Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu tình hình sản xuất cây cà phê...

Tài liệu Nghiên cứu tình hình sản xuất cây cà phê

.PDF
51
83
89

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Qua thời gian thực tập tại xã Đăk Pne, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum nhờ sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong trường, các đồng chí cán bộ công chức xã, bà con nhân dân trên địa bàn xã, tôi đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành cảm ơn: Thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Bùi Quang Bình đã tận tình chỉ bảo tôi trong suốt thời gian thực tập và viết báo cáo. Ban lãnh đạo, các đồng chí công tác tại UBND Xã Đăk Pne, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum đã nhiệt tình giúp đỡ trong suốt thời gian thực tập tại địa bàn xã. Các hộ gia đình tại địa bàn đã nhiệt tình cung cấp thông tin trong quá trình điều tra, thu thập số liệu trong suốt thời gian vừa qua. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới quý thầy cô của bộ môn Kinh tế, khoa Kinh tế phát triển đã giúp em có thêm kiến thức, tạo điều kiện để em được đi thực tập cuối khóa đợt này. Vì kiến thức và kinh nghiệm còn nhiều hạn chế nên đề tài mà tôi thực hiện không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của các thầy cô. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn. Kon Tum, ngày 10 tháng 10 năm 2012 Sinh viên Thái Thành Kiên 1 MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài: Cây cà phê được trồng ở nước ta hơn 100 năm nay và nó đã dần dần khẳng định được chỗ đứng của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đã gia nhập WTO. Diện tích, năng suất, sản lượng cà phê tăng nhanh, kim nghạch xuất khẩu cà phê ngày càng tăng không chỉ đem lại nguồn thu lớn cho đất nước mà còn góp phần tạo công ăn việc làm, tạo sinh kế dần dần ổn định thu nhập và từng bước cải thiện đời sống cho người dân. Cà phê là cây công nghiệp quan trọng, nó không chỉ là cây trồng lợi thế của vùng Tây Nguyên mà còn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam từ năm 1857, mãi đến đầu thế kỷ XX mới được phát triển trồng ở một số đồn điền của người Pháp. Trải qua nhiều hình thức tổ chức sản xuất từ các đồn điền cà phê đến các nông trường quốc doanh cà phê. Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đã có diện tích trồng cà phê trên 500.000 ha với sản lượng cà phê xuất khẩu hàng năm trên dưới 900.000 tấn với kim ngạch xấp xỉ trên dưới 1,5 tỷ USD. Việt Nam là một nước sản xuất, xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới và là nước xuất khẩu cà phê Robusta số 1 thế giới. Hiện nay Cà phê Việt Nam đang được xuất khẩu sang 88 quốc gia và vùng lãnh thổ, trên các châu lục. Nó không những mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn mang lại hiệu quả xã hội và cải thiện môi trường sinh thái rất lớn. Đóng góp vào kết quả trên phải kể đến vai trò tích cực của vùng kinh tế Tây Nguyên. Kon Tum là tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên có vị trí kinh tế - xã hội chiến lược đồng thời với điều kiện sinh thái khá thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, nhất là cà phê, cao su, ca cao, điều tiêu,…trong đó cà phê là cây trồng chủ lực có diện tích lớn và phát triển nhanh trên địa bàn tỉnh. Đến nay cà phê là một trong những loại cây trồng cho sản phẩm xuất khẩu lớn nhất của tỉnh. Tuy nhiên do nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ 2 quan, mà hiệu quả kinh tế trong sản xuất cà phê vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng mà mình có. Do đó trong những năm tới cần có những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất cà phê góp phần thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh phát triển hơn nữa. Người dân sống trên địa bàn xã Đăk Pne, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum phần lớn đều sồng chủ yếu dựa vào nguồn thu nhập từ nông nghiệp mà nguồn thu từ cây cà phê cũng là một trong những cây trồng mang lại nguồn thu nhập cao cho người dân. Cũng như hầu hết các địa bàn khác, xã Đăk Pne cũng có những điều kiện rất thuận lợi để phát triển cây cà phê, tuy nhiên do kỹ thuật canh tác của người dân còn hạn chế, chưa đúng yêu cầu, công tác thu hoạch bảo quản sau thu hoạch chưa đạt tiêu chuẩn nên hiệu quả mang lại chưa cao. Do đó một yêu cầu được đặt ra trong việc phát triển kinh tế của xã đó là tìm các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất cà phê. Xuất phát từ thực tiễn đó tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu tình hình sản xuất cây cà phê trên địa bàn xã Đăk Pne, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum” để làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu: - Tìm hiểu về tình hình sản xuất cà phê của nhân dân trên địa bàn xã Đăk Pne, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất cây cà phê của nhân dân trên địa bàn xã. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Các hộ sản xuất cà phê trên địa bàn xã Đăk Pne, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu tình hình sản xuất cà phê của nhân dân trên địa bàn xã Đăk Pne năm 2011. - Phạm vi về không gian: 3 Tiến hành điều tra thu thập số liệu tại các hộ dân trên địa bàn xã Đăk Pne, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum. - Phạm vi về nội dung: + Thực trạng sản xuất cà phê của các hộ dân được điều tra. + Những thuận lợi khó khăn trong quá trình sản xuất cà phê của nhân dân. + Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất cà phê của nhân dân. 4. Phương pháp nghiên cứu: 4.1. Phương pháp chọn địa điểm nghiên cứu: Chọn ngẫu nhiên các hộ nông dân trên địa bàn xã Đăk Pne. 4.2. Phương pháp thu thập số liệu và thông tin: 4.2.1. Số liệu thứ cấp: Là những tài liệu sẵn có liên quan đến cơ sở lý luận, thực tiễn của đề tài, thông qua báo cáo luận văn, tài liệu tham khảo, các sách báo tạp chí, các kết quả nghiên cứu trước đây…trong các thư viện, internet, tư liệu khoa bằng cách sao chụp, in chụp những phần có liên quan đến đề tài. Các báo cáo của ủy ban nhân dân xã Đăk Pne, số liệu thu thập từ các bảng báo cáo tổng kết, phương hướng nhiệm vụ kế hoạch và các tài liệu liên quan của Ủy ban nhân dân xã trong 3 năm và các số liệu chung về tình hình phát triển kinh tế xã hội qua ba năm 2009, 2010, 2011. 4.2.2. Số liệu sơ cấp: Bao gồm những số liệu thu thập được thông qua phỏng vấn hộ sản xuất cà phê trên địa bàn xã Đăk Pne. Các thông tin này được thu thập từ phỏng vấn bằng phiếu điều tra nông hộ. 4.3. Phương pháp xử lý số liệu và thông tin: Số liệu được xử lý bằng công cụ máy tính (phần mềm Microsoft Excel) dùng để tính toán các chỉ số tuyệt đối, tương đối, bình quân các dữ liệu thứ cấp. 4 Số liệu được thể hiện thông qua có thể dưới dạng bảng biểu. 4.4. Phương pháp phân tích: 4.4.1. Phương pháp thống kê mô tả: Sử dụng số bình quân để phản ánh thực trạng phát triển kinh tế của xã cũng như tình hình sản xuất cà phê của các nông hộ trong xã. 4.4.2. Phương pháp thống kê kinh tế: Là nghiên cứu các hiện tượng bằng thống kê trên cơ sở thu thập tổng hợp, phân tích, so sánh các số liệu và hiện tượng, khi phân tích thường sử dụng các cách phân tổ, hệ thống các chỉ tiêu để tìm ra tính quy luật và rút ra những kết luận cần thiết. 4.4.3. Phương pháp so sánh: So sánh theo không gian: Các thông tin khi thu thập và được so sánh giữa các hộ trong xã. So sánh với mức trung bình: các thông tin khi thu thập và được so sánh với mức trung bình chung. Dùng phương pháp so sánh để thấy xu hướng vận động, nhịp độ hoạt động và làm rõ thực trạng. Có hai loại so sánh đó là so sánh tuyệt đối và so sánh tương đối. 4.4.4. Phương pháp SWOT: SWOT là tập hợp viết tắt những chữ cái đầu tiên của các từ tiếng anh: Strengths (điểm mạnh), Weaknesses (điểm yếu), Opportunities (cơ hội) và Threats (thách thức). Strengths (điểm mạnh) Liệt kê các điểm mạnh chủ yếu. Opportunities (cơ hội) Liệt kê các cơ hội chính liên quan. Weaknesses (điểm yếu) Liệt kê các điểm yếu tiêu biểu. Threats (thách thức) Liệt kê các nguy cơ chủ yếu. 5. Kết cấu của chuyên đề: Ngoài phần mở đầu thì chuyên đề gồm 4 Chương chính sau: 5 Chương 1: Những vấn đề chung về sản xuất cà phê và tình hình sản xuất cà phê. Chương 2: Những vấn đề chủ yếu về kinh tế - tổ chức sản xuất cà phê trên địa bàn nghiên cứu. Chương 3: Định hướng, mục tiêu, giải pháp phát triển cây cà phê. Chương 4: Kết luận – Kiến nghị. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ SẢN XUẤT CÀ PHÊ VÀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CÀ PHÊ 1.1. Khái quát về cây cà phê: 1.1.1. Khái quát về cây cà phê: Cà phê là một thứ nước uống quen thuộc của hàng trăm triệu người trên toàn thế giới. Bên cạnh đó nó còn là mặt hàng thương mại quan trọng trên thị trường quốc tế, thứ 2 sau dầu mỏ. Cà phê bao gồm nhiều loài cây lâu năm khác nhau (khoảng từ 25-100 loại). Tuy nhiên, không phải loài nào cũng chứa caffein trong hạt, một số loài khác xa với những cây cà phê ta thường thấy. Chỉ có hai loài cà phê có ý nghĩa kinh tế. Loài thứ nhất có tên thông thường trong tiếng Việt là cà phê chè (tên khoa học: Coffea Arabica), đại diện cho khoảng 61% các sản phẩm cà phê trên thế giới. Loài thứ hai là cà phê vối (tên khoa học: Coffea canephora hay Coffea robusta), chiếm gần 39% các sản phẩm cà phê. Ngoài ra còn có Coffea liberica và Coffea excelsa (ở Việt Nam gọi là cà phê mít) với sản lượng không đáng kể. Coffea ArabicaLine gọi tắt là cà phê Arabica, tên Việt Nam là cà phê chè. Cà phê chè phát triển trên đất giàu khoáng chất, khí hậu ôn hòa, nhiệt độ bình quân từ 18-22oC, với độ cao trên 1000m, và lượng mưa hàng năm khoảng 1500-1800mm, mùa khô kéo dài không quá 6 tháng. Những loại cà phê Arabica nổi tiếng là: Moka, Maragogipe, CanRamon…Cà phê Arabica chứa lượng cafeine thấp, hương vị thơm ngon. Coffea Robusta có tên Việt Nam là cà phê vối. Loại cà phê này sống ở nơi có khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới nóng ẩm với nhiệt độ trung bình 2025oC, biên độ dao động nhiệt ngày và đêm khô quá lớn. Lượng mưa hàng năm lớn (từ 1000 đến 2500mm) sẽ tốt cho sự sinh trưởng và ra quả của cây cà phê Robusta. Cây cà phê này phát triển tốt ở độ cao khoảng 600m và có đề kháng sâu bệnh cao. Với lượng cafeine cao gấp 2 lần cà phê Arabica, nên nó thường được sử dụng trong các công thức pha trộn. 7 Ở Việt Nam, ngoài 2 loại cà phê có tính thương mại trên, còn có thêm một số loại cà phê khác gọi là cà phê mít, dâu da… 1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình sản xuất cây cà phê: 1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên: Quá trình sản xuất cà phê thường bị ảnh hưởng bởi vị trí, địa hình, khí hậu, thời tiết, tài nguyên đất,…những nhân tố này ảnh hưởng quan trọng đối với việc sản xuất ra khối lượng cà phê và cà phê hàng hoá. Sản xuất cà phê hàng hoá chỉ thực sự có hiệu quả khi trồng trọt thích ứng với điều kiện tự nhiên, điều này đòi hỏi phải lựa chọn giống cà phê thích hợp với điều kiện tự nhiên, nâng cao trình độ chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp, gắn sản xuất với chế biến cà phê. a. Đất đai: Sản xuất cà phê trong các khu vực địa lý khác nhau có thể sẽ có năng suất khác nhau. Sự khác biệt này có thể do điều kiện môi trường khác nhau giữa các vùng, như điều kiện về đất, chất dinh dưỡng, khí hậu, giống cây… Cây cà phê không đòi hỏi khắt khe về đất, nó có thể phát triển tốt trên nhiều loại đất khác nhau như: Đất nâu đỏ, nâu vàng hoặc đất xám …. Trong đó, đất đỏ bazan cây cà phê sinh trưởng tốt, cho năng suất cao. Yêu cầu cơ bản là có tầng đất mặt sâu từ 70 cm trở lên, có thành phần cơ giới trung bình đến hơi nặng (Đất thịt nhẹ- sét). b. Thời tiết khí hậu: - Nhiệt độ: Cây cà phê vối sinh trưởng phát triển thích hợp nhất ở nhiệt độ từ 22 – 26oC. Cây cà phê ưa nóng ẩm với nhiệt độ 24-26oC là thích hợp và nhiệt độ tới thấp không dưới 7 oC. Cà phê mít thích hợp với nhiết độ 23-25 oC, nó nhạy cảm với lạnh hơn là khô. Nói chung là cây cà phê cần nhiệt độ từ 2025oC, biên độ nhiệt là 15-30oC ngoại trừ cây cà phê vối có khả năng thích nghi ở nơi có biên độ nhiệt lớn hơn từ 5-32oC. - Lượng mưa: Cây cà phê sinh trưởng phát triển tốt ở những vùng có lượng mưa hàng năm 1.800 – 2.000 mm, có một mùa khô ngắn vào cuối và sau vụ thu hoạch để phân hóa mầm hoa. 8 Độ ẩm không khí thích hợp với cây cà phê là từ 70% trở lên. Độ ẩm không khí càng cao càng tốt đối với cây cà phê, đặc biệt là giai đoạn cây cà phê ra hoa. Cây cà phê (Vối) thích hợp trong điều kiện ẩm độ cao, gần như bão hòa. - Ánh sáng: Cây cà phê vối thích hợp ánh sáng trực xạ yếu, do đó cần trồng cây che bóng để điều hòa ánh sáng cho vườn cây cà phê hợp lý đặc biệt là giai đoạn kiết thiết cơ bản. - Gió: Gió nóng, lạnh hay gió mạnh đều gây ảnh hưởng cho sinh trưởng phát triển cây cà phê. Khi lập vườn cần trồng cây chắn gió phù hợp cho vườn cà phê. Tốc độ gió thích hợp là 2-3met/giây trong lô trồng. Tóm lại: Cây cà phê có những yêu cầu sinh thái riêng, đòi hỏi điều kiện về đất đai và thời tiết khí hậu thích hợp. Khi đáp ứng được những yêu cầu này cây cà phê sẽ sinh trưởng và cho năng suất cao, chất lượng tốt. Trên thế giới, ở Brazil và Colombia điều kiện tự nhiên rất thích hợp với cây cà phê. Nếu cây cà phê được trồng ở những nơi không đáp ứng được các điều kiện trên thì cần phải khắc phục bằng các biện pháp kỹ thuật như: tưới nước, trồng cây che bóng…Tuy nhiên thiên nhiên thường diễn biến rất phức tạp. Thiên tai như sương muối, gió nóng…cùng với sâu bệnh ảnh hưởng rất lớn đến việc sản xuất cà phê. Lịch sử của ngành cà phê cho thấy chính thiên tai đã gây cho ngành bao thăng trầm và biến động mạnh về giá cả. 1.1.2.2. Tình hình phát triển KT-XH: Nhóm nhân tố này rất phức tạp vì nó là tổng hợp của những tác động của các vấn đề kinh tế. Nhóm các nhân tố này cũng rất quan trọng vì nó cho có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm nhóm các nhân tố tự nhiên và nhân tố kỹ thuật. Điều kiện tự nhiên dù có thuận lợi tới đâu nhưng nếu không có các biện pháp kinh tế- tổ chức sản xuất cà phê hợp lý thì hiệu quả đạt được cũng không cao. Các nhân tố này bao gồm nhiều nhân tố khác nhau như: Quy hoạch, bố trí sản xuất cà phê; Chính sách kinh tế với sản xuất cà phê; Đầu tư xây dựng cơ bản và thâm canh. Cụ thể: 9 - Vốn và sử dụng vốn: Muốn nâng cao trình độ sản xuất cà phê hàng hoá thì phải có vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Tốc độ sản xuất cà phê hàng hoá tuỳ thuộc vào mức thu nhập và khả năng tích luỹ của các nông hộ cũng như sự đầu tư của nhà nước thông qua hệ thống tài chính tín dụng. - Áp dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ: Đây là một nhân tố trực tiếp làm thay đổi trạng thái sản xuất cà phê, nâng cao khối lượng và chất lượng sản phẩm cà phê. - Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước: Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình sản xuất cà phê hàng hoá. Nếu không có sự can thiệp của nhà nước trong nền kinh tế thị trường thì quá trình sản xuất cà phê hàng hoá tự phát khó tránh khỏi những rủi ro dẫn đến lãng phí cho nền kinh tế, gây thiệt hại đối với người sản xuất cũng như người tiêu dùng. Do đó cần có chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước để định hướng và tác động đúng hướng thúc đẩy nâng cao sản xuất cà phê hàng hoá. Tóm lại, khi sản xuất cà phê thì mỗi nhân tố trên đều có ảnh hưởng theo chiều hướng, mức độ khác nhau nên cần phải được chú trọng kết hợp cả ba nhóm nhân tố đó để mang lại kết quả sản xuất cao nhất. 1.1.2.3. Nhân tố kỹ thuật sản xuất cà phê: Không chỉ những điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến cây cà phê mà cây cà phê muốn cho năng suất, chất lượng cao rất cần những người lao động có chuyên môn, kỹ thuật. Hiện nay, hàng loại những tiến bộ kỹ thuật mới đã được nghiên cứu và ứng dụng trong sản xuất cà phê. Những tiến bộ kỹ thuật chủ yếu về các vấn đề sau: - Lai tạo giống: các nhà khoa học đã cố gắng tạo ra các giống cây có năng suất, chất lượng cao, có khả năng chống chịu tốt với điều kiện môi trường và thích ứng được điều kiện ngoại cảnh trên diện rộng. - Chất hóa học, thành tựu trong phòng trừ sâu bệnh cũng như cỏ dại. - Áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong cơ giới hóa, điện khí hóa…trong trồng trọt, chăm sóc, thu hoạch, chế biến, bảo quản sản phẩm cà phê. 10 Những biện pháp kỹ thuật mới có ý nghĩa rất lớn với ngành cà phê. Cây cà phê không những cho sản phẩm có năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn, mà còn hạn chế được những tác hại, ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh. Chính những tiến bộ kỹ thuật này đã hợp thành nhóm các nhân tố kỹ thuật sản xuất mà chúng ta cần quan tâm để việc sản xuất cà phê cho hiệu quả cao nhất. 1.1.2.4. Nhân tố thị trường: Trong nền kinh tế thị trường, việc sản xuất cà phê gì? Như thế nào? để đạt hiệu quả cao do thị trường quyết định. Cho nên, cầu thị trường là căn cứ thúc đẩy, người sản xuất lựa chọn cho mình khả năng tham gia cụ thể vào thị trường. Khi thị trường ngày càng phát triển, làm cho cà phê hàng hoá ngày càng đa dạng phong phú, đòi hỏi về số lượng và chất lượng cà phê hàng hoá ngày càng cao. 1.1.3. Ý nghĩa của sản xuất cà phê: 1.1.3.1. Sản xuất cà phê tạo ra các sản phẩm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của xã hội: a. Là loại đồ uống cao cấp được tiêu dùng rộng rãi trên thế giới: Cà phê là một loại cây công nghiệp, phát triển ở những nước có khí hậu nhiệt đới. Uống cà phê được coi như một lối sống văn hóa của một số dân tộc trên thế giới và mỗi quốc gia có một phong cách riêng. Với những giá trị văn hóa, cùng với giá trị kinh tế, cà phê ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người dân từ thành thị đến nông thôn. Nhu cầu tiêu dùng cà phê không ngừng được tăng lên cả cả về số lượng cũng như chất lượng. Đối với các nước phát triển, cà phê thực sự là một nhu cầu thiết yếu. Lượng tiêu thụ cà phê bình quân đầu người ở các nước Tây Âu là 5kg hàng năm. Ở một số quốc gia, cà phê thực sự như là một nguồn năng lượng cho hoạt động của con người cũng như dầu mỏ đối với nền kinh tế. Nhu cầu cà phê còn lan rộng ra cả những nước có truyền thống uống trà như Nhật, Trung Quốc trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và hội nhập kinh tế… b. Bên cạnh đó, sản phẩm cà phê là nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp thực phẩm: bánh kẹo cà phê, rượu cà phê… 11 1.1.3.2. Sản xuất cà phê mang lại nguồn lợi nhuận lớn cho nhiều nước: a. Thế giới: Xuất khẩu cà phê đã mang lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho nhiều nước trên thế giới. Tại 17 quốc gia trồng cà phê chính, mặt hàng này đóng góp 25% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Cà phê là một trong những mặt hàng có tính thương mại cao. Trong niên vụ 2001/2002 tỷ lệ xuất khẩu cà phê đã lên đến 75.14% sản lượng sản xuất toàn thế giới. Cà phê đã đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho các nước xuất khẩu mặt hàng này. Thu nhập từ cà phê chiểm 5% ở Brazil và 20% ở Colombia. Ở một số quốc gia Trung Mỹ cà phê cũng chiểm đến 20-30% tổng thu nhập xuất khẩu như Guatemala, Honduras, Nicoragua… Cà phê còn là một loại nông sản quan trọng với các nước chậm phát triển ở Châu Phi vì nó tạo ra nguồn ngoại tệ chủ yếu trong những năm 19891992: Uganda (83,3%), Burindi (75%), Rwanda (58%) và Ethiophia (57,6%). Một số nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới là:Brasil, Việt Nam, Colombia, Indonesia, Ấn Độ, Mexico, Ethiopia, Guatemala, Peru….Sản lượng của các nước này chiếm tới 88% sản lượng cà phê xuất khẩu của cả thế giới. Trong đó riêng sản lượng của Brazil đã chiếm tới hơn 30%. Tổng sản lượng của ba quốc gia đứng đầu là Brazil, Việt Nam và Colombia nhiều hơn tất cả các nước khác cộng lại. Lượng cà phê thế giới xuất khẩu ước tính đạt 8,87 triệu bao trong tháng 12 năm 2008, tăng so với 7,51 triệu bao cùng kỳ năm 2007. Lượng xuất khẩu trong 3 tháng đầu niên vụ 2008/09 (từ tháng 10 đến 12/2008) đã tăng từ 21,8 triệu bao cùng kỳ niên vụ trước lên 23,1 triệu bao niên vụ này, tương đương với mức tăng 5,8 %. Trong năm 2008, lượng cà phê Arabica xuất khẩu đạt 63,4 triệu bao, tăng so với 62,4 triệu bao năm 2007; trong khi đó ; lượng cà phê Robusta xuất khẩu chỉ đạt 33,2 triệu bao, giảm so với 34 triệu bao năm trước. b. Việt Nam: Năm 2000, nước ta đã xuất khẩu 680.000 tấn cà phê, đạt kim ngạch xuất khẩu trên 500 triệu USD, đứng thứ hai trên thế giới về xuất 12 khẩu cà phê, sau Brazil. Cà phê Việt Nam đã xuất khẩu sang 54 nước, trong đó các nước nhập khẩu trên 10.000 tấn cà phê là Hoa Kỳ, Đức, Italia, Tây Ban Nha, Bỉ, Pháp, Ba Lan, Anh, Nhật Bản, áo, Hàn Quốc, Canada và Hà Lan. Năm 1975, toàn quốc mới có 14.000 ha cà phê, sản lượng dưới 5.000 tấn, năng suất 4 tạ/ha. Nhưng đến năm 2000, Việt Nam đã mở rộng diện tích trồng cà phê lên 430.000 ha, năng suất bình quân trên 15 tạ/ha. Trong đó, khu vực Tây Nguyên có 230.000 ha cà phê, sản lượng 380.000 tấn/năm. Cà phê của Việt Nam có phẩm chất thơm ngon nhờ giống tốt, được trồng trên vùng cao nguyên có điều kiện khí hậu thổ nhưỡng rất thích hợp. Hiện nay, Việt Nam đã là nước xuất khẩu cà phê thứ 2 trên thế giới, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu trên một triệu tấn cà phê vối đến hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ. Niên vụ cà phê 2007/2008 từ tháng 1 năm 2007 đến tháng 9 năm 2008 là vụ thứ 3 liên tiếp ngành cà phê lập kỷ lục vì giá trị xuất khẩu với kim ngạch 2,08 tỷ USD. Đây cũng là vụ bội thu nhất trừ trước đến nay. 1.1.3.3. Sản xuất cà phê là ngành thu hút nhiều lao động, tạo công ăn việc làm cho nhiều người, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống: Trên thế giới hiện nay có khoảng 75 nước trồng cà phê và chủ yếu tập trung ở Nam Mỹ, Châu Phi và Châu Á. Khoảng 10 triệu lao động tham gia sản xuất cà phê. Tổng diện tích cà phê thế giới khoảng 10 triệu ha, sản lượng hàng năm trên dưới 6 triệu tấn, đem lại thu nhập cho khoảng 100 triệu người. Nếu kể cả những người trồng và người liên quan đến tiêu thụ thì trên thế giới có khoảng 20-25 triệu người sống nhờ cây cà phê. Nghề trồng cà phê ở Việt Nam là một nguồn thu nhập cho một nhóm đông dân cư ở nông thôn, trung du và miền núi. Cà phê đã tạo được việc làm cho hơn 600.000 nông dân cà số người có cuộc sống liên quan tới cà phê là khoảng trên 1 triệu người. 1.1.4. Tình hình sản xuất và tiên thụ cà phê: 1.1.4.1. Tình hình sản xuất cà phê trên thế giới: Trên thế giới hiện nay có 75 nước trồng cà phê với diện tích trên 10 triệu hecta và sản lượng hàng năm biến động trên dưới 6 triệu tấn. Năng suất bình 13 quân chưa vượt quá 6 tạ nhân/ha. Trong đó ở châu Phi có 28 nước năng suất bình quân không vượt quá 4 tạ nhân/ha. Nam Mỹ đạt dưới 6 tạ nhân/ha. Bốn nước có diện tích cà phê lớn nhất đó là: Brazil trên 3 triệu hecta chiếm 25% sản lượng cà phê thế giới, Côte D'voire (Châu Phi), Indonesia (Châu Á) mỗi nước khoảng 1 triệu hecta và Côlômbia có gần 1 triệu hecta với sản lượng hàng năm đạt trên dưới 700 ngàn tấn. Do áp dụng một số tiến bộ kỹ thuật mới như giống mới và mật độ trồng dày nên đã có hàng chục nước đưa năng suất bình quân đạt trên 1 tấn/ha. Điển hình có Costa Rica ở Trung Mỹ với diện tích cà phê chè là 85.000 ha nhưng đã đạt năng suất bình quân trên 1.400 kg/ha. Do sự xuất hiện và gây tác hại của bệnh gỉ sắt cà phê tại nhiều nước Trung và Nam Mỹ từ năm 1970 trở lại đây đã gây thêm những khó khăn và tốn kém cho nghề trồng cà phê ở khu vực này. Cà phê chè hiện nay vẫn chiếm 70% sản lượng của thế giới. Diện tích cà phê chè được trồng tập trung chủ yếu ở Trung và Nam Mỹ, một số nước ở Đông Phi như: Kenya, Cameroon, Ethiopie, Tanzania và một phần ở châu Á như: Indonesia, Ấn Độ, Philippines. Thị trường cà phê trên thế giới trong những năm vừa qua thường chao đảo, không ổn định nhất là về giá cả. Tổ chức cà phê thế giới (ICO) do không còn giữ được hạn ngạch xuất nhập khẩu, giá cả trôi nổi trên thị trường tự do cho nên có những giai đoạn giá cà phê xuống thấp chưa từng có so với vài chục năm trở lại đây. Tình trạng này đã dẫn đến hậu quả là nhiều nước phải hủy bỏ bớt diện tích cà phê, hoặc không tiếp tục chăm sóc vì kinh doanh không còn thấy có hiệu quả. Năm 1994 do những đợt sương muối và sau đó là hạn hán diễn ra ở Brazil, vì vậy đã làm cho sản lượng cà phê của nước này giảm xuống gần 50%, do đó đã góp phần làm cho giá cà phê tăng vọt, có lợi cho những người xuất khẩu cà phê trê thế giới. Cà phê là một loại nước uống cao cấp, nhu cầu đòi hỏi của người tiêu dùng vẫn không ngừng tăng lên, chưa có những sản phẩm nhân tạo được chấp nhận để thay thế cho cà phê, vì vậy việc trồng, xuất khẩu, nhập khẩu loại hàng hóa đặc biệt này vẫn có một ý nghĩa kinh tế lớn đối với nhiều nước.Vấn đề quan trọng cần có nhận thức đầy đủ là sản phẩm cà phê đem ra thị trường phải 14 đảm bảo chất lượng. Trong cơ chế thị trường thì tiền nào - của nấy lại càng đúng với mặt hàng cà phê. 1.1.4.2. Tình hình sản xuất cà phê ở Việt Nam: Cây cà phê được đưa vào trồng ở Việt Nam từ năm 1857, trước hết là ở một số nhà thờ tại Hà Nam, Quảng Bình, Kontum... Song mãi tới đầu thế kỷ hai mươi trở đi thì cây cà phê mới được trồng trên quy mô tương đối lớn của các chủ đồn điền người Pháp tại Phủ Quỳ - Nghệ An và sau đó là ở Đắc Lắc và Lâm Đồng, nhưng tổng diện tích không quá vài ngàn hecta. Sau cách mạng tháng 8, diện tích cà phê ở miền Bắc được phát triển thêm tại một số nông trường quốc doanh và thời kỳ có diện tích cao nhất là trên 10.000 ha vào năm 1963 - 1964. ở miền Nam trước ngày giải phóng, vào năm 1975 diện tích cà phê có khoảng 10.000 ha. Tại Đắc Lắc có khoảng 7.000 ha, Lâm Đồng 1.700 ha và Đồng Nai 1.100 ha. Cà phê trồng ở miền Bắc trong những năm trước đây chủ yếu là cà phê chè (Coffea arabica), năng suất thường đạt từ 400 - 600 kg/ha, có một số điển hình thâm canh tốt đã đạt trên 1 tấn/ha. Hạn chế lớn nhất đối với việc trồng cà phê chè ở miền Bắc là tác hại của sâu bệnh. Sâu đục thân (Xylotrechus quadripes) và bệnh gỉ sắt cà phê (Hemileia vastatrix), là hai đối tượng sâu bệnh hại nguy hiểm nhất. Do điều kiện sinh thái không phù hợp, đặc biệt là có một mùa đông giá lạnh kéo dài, vì vậy cây cà phê vối khó có khả năng phát triển ở miền Bắc, nhiều vùng đã trồng cà phê vối sau phải hủy bỏ vì kém hiệu quả. Diện tích trồng cà phê ở miền Nam trước ngày giải phóng chủ yếu là giống cà phê vối (Canephora robusta), một số diện tích nhỏ cà phê chè được trồng ở Lâm Đồng. Năng suất cà phê vối trong thời kỳ này thường đạt trên dưới 1 tấn/ha, ở một số đồn điền có quy mô vừa và nhỏ cũng đã đạt năng suất từ 2 - 3 tấn/ha. Ngày nay trong cơ chế quản lý mới, được áp dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật cho nên năng suất đã tăng lên rất nhanh. Tính đến cuối năm 1994, tổng số diện tích cà phê ở nước ta đã có khoảng 150.000 ha và sản lượng vụ năm 1993/1994 đã đạt trên 150.000 tấn. 15 Đến nay, diện tích cà phê cả nước đạt hơn 500.000 ha, năng suất đạt hơn 2 tấn/ha. Trung bình mỗi năm, Việt Nam xuất khẩu khoảng 1 triệu tấn cà phê nhân, kim ngạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 2 tỷ USD, chiếm hơn 8% kim ngạch xuất khẩu của cả ngành Nông nghiệp. Cà phê chủ yếu được trồng ở Tây Nguyên - khoảng 70%, còn lại là ở miền Đông Nam bộ và các nơi khác. Cà phê chủ yếu xuất khẩu 90%, trong nước tiêu thụ khoảng 10%. Việt Nam cũng là đối tác xuất khẩu cà phê của hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có nhiều thị trường truyền thống, lớn như: Đức, Mỹ, Tây Ban Nha. Hiệp Hội cà phê ca cao Việt Nam cũng thẳng thắn nhìn nhận việc thông tin của Hiệp hội chưa theo kịp được diễn biến thị trường, chưa phong phú và thiếu tính dự báo, năng lực kinh doanh của một số hội viên còn hạn chế…. Trong nhiệm kỳ tiếp theo, từ nay đến năm 2013, Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam nhận định, ngành cà phê Việt Nam sẽ gặp nhiều thách thức như: khí hậu biến đổi thất thường sẽ ảnh hưởng đến mùa vụ, thị trường và giá cả biến động ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh cà phê nước ta. Hiệp hội sẽ tập trung thực hiện 6 chương trình chính, quan trọng nhất là giữ vững diện tích khai thác 500.000 ha với sản lượng hơn 1,1 triệu tấn/năm, giữ 15% thị phần xuất khẩu cà phê thế giới, đẩy mạnh hợp tác và liên kết với các nước trồng cà phê lớn để học tập kinh nghiệm sản xuất. 1.1.4.3. Tình hình sản xuất cà phê ở Kon Tum: Hiện nay Kon Tum là một trong những tỉnh có sản lượng cà phê cao nhất trong cả nước. Cùng với việc tăng nhanh về diện tích, việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh như: chọn giống, bón phân, tưới nước, tạo tán...đã làm năng suất và sản lượng cà phê tăng mạnh. Những năm trước 1990, năng suất bình quân 1 ha cà phê kinh doanh chỉ đạt 8 - 9 tạ nhân, đến năm 1994 năng suất bình quân đạt 18,5 tạ/ha, hiện nay bình quân đạt 25 - 28 tạ/ha. Cá biệt ở một số vùng sản xuất đã cho năng suất bình quân đạt 35 - 40 tạ/ha, vườn cà phê một số hộ gia đình đạt trên 50 tạ/ha. 16 Là tỉnh có nền kinh tế nông nghiệp hàng hóa, sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi khá lớn về sản lượng, đa dạng về chủng loại, với nguồn nguyên liệu dồi dào và rất tốt cho ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Đặc biệt là tỉnh được thiên phú cho thừa hưởng diện tích đất đỏ bazan màu mỡ, rất thích hợp cho cây cà phê phát triển. Cây cà phê đã thực sự tạo ra hiệu quả kinh tế, xã hội rất quan trọng và to lớn cho người dân Kon Tum. Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh cà phê ở Kon Tum về diện tích, năng suất, sản lượng mặc dù đem lại nhiều lợi ích to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và người trồng cà phê, song cũng đặt ra những vấn đề bức xúc cần giải quyết. Trong giai đoạn năm 1994- 1999 do lợi nhuận từ trồng cà phê tăng cao, nên diện tích cà phê phát triển một cách ồ ạt, dẫn tới quy hoạch sử dụng đất bị phá vỡ; một số diện tích cây trồng khác bị thu hẹp và không phát triển, đặc biệt là diện tích rừng do người dân lấn chiếm rừng và đất rừng để khai phá trồng cà phê. Phần lớn diện tích cà phê do nông dân tự chọn giống để trồng, thời gian gần đây không ít diện tích đã bộc lộ nhiều nhược điểm, có xu hướng giống bị thoái hoá. Trong khi đó, các hoạt động khoa học - công nghệ và công tác khuyến nông chưa đáp ứng kịp yêu cầu của thực tiễn sản xuất. Công tác quản lý còn bất cập, mô hình liên kết “bốn Nhà”: Nhà nước- nhà khoa học - nhà nông - nhà doanh nghiệp chưa rõ ràng, khả năng liên kết kém, ít linh hoạt trong nhiều khâu, nhiều công đoạn. Năng suất, sản lượng, chất lượng, hiệu quả kinh tế của sản phẩm cà phê phụ thuộc rất lớn vào điều kiện khí hậu, thời tiết, sâu bệnh do thiên nhiên gây ra, cũng như do tác động và ảnh hưởng của biến động giá cả và nhu cầu tiêu thụ của thị trường trong nước và thế giới. Ngay ở trong nước, với trên 86 triệu dân mà mỗi năm cũng mới chỉ tiêu thụ khoảng trên 7% sản lượng cà phê hiện có. Chất lượng sản phẩm “Cà phê Da Vàng”, vốn là tốt do điều kiện sinh thái phù hợp mang lại, có sức cạnh tranh trên thị trường thì ngày nay có phần giảm sút do các doanh nghiệp và các hộ gia đình sản xuất cà phê chưa chú trọng việc chọn giống, trồng, chăm sóc, bón phân, phun thuốc bảo vệ thực vật, 17 công tác quản lý bảo vệ chưa tốt, thu hoạch quả xanh chiếm tỉ lệ cao, phơi, sấy, chế biến, bao bì, bảo quản, chưa đảm bảo theo qui trình kỹ thuật, dẫn đến chất lượng cà phê nhân giảm, chưa đáp ứng với yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. 1.1.5. Nội dung phát triển cây cà phê: 1.1.5.1. Phát triển theo chiều rộng cây cà phê: - Tăng sản lượng sản xuất: - Mở rộng diện tích: - Đầu tư vốn và lao động: - Tăng số lượng hộ sản xuất: 1.1.5.2. Phát triển theo chiều sâu: - Thâm canh: - Tăng năng suất: - Đầu tư giống mới: - Cải tiến kỹ thuật và phát triển công nghiệp chế biến: 1.1.5.3. Hoàn thiện về tổ chức sản xuất: 18 Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU VỀ KINH TẾ - TỔ CHỨC SẢN XUẤT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu: 2.1.1. Điều kiện tự nhiên: 2.1.1.1. Vị trí địa lý: Xã Đăk PNe là một trong hai xã thuộc diện đặc biệt khó khăn của huyện Kon Rẫy, cách trung tâm huyện 12 km về phía Đông Nam, có diện tích tự nhiên là: 16.185,97 ha. Xã Đăk Pne nằm ở tọa độ: Từ 14022’54” đến 14033’55” Vĩ độ Bắc. Từ 108012’30” đến 108023’16” Kinh độ Đông. - Phía Bắc giáp: Xã Măng Cành, huyện Kon Plong; - Phía Nam giáp: Tỉnh Gia Lai; - Phía Đông giáp: Tỉnh Gia Lai - Phía Tây giáp: Thị trấn Đăk RVe và xã Tân Lập. 2.1.1.2. Khí hậu – Thuỷ văn: a. Khí hậu, thời tiết: Xã Đăk Pne thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên. Khí hậu có hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11 mùa khô bắt đầu từ giữa tháng 11 đến cuối tháng 4. Nhiệt độ trung bình trong năm dao động trong khoảng 20 - 250C, biên độ nhiệt độ dao động trong ngày 5 - 70C. Nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất (tháng 5) dưới 25 0C, phổ biến 22-230C. Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối không vượt quá 30 0C. Độ ẩm trung bình nằm trên 85%, tháng có độ ẩm lớn nhất là tháng 7, 8 và tháng 9, phổ biến trên 92%. Lượng mưa trung bình năm phổ biến từ 2.400 - 2.800mm. Tháng có lượng mưa cao nhất là tháng 8. Mùa hạ quá thừa ẩm, mùa đông thiếu ẩm. Tổng nhiệt độ năm phổ biến từ 7.000 - 7.5000C. Nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất (tháng 1) là 16 - 170C. 19 b. Thuỷ văn: - Nước mặt: Xã Đăk PNe có nguồn nước mặt khá phong phú, sông Đăk PNe và các chi lưu của nó chảy theo hai hướng, một từ phía Bắc chảy xuống Nam và từ phía Nam chảy lên phía Bắc nhập lại ở khu trung tâm xã đổ về sông Đăk BLà. Tổng chiều dài trên 30km, các nhánh sông suối có nước chảy quanh năm nhưng do địa hình phức tạp nên việc khai thác nguồn nước để phục vụ sản xuất nông nghiệp rất khó khăn. - Nước ngầm: Chưa có kết quả khảo sát đánh giá, nhưng qua điều tra các giếng đào cho thấy do địa hình chia cắt, không bằng phẳng nên mực nước ngầm ở mỗi vùng khác nhau. Vùng địa hình cao mực nước ngầm ở sâu 8 - 10m (mùa khô). Nước ngầm có chất lượng khá tốt: Nước ngọt, độ cứng và cặn hữu cơ ít, có thể sử dụng tốt cho sinh hoạt. 2.1.1.3. Địa hình – Đất đai: a. Địa hình: Nhìn chung xã Đăk Pne có địa hình núi cao, tương đối dốc bị chia cắt mạnh bởi các khe suối, dạng địa mạo đồi bát úp, yên ngựa và dong dài lượn sóng với nhiều thung lũng hẹp. Địa hình có dạng núi cao cả hai hướng Nam và Bắc. Điểm cao nhất của phía Nam là 1.531m và phía Bắc là 1.509m điểm thấp nhất có độ cao trung bình là 640m nằm ở suối Đăk Pne và được chia thành hai dạng sau: - Địa hình đồi, núi cao dốc: Độ cao trung bình > 800m, bao gồm những đồi núi liền dải có độ dốc 250 trở lên với diện tích khoảng 15.412ha chiếm 95,22% diện tích tự nhiên toàn xã. Địa hình núi cao liền dải phân bố trên phạm vi toàn xã. - Địa hình thung lũng: Nằm dọc theo sông Đăk Pne có dạng lòng máng thấp độ cao trung bình dưới 700m, độ dốc dưới 15 0 với diên tích 721,27 ha chiếm 4,46% diện tích tự nhiên toàn xã. Đây là dãy đất khá thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng