyển của vốn lưu động. Doanh nghiệp sử dụng vốn
đó càng có hiệu quả bao nhiêu thì càng có thể sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhiều bấy
nhiêu. Với lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng hợp lý, hiệu quả
hơn từng đồng vốn lưu động, làm cho mỗi đồng vốn lưu động hàng năm có thể mua
sắm nguyên, nhiên vật liệu nhiều hơn, sản xuất ra sản phẩm và tiêu thụ được nhiều
hơn. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp nâng cao tốc độ luân
chuyển vốn lưu động (số vòng quay vốn lưu động trong một năm).
Như vậy, hiệu quả sử dụng VLĐ là tiêu chí phản ánh kết quả hoạt động
SXKD, đƣợc thể hiện bằng mối quan hệ so sánh giữa kết quả kinh doanh với số
VLĐ mà doanh nghiệp đã đầu tƣ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả
thu đƣợc càng cao so với chi phí bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
1.2.2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động
1.2.2.1. Phân tích quy mô, cơ cấu vốn lưu động
Quy mô vốn lưu động là lượng vốn lưu động được đo bằng giá trị tiền tệ (VNĐ)
của doanh nghiệp. Quy mô vốn lưu động tăng cho thấy doanh nghiệp đang mở rộng
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vốn lưu động đang trong vòng luân chuyển
của mình. Khi kết thúc mỗi vòng luân chuyển, vốn lưu động trở về hình thái ban đầu
với giá trị tăng thêm. Bởi vậy, việc quy mô vốn lưu động tăng lên sẽ đem lại nhiều lợi
nhuận hơn cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Và ngược lại,
quy mô vốn lưu động giảm thể hiện doanh nghiệp đang thu hẹp hoạt động sản xuất
kinh doanh, vai trò của vốn lưu động không được tận dụng dẫn đến giảm hiệu quả sử
dụng vốn lưu động.
Cơ cấu vốn lưu động là tỷ lệ phần trăm của từng yếu tố cấu thành nên vốn lưu
động (vốn bằng tiền, khoản phải thu, hàng tồn kho) so với tổng vốn lưu động. Cơ cấu
vốn lưu động cho biết trong 100 đồng vốn lưu động có bao nhiêu đồng vồn bằng tiền,
bao nhiều đồng khoản phải thu, bao nhiêu đồng hàng tồn kho
5
Cơ cấu vốn
lưu động
Quy mô yếu tố
cấu thành
=
Quy mô vốn lưu
động
x
100%
- Vốn bằng tiền
Tỷ trọng vốn tiền mặt
Vốn tiền mặt
=
Vốn lưu động
x
100%
Vốn bằng tiền là yếu tố trực tiếp quyết định khả năng thanh toán của một doanh
nghiệp. Vốn tiền mặt tăng sẽ làm tăng khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tuy
nhiên dự trữ quá nhiều tiền mặt mà không đem đi đầu tư sẽ làm giảm khả năng sinh lời
của vồn, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, hiệu quả sử dụng vốn lưu động giảm. Vậy
nên tương ứng với quy mô kinh doanh nhất định đòi hỏi doanh nghiệp phải có một
lượng tiền tương xứng mới đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp ở trạng
thái bình thường.
- Khoản phải thu
Khoản phải thu
Tỷ trọng khoản phải thu =
Vốn lưu động
x
100%
Việc quản lý các khoản phải thu từ khách hàng liên quan chặt chẽ đến việc tiêu
thụ sản phẩm. Khi doanh nghiệp mở rộng bán chịu cho khách hàng sẽ làm cho nợ phải
thu tăng lên. Tuy vậy doanh nghiệp có thể tăng thị phần từ đó gia tăng được doanh thu
bán hàng và lợi nhuận. Việc tăng nợ phải thu kéo theo gia tăng các khoản chi phí như
chi phí quản lý, chi phí thu hồi nợ, chi phí trả lãi trước tiền vay để đáp ứng nhu cầu
vốn lưu động thiếu do vốn của doanh nghiệp bị khách hàng chiếm dụng và làm tăng
rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
- Hàng tồn kho
Tỷ trọng hàng tồn kho
Hàng tồn kho
=
Vốn lưu động
x 100%
Việc duy trì hợp lý vốn về hàng tồn kho sẽ tạo cho doanh nghiệp thuận lợi trong
hoạt động sản xuất kinh doanh: tránh được rủi ro trong việc chậm chễ hoặc ngừng hoạt
động sản xuất do thiếu vật tư hay tránh được việc phải trả giá cao cho việc đặt hàng
nhiều lần với số lượng nhỏ. Nếu hàng tồn kho quá nhiều doanh nghiệp sẽ đối mặt với
tình trạng ứa đọng về vật tư, hàng hóa, chí phí đặt hàng, chi phí lưu trữ hay chi phí tồn
trữ tăng làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Nếu dự trữ hàng tồn kho quá ít gây
6
Thang Long University Library
ra tình trạng thiếu hụt vật tư, hàng hóa, chi phí thiệt hại do không có hàng, chi phí bồi
thường cũng sẽ tăng. Dữ trữ hàng tồn kho hợp lý có vai trò như một tấm đệm an toàn
giữa các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ kinh doanh.
- Vốn lƣu động khác
Tỷ trọng vốn lưu động khác
Vốn lưu động khác
=
Vốn lưu động
x 100%
Vốn lưu động khác là khoản vốn ngắn hạn khác như khoản phải thu khác, khoản
thu bất thường như thu thiếu năm trước, thu bồi thường được đầu tư để phục vụ quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Phân tích nguồn tài trợ vốn lưu động
Nhu cầu vốn lƣu động ròng
Vốn lưu động ròng là phần chênh lệch giữa tài sản lưu động với nguồn vốn vay
ngắn hạn. Vốn lưu động ròng là chỉ tiêu phản ánh số vốn tối thiểu mà doanh nghiệp
được sử dụng để duy trì những hoạt động diễn ra thường xuyên tại doanh nghiệp. Với
số VLĐ ròng này, doanh nghiệp có khả năng đảm bảo chi trả các khoản chi tiêu mang
tính chất thường xuyên cho các hoạt động diễn ra mà không cần vay mượn hay chiếm
dụng bất kỳ một khoản nào khác.
Có hai phương pháp tính vốn lưu động ròng của doanh nghiệp:
VLĐR = Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn
VLĐR = Nguồn vốn dài hạn – Tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết nguồn hình thành của vốn lưu động ròng thể hiện cân bằng
giữa nguồn vốn ổn định với những tài sản có thời gian chu chuyển trên một chu kỳ
kinh doanh hoặc trên một năm. Chỉ tiêu này thể hiện nguồn gốc của vốn lưu động hay
còn gọi là phân tích bên ngoài về vốn lưu động. Ở một khía cạnh khác, vốn lưu động
ròng thể hiện phương thức tài trợ TSCĐ, tác động của kỳ đầu tư lên cân bằng tài chính
tổng thể.
Chỉ tiêu này thể hiện một phần tình hình sử dụng vốn lưu động ròng: vốn lưu
động được phân bổ vào các khoản phải thu, hàng tồn kho, hay các khoản có tính thanh
khoản cao. Nó nhấn mạnh đến tính linh hoạt trong việc sử dụng vốn lưu động ở doanh
nghiệp. Chính vì vậy, phân tích cân bằng tài chính qua chỉ tiêu và cách tính này nhấn
mạnh đến phân tích bên trong. Phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố của TSNH với
Nguồn vốn dài hạn còn thể hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
7
Nguồn tài trợ vốn lưu động ròng
Mỗi doanh nghiệp đều có nhiệm vụ tổ chức huy động nguồn vốn lưu động sao
cho đủ để dự trữ tài sảnngắn hạn, đáp ứng nhu cầu của quá trình hoạt động kinh doanh
và tiết kiệm vốn. Trong trường hợp doanh nghiệp không tự đáp ứng được nhu cầu về
vốn, doanh nghiệp có thể vay ngân hàng hoặc các đối tượng khác để bổ sung vào vốn
lưu động của mình. Mặt khác, doanh nghiệp cần có những biện pháp hữu hiệu để sử
dụng có hiệu quả và đảm bảo hiệu quả các nguồn vốn, tiến hành phân bổ và sử dụng
hợp lý các nguồn vốn hiện có nhằm đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn kinh doanh
của doanh nghiệp.
NCVLĐR= Hàng tồn kho + khoản phải thu – nợ ngắn hạn (không kể vay
ngắn hạn)
Nếu NCVLĐR < 0: Tức là khoản mục hàng tồn kho và các khoản thu nhỏ hơn
nợ ngắn hạn. Điều này cho thấy các khoản nợ ngắn hạn (không tính vay ngắn hạn)
không những đáp ứng nhu cầu ngắn hạn của doanh nghiệp mà còn dư thừa để tài trợ
cho tài sản khác. Điều này thường xảy ra khi khách hàng ứng trước tiền hàng cho
doanh nghiệp, điều này cho thấy doanh nghiệp có thêm vốn để kinh doanh, tăng hiệu
quả sử dụng vốn lưu động. Tuy nhiên, trong trường hợp này có thể đem lại rủi ro cho
doanh nghiệp, cụ thể như trong trường hợp nếu doanh nghiệp dùng nợ ngắn hạn dư
thừa đầu tư cho tài sản dài hạn, dùng nguồn vốn huy động với chi phí thấp, thời gian ngắn
để đầu tư vào những tài sản có giá trị lớn và thời gian thu hồi dài là quá mạo hiểm vì đảm
bảo sẽ thu hồi được hết vốn trong thời gian ngắn .
Nếu NCVLĐR > 0: Khoản mục hàng tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ
ngắn hạn. Trong trường hợp này, nợ ngắn hạn (không kể vay ngắn hạn) không đủ tài
trợ cho hàng tồn kho và các khoản phải thu của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp
phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho phần thiếu hụt trong nhu cầu vốn lưu động.
Điều này là khá an toàn trong kinh doanh khi dùng nguồn vốn huy động với thời gian
dài để đầu tư vào những tài sản có thời gian thu hồi ngắn.Tuy nhiên, chi phí cho nguồn
vốn huy động này lại cao nên cho thấy doanh nghiệp đã không quản lý tốt chi phí và
khách hàng làm cho vốn bị ứ đọng, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Nếu NCVLĐR = 0: Khoản mục hàng tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ
ngắn hạn. Trong trường hợp này, nợ ngắn hạn (không kể vay ngắn hạn) vừa đủ để tài
trợ cho hàng tồn kho và các khoản phải thu của doanh nghiệp. Trường hợp này trong
thực tế ít khi xảy ra, và cũng không ảnh đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Ngoài ra, khi đánh giá sự biến động của nhu cầu vốn lưu động ròng cũng phải
chú ý tới lĩnh vực kinh doanh, chính sách tín dụng bán hàng của doanh nghiệp.
8
Thang Long University Library
1.2.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp hoạt động với mục tiêu xuyên
suốt là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Để đảm bảo mục tiêu này, doanh nghiệp thường
xuyên phải đưa ra và giải quyết tập hợp các quyết định tài chính dài hạn và ngắn hạn.
Sử dụng hiệu quả vốn lưu động là một nội dung trọng tâm trong các quyết định tài
chính ngắn hạn và là nội dung có ảnh hưởng to lớn đến mục tiêu tối đa hóa giá trị
doanh nghiệp.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của vốn lưu động đối với doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường
Một doanh nghiệp, trong nền kinh tế thị trường, muốn hoạt động kinh doanh thì
cần phải có vốn. Vốn lưu động là một thành phần quan trọng cấu tạo nên vốn của
doanh nghiệp, nó đóng vai trò quan trọng trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất
kinh doanh, đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, nhịp nhàng
đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Thời gian luân chuyển vốn lưu động ngắn, số
vòng luân chuyển vốn lưu động lớn khiến cho công việc sử dụng vốn lưu động luôn
luôn diễn ra thường xuyên, hàng ngày. Với vai trò to lớn như vậy, việc tăng tốc độ
luân chuyển vốn lưu động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh
nghiệp là một yếu tố tất yếu.
Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tức là có thể tăng tốc luân chuyển vốn
lưu động, rút ngắn thời gian vốn lưu động nằm trong khâu dự trữ, sản xuất và lưu
thông, từ đó giảm bớt số lượng vốn lưu động chiếm dùng, tiết kiệm vốn lưu động trong
luân chuyển. Thông qua việc tăng tốc luân chuyển vốn lưu động, doanh nghiệp có thể
giảm bớt số vốn lưu động chiếm dùng mà vẫn đảm bảo được nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh như cũ hoặc với quy mô vốn lưu động không đổi doanh nghiệp vẫn có thể mở
rộng được quy mô sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, tăng tốc luân chuyển vốn lưu động còn có ảnh hưởng tích cực đối với
việc hạ thấp giá thành sản phẩm, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đủ vốn thỏa mãn
nhu cầu sản xuất và hoàn thành nghĩa vụ nộp các khoản thuế cho ngân sách nhà nước.
Xuất phát từ thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở các doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường
Trên thực tế, có rất nhiều nguyên nhân khiến một doanh nghiệp làm ăn thiếu hiệu
quả thậm chí phá sản. Có thể có các nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan,
tuy nhiên nguyên nhân phổ biến nhất vẫn là việc sử dụng vốn không hiệu quả trong
9
việc mua sắm, dự trữ, sản xuất, lưu thông. Điều này thể hiện trong việc sử dụng lãng
phí vốn lưu động, tốc độ luân chuyển vốn lưu động thấp, mức sinh lợi kém, thậm chí
có doanh nghiệp còn gây thất thoát, không kiểm soát được VLĐ dẫn tới mất khả năng
tổ chức sản xuất kinh doanh, khả năng thanh toán.
1.2.3.1. Phương pháp phân tíchh hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Có bốn phương pháp để phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh
nghiệp, đó là phương pháp phân tích tỷ lệ, phương pháp phân tích so sánh và phương
pháp đồ thị, cụ thể như sau:
Phương pháp so sánh: So sánh là một trong hai phương pháp được sử dụng phổ
biến trong hoạt động phân tích để xác định xu hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu
phân tích. Vì vậy, để áp dụng phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện so
sánh được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung,
tính chất và đơn vị tính toán...) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh.
Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được chọn là
kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số
tương đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh có thể là so sánh giữa số thực hiện năm
nay và năm trước, so sánh giữa số thực hiện và số kế hoạch, so sánh số thực hiện của
doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành...
Phương pháp tỷ lệ: Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của
đại lượng tài chính. Về nguyên tắc thì phương pháp tỷ lệ đòi hỏi phải xác định được
các ngưỡng, các định mức để nhận xét, để đánh giá tình hình tài chính của doanh
nghiệp, trên cơ sở so sách các tỷ lệ của doanh nghiệp với tỷ lệ tham chiếu.
Trong phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp, các tỷ lệ tài
chính được phân thành các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu tài
sản lưu động, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng
sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều nhóm tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng hoạt
động của bộ phân tài chính, trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân
tích, người phân tích sử dụng những nhóm chỉ tiêu khác nhau. Để phục vụ cho việc
phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta thường sử dụng một số chỉ tiêu
thường được các doanh nghiệp sử dụng như các chỉ tiêu về tốc độ luân chuyển vốn lưu
động, hệ số đảm nhiệm tài sản lưu động, tỷ suất sinh lời của vốn lưu động, các chỉ tiêu
về khả năng thanh toán, hàng tồn kho và các khoản phải thu.
Phương pháp Dupont: Ngoài hai phương pháp trên thì các nhà phân tích còn
sử dụng phương pháp phân tích Dupont. Với phương pháp này, các nhà phân tích sẽ
nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của
doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh mức
10
Thang Long University Library
sinh lợi của doanh nghiệp. Trong khóa luận sẽ sử dụng phương pháp phân tích Dupont
để tiến hành phân tích chỉ tiêu Tỷ suất sinh lời của vốn lưu động thành tích số của
chuỗi tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng
của các tỷ số đó đối với tỷ số tổng hợp.
Phương pháp đồ thị: Đồ thị là phương pháp phản ánh trực quan các số liệu
phân tích bằng đồ thị hoặc biểu đồ. Qua đó, mô tả xu hướng, mức độ biến động của chi
tiêu phân tích, hoặc thể hiện mối quan hệ kết cấu của các bộ phận trong một tổng thể
nhất định.
Như vậy phương pháp đồ thị có tác dụng minh họa kết quả tài chính đã được
tính toán và được biểu thị bằng biểu đồ hay đồ thị, giúp cho việc đánh giá bằng trực
quan, thể hiện rõ ràng và mạch lạc diễn biến của chỉ tiêu phân tích qua từng thời kỳ.
Trên cơ cở đó, xác định rõ những nguyên nhân biến động của chi tiêu phân tích. Từ
đó, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh
nghiệp.
1.2.3.2. Phân tích các chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng vốn lưu động
(1) Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lƣu động
Tốc độ luân chuyển vốn lƣu động
Tốc độ luân chuyển VLĐ là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
lưu động của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển VLĐ nhanh hay chậm nói lên tình
hình tổ chức các mặt sau: mua sắm, dự trữ sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp có hợp
lý hay không, các khoản vật tư dự trữ sử dụng tốt hay không, các khoản phí tổn trong
quá trình sản xuất – kinh doanh cao hay thấp. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động càng
cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng tốt và ngược lại.
Vòng quay vốn lưu động trong kì
Kỳ được tính toán bằng công thức:
Vòng quay vốn lưu động =
Doanh thu thuần
Giá trị vốn lưu động bình quân trong kỳ
Đây là chỉ tiêu nói lên số lần quay (vòng quay) của vốn lưu động trong một thời
kỳ nhất định, chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trên mối quan hệ so
sánh giữa kết quả sản xuất (tổng doanh thu thuần) và số vốn lưu động bình quân bỏ ra
trong kỳ. Chỉ số này cho biết 1 đồng vốn lưu động tham gia vào quá trình kinh doanh
của doanh nghiệp tạo được ra bao nhiêu đồng doanh thu. Tốc độ luân chuyển vốn càng
cao chứng tỏ vốn lưu động của doanh nghiệp luân chuyển càng nhanh, hoạt động tài
chính tốt, doanh nghiệp cần ít vốn mà tỷ suất lợi nhuận lại cao, thể hiện hiệu quả sử
dụng vốn lưu động cao và ngược lại.
11
Thời gian luân chuyển vốn lưu động
Kỳ được tính toán bằng công thức:
Thời gian luân chuyển vốn lưu động =
360
Số vòng quay vốn lưu động trong kỳ
Chỉ tiêu này nói lên độ dài bình quân của một lần luân chuyển của vốn lưu động
hay số ngày bình quân cần thiết để vốn lưu động thực hiện một vòng quay trong kỳ.
Ngược lại với chỉ tiêu số vòng quay vốn lưu động trong kỳ, thời gian luân chuyển
VLĐ càng ngắn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại.
Giữa kỳ luân chuyển và vòng quay của vốn lưu động có quan hệ mật thiết với
nhau và thực chất là một bởi vì vòng quay càng lớn thì kỳ luân chuyển càng ngắn và
ngược lại.
Hệ số đảm nhận vốn lƣu động
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động phản ánh số vốn lưu động cần có để đạt được 1
đồng doanh thu thuần trong kỳ.
Hệ số này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn tiết kiệm
được càng nhiều. Hệ số này được xác định bởi công thức:
Hệ số đảm nhận vốn lưu động =
Giá trị vốn lưu động bình quân trong kì
Doanh thu thuần
Mức tiết kiệm vốn lƣu động
Mức tiết kiệm vốn lưu động là lượng VLĐ mà doanh nghiệp tiếm kiệm được do
tăng tốc độ luân chuyển của vốn lưu động, bao gồm:
Mức tiết kiệm tuyệt đối: Nếu quy mô kinh doanh không thay đổi, việc tăng tốc độ
luân chuyển vốn lưu động đã giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được một lượng vốn lưu
động rút ra khỏi luân chuyển dùng vào việc khác. Hệ số này càng lớn thì cho thấy
doanh nghiệp đang đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động cũng có nghĩa là
doanh nghiệp cần ít vốn mà lợi nhuận đem lại vẫn cao, cho thấy việc sử dụng vốn lưu
động có hiệu quả cao và ngược lại.
Công thức xác định:
Mức tiết kiệm tương đối: Nếu quy mô kinh doanh được mở rộng, việc tăng tốc độ
luân chuyển vốn lưu động đã giúp doanh nghiệp không cần tăng thêm VLĐ hoặc bỏ ra
số VLĐ ít hơn so với trước. Nếu hệ số này càng cao chứng tỏ việc tăng tốc vốn lưu
12
Thang Long University Library
động đã giúp doanh nghiệp bỏ ra ít vốn lưu động hơn so với kỳ kinh doanh trước mà
lợi nhuận vẫn cao, nghĩa là hiệu quả sử dụng vốn lưu động cao và ngược lại.
Công thức xác định:
Trong đó:
VLĐTK: Vốn lưu động tiết kiệm tuyệt đối/ tương đối
M0, M1: Doanh thu thuần kỳ trước và kỳ này (M1 > M0)
V0, V1: Vòng quay vốn lưu động kỳ trước và kỳ này (V1> V0)
(2) Nhóm chỉ tiêu thanh toán
Tình hình tài chính của một doanh nghiệp thể hiện khá rõ nét qua khả năng thanh
toán. Một doanh nghiệp có tình trạng tài chính tốt, lành mạnh chứng tỏ hoạt động của
doanh nghiệp có hiệu quả, doanh nghiệp không những có đủ mà còn có thừa khả năng
thanh toán. Ngược lại, nếu doanh nghiệp ở trong tình trạng tài chính xấu, chứng tỏ
hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, doanh nghiệp không đảm bảo khả năng thanh
toán các khoản nợ, uy tín của doanh nghiệp thấp. Thực tế cho thấy, nếu khả năng
thanh toán của doanh nghiệp không đảm bảo, chắc chắn doanh nghiệp sẽ gặp nhiều
khó khăn trong hoạt động, thậm chí doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng phá sản.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp thể hiện trên nhiều mặt khác nhau như:
khả năng thanh toán ngắn hạn, khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán tức
thời. Một doanh nghiệp được xem là đảm bảo khả năng thanh toán khi và chỉ khi
doanh nghiệp bảo đảm đáp ứng được đầy đủ các mặt khác nhau của khả năng thanh
toán.
Bởi thế, để đánh giá khái quát khả năng thanh toán của doanh nghiệp, các nhà
phân tích thường sử dụng các chỉ tiêu “Hệ số thanh toán ngắn hạn”, “Hệ số thanh toán
nhanh” và “Hệ số thanh toán tức thời”.
Khả năng thanh toán ngắn hạn
Khả năng thanh toán ngắn hạn =
Tổng
á ị tài sản ngắn hạn
Tổng á ị nợ ngắn hạn
Đây là tỷ số được tính bằng cách chia tài sản ngắn hạn cho nợ ngắn hạn. Tài sản
ngắn hạn thường bao gồm tiền, các chứng khoán dễ chuyển nhượng, các khoản phải
thu và dự trữ (tồn kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn
ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả
khác... Cả tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định - tới một năm. Tỷ
lệ khả năng thanh toán chung là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh
nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải
13
bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương ứng với thời hạn
của các khoản nợ đó. Tỷ lệ này có giá trị càng cao thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
của doanh nghiệp càng tốt và ngược lại. Nếu khả năng thanh toán ngắn hạn nhỏ hơn 1
thì doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu con số
này quá cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào vốn lưu động so với
nhu cầu. Thông thường thì phần vượt trội đó sẽ không sinh thêm lợi nhuận. Vì thế mà
việc đầu tư đó sẽ kém hiệu quả, làm giảm lợi nhuận, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn lưu
động giảm.
Khả năng thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán nhanh =
Giá trị tài sản
ắ
ạ -
á ị hàng tồn kho
Giá trị nợ ngắn hạn
Một tỷ lệ thanh toán hiện hành cao chưa phản ánh chính xác việc doanh nghiệp
có thể đáp ứng nhanh chóng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian ngắn với chi
phí thấp hay không vì nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của các khoản mục trong
tài sản ngắn hạn và kết cấu của các khoản mục này. Vì vậy, chúng ta cần phải xét đến
hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Ở đây hàng tồn kho bị loại ra vì trong vốn
lưu động, hàng tồn kho được coi là loại vốn lưu động có tính thanh khoản thấp hơn.
Về mặt lý thuyết, khi trị số của chỉ tiêu “Hệ số thanh toán nhanh” ≥ 1, doanh
nghiệp đảm bảo và thừa khả năng thanh toán và ngược lại, khi trị số của chỉ tiêu < 1,
doanh nghiệp không đảm bảo khả năng thanh toán nhanh. Hệ số này cao làm giảm khả
năng sinh lời của vốn lưu động nhưng lại đảm bảo được khả năng thanh toán nhanh.
Nếu hệ số này thấp tuy làm giảm chi phí sử dụng vốn lưu động, nâng cao khả năng
sinh lời của vốn lưu động nhưng nó gây nguy cơ mất khả năng thanh toán nhanh của
doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán tức thời
Khả năng thanh toán tức thời =
Tiền và các khoản tương đương tiền
Tổng
á ị nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán bằng tiền được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh cho
nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi
thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn. Do vậy, tỷ lệ khả năng thanh toán
tức thời cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn bằng tiền và các khoản
tương đương tiền. Nói chung tỷ lệ này thường biến động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên, cũng
giống như trường hợp của hệ số thanh toán ngắn hạn để kết luận giá trị của hệ số thanh
toán tức thời là tốt hay xấu cần xét đến đặc điểm và điều kiện kinh doanh của doanh
nghiệp. Hệ số này cao làm giảm khả năng sinh lời của vốn lưu động nhưng lại đảm
bảo được khả năng thanh toán tức thời. Nếu hệ số này thấp tuy làm nâng cao khả năng
14
Thang Long University Library
sinh lời của vốn lưu động nhưng nó gây nguy cơ mất khả năng thanh toán tức thời của
doanh nghiệp.
(3) Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả các bộ phận cấu thành lên vốn lƣu động
Tốc độ luân chuyển hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho
Đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, được tính bằng tỷ lệ giữa giá vốn hàng bán và giá trị hàng tồn kho
(nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm…).
Vòng quay hàng tồn kho =
Giá vốn hàng bán
Giá trị hàng tồn kho
Chỉ số này càng cao số vòng quay càng lớn thì hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh
nghiệp càng tốt, cho thấy doanh nghiệp bán hàng nhanh và hàng tồn kho không bị ứ
đọng nhiều trong doanh nghiệp. Tuy nhiên nếu chỉ số này quá cao cũng không tốt
chứng tỏ lượng hàng dự trữ trong kho không nhiều nếu nhu cầu thị trường đột ngột
tăng mạnh thì rất có khả năng doanh nghiệp không đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng và bị đối thủ giành mất khách hàng. Ngoài ra, dự trữ nguyên vật liệu không đủ
đáp ứng cho sản xuất thì sản xuất sẽ bị ngưng trệ. Vì vậy, phải cân bằng chỉ số hàng
tồn kho sao cho đảm bảo được sản xuất đồng thời đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Hệ số này lớn cho thấy tốc độ quay vòng của hàng hóa trong kho là nhanh, doanh
nghiệp có thể rút ngắn được chu kỳ kinh doanh và giảm lượng vốn vào hàng tồn kho,
thể hiện hiệu quả sử dụng vốn cao. Ngược lại, nếu hệ số này nhỏ thì tốc độ quay vòng
hàng tồn kho thấp. Chứng tỏ hàng tồn kho chậm luân chuyển, vốn bị ứ đọng, làm giảm
khả năng sinh lời của doanh nghiệp, giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Thời gian quay vòng hàng tồn kho:
Thời gian quay vòng hàng tồn kho =
360
Số vòng luân chuyển hàng tồn kho
Chỉ tiêu này cho biết trong một chu kỳ kinh doanh, hàng tồn kho quay hết một
vòng bao nhiêu ngày. Chỉ tiêu này lớn hay nhỏ phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh
và tính chất của sản phẩm. Để xác định khả năng quản lý vốn của doanh nghiệp thì chỉ
tiêu này thường nhỏ hơn so với chỉ tiêu trung bình của ngành, phản ánh VLĐ của
doanh nghiệp rất linh hoạt, không bị ứ đọng trong quá trình dự trữ. Thời gian quay
vòng hàng tồn kho thấp thể hiện hiệu quả sử dụng vốn lưu động cao và ngược lại.
15
Tốc độ luân chuyển các khoản phải thu
Vòng quay các khoản phải thu:
Doanh thu thuần
Các khoản phải thu bình quân
Vòng quay các khoản phải thu =
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu
thành tiền mặt. Vòng quay càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi nợ của doanh nghiệp càng
nhanh, khả năng chuyển đổi các khoản nợ phải thu sang tiền mặt cao, điều này giúp
cho doanh nghiệp nâng cao nguồn tiền mặt, tạo sự chủ động trong việc tài trợ nguồn
vốn lưu động trong sản xuất. Do đó, vòng quay các khoản phải thu lớn chứng tỏ hiệu
quả sử dụng vốn lưu động tốt. Ngược lại, nếu hệ số này càng thấp thì số tiền của doanh
nghiệp bị chiếm dụng ngày càng nhiều, lượng tiền mặt sẽ ngày càng giảm, làm giảm
sự chủ động của doanh nghiệp trong việc tài trợ nguồn vốn lưu động trong sản xuất và
có thể doanh nghiệp phải đi vay thêm để tài trợ nguồn vốn lưu động, đồng nghĩa với
việc hiệu quả sử dụng vốn lưu động thấp.
Kỳ thu tiền bình quân
Kỳ thu tiền bình quân =
360
Vòng quay các khoản phải thu
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi vốn trong thanh toán
trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân một ngày. Chỉ tiêu này
cho biết bình quân trong bao nhiêu ngày doanh nghiệp có thể thu hồi các khoản phải
thu. Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền bình quân càng nhỏ và
ngược lại. Kỳ thu tiền bình quân thấp hay cao phụ thuộc vào mục tiêu và chính sách
của doanh nghiệp như mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín dụng,… Ngược lại
với vòng quay các khoản phải thu, nếu kỳ thu tiền bình quân thấp cho thấy hiệu quả sử
dụng vốn lưu động cao còn nếu kỳ thu tiền bình quân cao cho thấy hiệu quả sử dụng
vốn lưu động thấp.
Tốc độ luân chuyển các khoản phải trả
Vòng quay các khoản phải trả
Vòng quay các khoản phải trả là chỉ tiêu đo lường tốc độ thu hồi nợ của doanh
nghiệp và được xác định bởi công thức:
Vòng quay các khoản phải trả =
Giá vốn hàng bán + Chi phí chung, Chi phí bán hàng, quản lý
Phải trả người bán + Lương, thưởng, thuế
Đối lập với khoản phải thu và hàng tồn kho có xu hướng càng tăng càng tốt thì
đối với các doanh nghiệp càng được trả chậm càng tốt nên họ rất muốn kéo dài thời
gian trả nợ dẫn tới vòng quay các khoản phải thu thấp. Vòng quay phải trả thấp có thể
16
Thang Long University Library
là dấu hiệu cho thấy Công ty rất có uy tín và là khách hàng tốt của nhà cung cấp nên
được cho phép trả chậm, nhưng cũng có thể cho thấy khách hàng đang khó trả các
khoản nợ đến hạn. Việc quản trị các khoản phải trả không dễ dàng, không chỉ đòi hỏi
doanh nghiệp phải thường xuyên duy trì một lượng vốn tiền mặt để đáp ứng yêu cầu
thanh toán mà còn đòi hỏi việc thanh toán các khoản phải trả một cách chính xác để
nâng cao uy tín doanh nghiệp. Trong trường hợp Công ty không tạo ra đủ tiền mặt để
đáp ứng các khoản phải trả đến hạn, nó sẽ làm mất lòng tin của chủ nợ đối với doanh
nghiệp. Nếu vòng quay các khoản phải trả thấp cho thấy doanh nghiệp tận dụng tối đa
nguồn lực bên ngoài khi chiếm dụng vốn và quản lý tốt chi phí của mình, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn lưu động và ngược lại.
Kỳ trả tiền bình quân
Kỳ trả tiền bình quân =
360
Vòng quay các khoản phải trả
Kỳ trả tiền bình quân cho biết số ngày bình quân mà doanh nghiệp chiếm dụng
vốn của nhà cung cấp thông qua mua hàng hóa trả chậm trước khi thanh toán nợ. Kỳ
trả tiền bình quân càng dài phản ánh khả năng chiếm dụng vốn từ các doanh nghiệp
khác tốt. Kỳ trả tiền bình quân càng cao thể hiện hiệu quả sử dụng vốn lưu động cao
và ngược lại. Tuy nhiên, không phải kỳ trả tiền bình quân càng dài càng tốt, vì khi đó
nhà cung cấp bị thiệt và có thể gây ảnh hưởng không tốt cho mối quan hệ giữa doanh
nghiệp với các đối tác.
(4) Tỷ suất sinh lời vốn lƣu động
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận. Chỉ số này được xác định bởi công thức:
Tỷ suất sinh lời vốn lưu động =
Lợi nhuận sau thuế
Giá trị vốn lưu động bình quân
Tỷ suất sinh lời của vốn lưu động càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu
động càng tốt.
Phân tích hiệu quả sử dụng VLĐ thông qua mô hình Dupont
Mô hình Dupont là kỹ thuật được sử dụng để phân tích khả năng sinh lời của
một doanh nghiệp bằng các công cụ quản lý hiệu quả truyền thống. Mô hình Dupont
tích hợp nhiều yếu tố của báo cáo kết quả kinh doanh và bảng cân đối kế toán. Trong
phân tích tài chính, người ta vận dụng mô hình Dupont để phân tích mối liên hệ giữa
các chỉ tiêu tài chính. Chính nhờ sự phân tích mối liên kết giữa các chỉ tiêu tài chính,
chúng ta có thể phát hiện ra những nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích theo một
trình tự nhất định.
17
Để phân tích tỷ suất sinh lời của VLĐ có thể xác định thông qua mô hình sau:
ROLA =
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
Doanh thu thuần
Giá trị vốn lưu động
ROLA = Tỷ suất sinh lời trên doanh thu Vòng quay VLĐ
ROLA = ROS * Vòng quay VLĐ
Sau khi xây dựng được phương trình Dupont, áp dụng phương pháp loại trừ để
có thể xác định được mức độ ảnh hưởng của từng chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên doanh
thu (ROS) và số vòng quay TSLĐ (H) đến sự biến động của chỉ tiêu tỷ suất sinh lời
của tài sản lưu động như sau:
Ảnh hưởng của chỉ tiêu ROS đến sự biến động của ROLA
∆ROLAROS = H1 x (ROS1 – ROS0)
Ảnh hưởng của chỉ tiêu H đến sự biến động của ROLA
∆ROLAH = (H1 – H0) x ROS0
Trong đó:
H0: Vòng quay TSLĐ năm N-1
H1: Vòng quay TSLĐ năm N
ROS0: Tỷ suất sinh lời trên doanh thu năm N-1
ROS1: Tỷ suất sinh lời trên doanh thu năm N
Qua công thức trên có thể thấy 2 nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời trên
VLĐ là tỷ suất sinh lời trên doanh thu và Vòng quay VLĐ, như vậy muốn nâng cao
hiệu quả sử dụng VLĐ thì doanh nghiệp phải nâng cao hai tỷ số trên.
Thứ nhất là, vòng quay vốn lưu động càng cao chứng tỏ sức sản xuất của vốn
lưu động càng nhanh, đó là nhân tố tăng sức sinh lời của vốn lưu động, cụ thể hơn số
vòng quay của vốn lưu động bình quân trong kỳ lại bị ảnh hưởng bởi hai nhân tố là
tổng doanh thu thuần và vốn lưu động trong kỳ. Nếu doanh thu thuần lớn và vốn lưu
động bình quân trong kỳ nhỏ thì số vòng quay lớn. Tuy nhiên trong thực tế hai chỉ tiêu
này thường có mối quan hệ cùng chiều, khi vốn lưu động bình quân kỳ tăng thì doanh
thu thuần cũng tăng ví dụ như khi doanh nghiệp nới lỏng hơn chính sách tín dụng
thương mại, dẫn đến khoản phải thu khách hàng tăng, hàng tồn kho tăng và doanh thu
thuần cũng tăng lên…. Trên cơ sở đó, nếu doanh nghiệp muốn tăng vòng quay của vốn
lưu động thì cần phân tích các nhân tố liên quan, phát hiện những mặt tích cực và tiêu
cực của từng nhân tố để có biện pháp nâng cao số vòng quay của tài sản thích hợp.
Thứ hai là, tỷ suất sinh lời trên doanh thu càng cao thì sức sinh lời của vốn
càng tăng. Tuy nhiên có thể thấy rằng tỷ suất sinh lời của doanh thu ảnh hưởng bởi hai
nhân tố là doanh thu và chi phí, nếu doanh thu cao và chi phí thấp thì tỷ suất sinh lời
18
Thang Long University Library
trên doanh thu tăng và ngược lại. Tuy nhiên, trong thực tế khi doanh nghiệp tăng
doanh thu thì kéo theo mức chi phí cũng tăng lên như chi phí giá vốn, chi phí quản lý,
chi phí bán hàng… Chính vì vậy, để có thể tăng được tỷ suất sinh lời trên doanh thu,
doanh nghiệp cần nghiên cứu những nhân tố cấu thành lên tổng chi phí để có các biện
pháp điều chỉnh phù hợp, đồng thời có các biện pháp đẩy nhanh tốc độ bán hàng, tăng
doanh thu và giảm các khoản giảm trừ doanh thu.
So sánh giữa khoản phải thu và khoản phải trả
Tỷ lệ khoản phải trả và khoản phải thu =
Các khoản phải trả
Các khoản phải thu
Nếu tỷ lệ này > 1, điều này có nghĩa là các khoản phải trả lớn hơn khoản phải thu
đồng nghĩa với việc số tiền Công ty đi chiếm dụng lớn hơn số tiền Công ty bị chiếm
dụng. Ngoài ra, điều này còn cho thấy Công ty đã quản lý tốt chi phí của mình, tận
dụng tối đa nguồn vốn từ bên ngoài, tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Nếu tỷ lệ này = 1, cho thấy các khoản phải trả bằng với các khoản phải thu hay
số tiền Công ty bị chiếm dụng tương đương với số tiền Công ty đi chiếm dụng. Nhưng
trên thực tế, trường hợp này rất ít khi xảy ra.
Nếu tỷ lệ này < 1, cho thấy các khoản phải trả nhỏ hơn các khoản phải thu hay số
tiền Công ty đi chiếm dụng nhỏ hơn số tiền Công ty bị chiếm dụng, điều này cho thấy
Công ty đang bị chiếm dụng vốn, gây ra tình trạng ứ đọng vốn, làm giảm hiệu quả sử
dụng vốn lưu động.
Thời gian luân chuyển vốn bằng tiền trung bình
Thời gian luân chuyển vốn bằng tiền trung bình phản ánh khoảng thời gian kể từ
khi doanh nghiệp thanh toán tiền mua hàng hóa đầu vào cho tới khi doanh nghiệp thu
được tiền về.
Thời gian luân
Kỳ thu tiền
Thời gian quay vòng
Kỳ trả tiền
chuyển vốn
=
+
bình quân
hàng tồn kho
bình quân
bằng tiền
Các doanh nghiệp luôn mong muốn có thời gian luân chuyển vốn bằng tiền thấp
do chỉ khi nào dòng tiền thực sự quay trở lại doanh nghiệp, kinh doanh mới thực sự đạt
hiệu quả trên thực tế và thời gian luân chuyển vốn bằng tiền càng ngắn, doanh nghiệp
thu hồi vốn càng nhanh. Tuy nhiên, để làm được điều đó các doanh nghiệp buộc phải
cung cấp chính sách tín dụng thương mại thắt chặt, đồng thời tăng khả năng chiếm
dụng vốn của khách hàng. Điều này dẫn tới những ảnh hưởng không có lợi trong mối
quan hệ của doanh nghiệp với các đối tác.
19
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động
1.2.4.1. . Các nhân tố chủ quan
Đây là nhân tố nằm trong nội bộ doanh nghiệp, nó tác động trực tiếp tới việc
nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ nói riêng và vốn kinh doanh nói chung.
Trình độ quản lý và sử dụng nguồn vốn nhà quản lý: Đây là nhân tố ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả hoạt động cũng như hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp có một ban lãnh đạo có trình độ quản lý tốt từ trên xuống sẽ giúp
cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cao và ngược lại trình độ quản lý của lãnh
đạo mà yếu kém sẽ dẫn tới việc thất thoát vật tư hàng hóa trong quá trình mua sắm, dự
trữ, sản xuất và tiêu thụ, làm giảm hiệu quả của doanh nghiệp. Nhà quản lý phải biết tổ
chức, sắp xếp mọi thứ một cách hợp lý, chặt chẽ và khoa học để mọi công việc được
diễn ra nhịp nhàng, ăn khớp và tránh được tình trạng lãng phí. Có như vậy mới đảm
bảo được hiệu quả sử dụng VLĐ.
Công cụ chủ yếu để quản lý nguồn vốn là hệ thống kế toán tài chính của doanh
nghiệp. Nếu công tác kế toán được thực hiện không tốt sẽ dẫn đến mất mát, chiếm
dụng, sử dụng không đúng mục đích,… gây lãng phí nguồn vốn. Hơn nữa, việc sự
dụng vốn còn thể hiện thông qua phương án đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư. Việc lựa
chọn không phù hợp và đầu tư vốn vào các lĩnh vực không hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng
vừa thừa lại vừa thiếu vốn, gây ứ đọng, hao hụt, mất mát làm cho hiệu quả sử dụng
VLĐ thấp.
Trình độ nguồn nhân lực: Nếu một doanh nghiệp chỉ có cán bộ lãnh đạo tốt thì
chưa đủ mà quan trọng hơn là doanh nghiệp phải có một đội ngũ người lao động tốt,
đủ sức thực hiện các kế hoạch đề ra. Sở dĩ như vậy là vì chính người lao động mới là
người thực hiện các kế hoạch đề ra, là người quyết định vào sự thành công hay thất bại
của kế hoạch đó. Nếu người lao động có trình độ tay nghề cao, có ý thức kỉ luật, gắn
bó hết mình vào sự phát triển của doanh nghiệp thì NVL hay công cụ dụng cụ trong
khoản mục hàng tồn kho sẽ được sử dụng tối đa, do vậy mà hiệu quả sử dụng vốn lưu
động được nâng cao.
Uy tín trong kinh doanh: Đó là quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng và
quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp. Các mối quan hệ này rất quan trọng, nó
có ảnh hưởng tới nhịp độ sản xuất, khả năng phân phối sản phẩm, lượng hàng tiêu
thụ,… là những vấn đề trực tiếp tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Cụ thể như
một doanh nghiệp có thương hiệu vững mạnh trên thị trường, được đông đảo người
tiêu dùng biết đến thì số lượng hàng hóa tiêu thụ hàng năm sẽ ổn định do có được
lượng khách hàng trung thành bên cạnh đó phát huy tốt các chính sách marketing sẽ có
thêm những khách hàng mới tăng thu nhập cho doanh nghiệp. Ngoài ra, một doanh
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -