LỜI MỞ ĐẦU
Trên thế giới, bảo hiểm là một ngành đã có từ rất lâu đời. Tại các nước
phát triển bảo hiểm đã cho thấy được vài trò qua trọng trong nền kinh tế và cả
trong đời sống của mọi người dân. Bảo hiểm không chỉ thực hiện việc huy động
vốn cho nền kinh tế mà nó còn góp phần đảm bảo ổn định tài chính cho các cá
nhân, gia đình, cho mọi tổ chức và doanh nghiệp để khôi phục đời sống và hoạt
động sản xuất kinh doanh mỗi khi gặp rủi ro. ở Việt Nam ngành bảo hiểm cũng
đã có hơn 40 năm hoạt động nhưng vẫn còn là một ngành rất mới. Nhưng theo
xu thế phát triển chung và nhu cầu của nền kinh tế, ngành bảo hiểm đã được
quan tâm phát triển một cách đúng đắn. Chỉ trong khoảng 5 năm trở lại đây bảo
hiểm mới dần trở nên quen thuộc đối với đa số người dân Việt Nam. Và ngành
bảo hiểm cũng ngày một chứng tỏ được tầm quan trọng của mình đối với ngành
kinh tế và đang dần đi vào cuộc sống của mỗi người dân.
Hiện nay, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, vấn đề quan
trọng hàng đầu được đặt ra đó là việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông và vận
tải. Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông và vận tải ở nước ta hiện nay vẫn còn
thấp kém chưa đáp ứng được sự gia tăng của các phương tiện giao thông. Vấn đề
tai nạn giao thông đang trở thành vấn đề quan tâm của tất cả mọi người mọi nhà
và toàn xã hội. Nhà nước ta đã có rất nhiều những biện pháp nhằm giảm thiểu
tổn thất do tai nạn giao thông và hỗ trợ những trường hợp bị tai nạn sớm hồi
phục sức khoẻ, phục hồi tài chính hoà nhập cuộc sống cộng đồng. Một trong số
những biện pháp đó là việc triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại các
doanh nghiệp bảo hiểm, trong đó có nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Và
khâu quan trọng nhất trong nghiệp vụ này là giải quyết khiếu nại. Trong thời
gian thực tập tại PJICO em thấy công tác này trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất
xe cơ giới được công ty thực hiện khá hiệu quả. Giải quyết khiếu nại trong
nghiệp vụ này có vai trò rất lớn, không chỉ với công ty mà quan trọng hơn là với
1
những người bị tai nạn. Công tác này được thực hiện càng hiệu quả thì tác dụng
của nó càng to lớn. Vì vậy em đã quyết định chọn đề tài “Nghiệp vụ bảo hiểm
vật chất xe cơ giới ở PJICO và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
khiếu nại ở PJICO” với mục đích nghiên cứu kỹ hơn công tác giải quyết khiếu
nại ở đây. Sau đó, với những kiến thức đã học nêu ra một số giải pháp nhằm
nâng cao công tác này tại công ty, qua đó đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội và
góp phần vào sự phát triển chung của công ty.
Phần nội dung chính của đề tài gồm 3 phần:
Chương I:
Lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới.
Chương II: Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe
cơ giới và công tác giải quyết khiếu nại nghiệp vụ này tại
PJICO.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công
tác giải quyết khiếu nại đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe
cơ giới ở PJICO.
2
NỘI DUNG
Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XE
CƠ GIỚI.
I - KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI.
1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm xe cơ giới.
Trong một vài năm trở lại đây, cùng với sự mở cửa, kinh tế nước ta đã có
được tăng trưởng khá. Sự tăng trưởng đó đã tạo điều kiện cho ngành giao thông
vận tải phát triển, đặc biệt là giao thông đường bộ. Những cây cầu, những con
đường cao tốc, đường nhựa, đường đá,… được xây dựng với số lượng và chất
lượng ngày càng cao trên khắp mọi miền của đất nước. Tính tới năm 2002
mạng đường bộ Việt Nam dài 221.115 km. Trong đó quốc lộ chiếm 15.824 km (
7,16%); đường liên tỉnh và tỉnh lộ là 19.916 km ( 9,00%); đường huyện lộ
37.947 km (17,16%); đường địa phương chung 134.463 km (60,8%); đường đô
thị 5.944 km (2,69%); đường chuyên dùng 7021 km (3.18%). Cùng với đó, các
phương tiện giao thông vận tải đường bộ ngày càng nhiều đa dạng, phong phú
để đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển của con người. Các doanh nghiệp thành
lập mới ngày càng nhiều và số lượng ô tô để vận chuyển hàng hoá cũng tăng
theo. Một số gia đình giàu có thì có thể mua xe ô tô gia đình. Một số gia đình
khá giả với số tiền khoảng 50 triệu đồng tích luỹ cộng thêm tiền vay ngân hàng
là có thể kinh doanh vận tải hàng hoá hay hành khách. Còn những gia đình với
thu nhập trung bình cũng chỉ cần 5 – 7 triệu đồng là có thể mua được xe máy để
đáp ứng nhu cầu đi lại. Do đó, số lường xe cơ giới ở nước ta tăng lên không
ngừng và rất nhanh chóng. nhưng bên cạnh đó số vụ tai nạn giao thông đường
bộ và số người chết vì tai nạn cũng tăng nhanh. Như vậy, tai nạn giao thông xảy
ra ngày càng nhiều và số vụ tai nạn tăng theo số lượng xe cơ tham gia giao
thông cùng với số kilômet đường mới được đưa vào sử dụng là điều chăc chắn.
Điều này được thể hiện rõ qua số liệu thống kê trong hai bảng sau:
3
Bảng 1: Số lượng xe tham gia giao thông.
Năm
Tổng số
ụ tụ
Mụ tụ
1992
1.974.261
270.036
1.704.225
1993
2.720.062
292.899
2.427.163
1994
3.330.000
330.000
3.000.000
1995
3.918.935
340.779
3.578.156
1996
4.595.250
386.976
4.208.274
1997
5.244.978
417.768
4.827.210
1998
5.643.000
443.000
5.200.000
1999
6.051.000
465.000
5.586.000
2000
6.965.562
486.608
6.478.954
2001
8.916.134
557.092
8.359.042
2002
10.880.401
607.401
10.273.000
2003
12.054.000
675.000
11.379.000
(Nguồn:”Cục Đường bộ”)
Qua bảng trên ta thấy từ năm 1992 đến năm 2003 tốc độ tăng lượng xe cơ
giới ở nước ta là rất lớn. Số lượng xe đã tăng hơn 6 lần, trung bình mỗi năm tăng
hơn 900.000 xe các loại. Đặc biệt là trong ba năm 2000, 2001 và 2002, mỗi năm
tăng khoảng 2 triệu xe. Trong đó, ôtô mỗi năm tăng khoang 37.000 xe, gấp
khoảng 2.5 lần. Còn xe máy tăng gần 7 lần, mỗi năm tăng khoảng 880.000 xe.
4
Bảng 2:Tỡnh hỡnh tai nạn giao thụng ở Việt Nam: Từ năm 1992-2003:
Năm
Số vụ
Số
chết
người Số người bị T/L số người chết
thương
trên 10.000 xe
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
8.165
11.678
13.118
15.376
19.075
19.159
19.975
20.733
22.486
25.04
27.134
19.852
2.755
4.35
4.533
5.43
5.581
5.68
6.067
6.67
7.5
10.477
12.8
11.319
9.04
12.59
13.056
16.92
21.556
21.905
22.723
23.911
25.4
29.188
30.733
20.4
13,9
15,9
13,6
13,8
12,1
10,8
10,7
10,9
10,7
11,7
11,8
9,4
(Nguồn:” Cục Đường bộ”)
Qua bảng trên ta thấy, tai nạn giao thông Đường bộ ở Việt Nam
liên tục tăng về số vụ, số người bị chết và số người bị thương. Năm 1995, số vụ
tai nạn xảy ra hơn 15.000, năm 1996 số vụ tăng khá cao, lên đến hơn 19.000, từ
năm 1997 đến năm 2000, tai nạn tiếp tục tăng tới hơn 22.000 vụ làm chết bỡnh
quõn 6.500 người, riêng năm 2001 tuy số vụ tăng không cao nhưng số người bị
chết tăng đột biến (10.866 người). Năm 2003, số người chết về tai nạn giao
thông đường bộ đó bước đầu giảm xuống (-9,4%), số người bị thương giảm
xuống (-35,2%). Số lượng xe máy tham gia giao thông tăng cao làm tai nạn giao
thông đường bộ tăng đột biến. Thể hiện: Số vụ tai nạn do xe máy gây ra chiếm
tỷ lệ cao trong tai nạn giao thông đường bộ:
+ Năm 1993: xe máy tăng 42,42% (tăng 722.938 xe, trước đó mỗi năm
chỉ tăng dưới 200.000 xe), số người chết vỡ TNGT tăng 29,9%.
+ Năm 2000: xe máy tăng 11,6% và số người bị chết bắt đầu tăng cao:
12,44%
5
+ Năm 2001: xe máy tăng 29,61% (1.880.088 xe), số người bị chết vỡ tai
nạn giao thụng đường bộ tăng đột biến: 39.69%.
Tai nạn giao thông xảy ra là do nhiều nguyên nhân khác nhau, có cả
những nguyên nhân chủ quan và những nguyên nhân khách quan. Nhưng dù cho
nguyên nhân nào thì một điều chắc chắn là khi tai nạn xảy ra thì cả người bị nạn,
người chủ xe, người thân của họ hay doanh nghiệp đều phải chịu những tổn thất
nhất định. Những tổn thất đó đôi khi rất nhỏ nhưng có những lúc nó để lại hậu
quả rất nặng nề, có thể là khiến cho một gia đình bị lâm vào tình trạng khó khăn
hay thậm chí khiến cho một doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản. Vì thế
tham gia bảo hiểm xe cơ giới là hết sức cần thiết. Để khi tai nạn xảy ra gây thiệt
hại lớn về tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường cho những thiệt hại
đó, đảm bảo cho cuộc sống gia đình hay hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ
xe.
2.Tác dụng của bảo hiểm xe cơ giới.
Bảo hiểm xe cơ giới đã đem lại những tác dụng to lớn cho mỗi cá nhân,
mỗi tổ chức kinh tế-xã hội.
2.1.Đối với cá nhân và doanh nghiệp.
Chủ phương tiện giao thông vận tải khi tham gia bảo hiểm sẽ nộp cho nhà
bảo hiểm một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm, các khoản phí này sẽ hình thành
quỹ tiền tệ tập trung. Các công ty bảo hiểm sử dụng quỹ này để chi trả cho hoạt
động quản lý kinh doanh và phần lớn là chi bồi thường cho người được bảo
hiểm khi có các tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Như vậy, khi có các tổn
thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm chủ phương tiện giao thông vận tải sẽ được
bồi thường. Do vậy bảo hiểm xe cơ giới ra đời góp phần ổn định tái chính, khắc
phục những hậu quả khó khăn về vật chất cũng như tinh thần cho người bị nạn,
giúp họ nhanh chóng khôi phục sau rủi ro tai nạn.
2.2.Đối với xã hội.
6
Bảo hiểm xe cơ giới giúp cho người tham gia nhanh chóng khắc phục
nhưng khó khăn về tài chính, giải quyết nhưng tranh chấp phát sinh giữa người
bị thiệt hại và người có trách nhiệm tring thiệt hại đó.. Qua đó góp phần đảm
bảo trật tự an toàn xã hội. Ngoài ra, các công ty bảo hiểm còn tham gia vào các
hoạt động xã hội giúp nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành luật giao thông,
xây dựng những công trình đảm bảo an toàn giao thông, xây dựng, mua sắm
trang thiết bị an toàn như rải nhựa, làm lan can hai bên đường, xây dựng đường
tránh nạn trên các đèo dốc, tăng thêm các biển báo nguy hiểm … các biện pháp
này cả chủ xe và nhà bảo hiểm đều có lợi.
2.3.Đối với Nhà nước.
Thông qua thuế, các công ty bảo hiểm còn góp phần tăng doanh thu cho
ngân sách Nhà nước. Ngoài ra bảo hiểm là kênh huy động vốn quan trọng đối
với nền kinh tế và góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động, góp phần
giảm gánh nặng về việc làm.
II - NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO
HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI.
1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm.
1.1. Đối tượng bảo hiểm.
Xe cơ giới được hiểu là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường
bộ và chỉ có thể chuyển động bằng động cơ của chính mình. Các loại xe cơ giới
bao gồm ôtô, môtô và xe máy. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo
hiểm tài sản và được thực hiện dưới hình thức bảo hiểm tự nguyện. Qua đó, chủ
xe tham gia bảo hiểm vật chất xe sẽ được bồi thường cho những thiệt hại vật
chất xảy ra với xe của mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên. Nhưng xe
cơ giới chỉ được bảo hiểm khi có đủ những điều kiện cơ bản như: xe phải có giá
trị sử dụng; xe phải xác định được về mặt giá trị hay lượng hoá được bằng tiền;
xe phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về mặt kỹ thuật và an toàn giao thông theo
quy định của pháp luật; xe phải là một chỉnh thể hoàn chỉnh. Như vậy, đối tượng
7
bảo hiểm vật chất xe cơ giới là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép
lưu hành trên lãnh thổ quốc gia.
Trên thực tế, chủ xe có thể tham gia bảo hiểm cho toàn bộ xe, thường là
với môtô, xe máy hoặc chỉ tham gia bảo hiểm cho một số bộ phận của xe,
thường là với xe ôtô. Bộ phận xe hay tổng thành xe, đối với ôtô có các tổng
thành như: thân vỏ, động cơ, hộp số, hệ thống lái,…
1.2. Phạm vi bảo hiểm.
Phạm vi bảo hiểm là phạm vi giới hạn những rủi ro mà theo thoả thuận
nếu những rủi ro đó xảy ra thì nhà bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm bồi thường cho
chủ phương tiện. Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, bảo hiểm vật chất xe
cơ giới cũng chỉ nhận bảo hiểm cho những rủi ro ngẫu nhiên, bất ngờ gây thiệt
hại phần vật chất thân xe. Thông thường, những rủi ro được bảo hiểm bao gồm:
+ Tai nạn do đâm va, lật đổ;
+ Cháy, nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá;
+ Mất cắp toàn bộ xe;
+ Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên.
Tuy nhiên, bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
những trường hợp sau:
+ Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết
tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa;
+ Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị, săm lốp mà không do
tai nạn gây ra;
+ Mất cắp bộ phận xe;
+ Chủ xe, lái xe cố ý gây thiệt hại;
+ Chủ xe lái xe vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông(xe
không có giấy phép, lái xe không có bằng lái,…);
+ Xe không đủ điều kiện kĩ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy
định của luật an toàn giao thông đường bộ;
8
+ Những thiệt hại gián tiếp như: giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản
xuất kinh doanh;
+ Thiệt hại do chiến tranh.
Ngoài ra, cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, bảo hiểm còn chịu trách
nhiệm đối với những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm đề phòng và hạn chế tổn
thất xảy ra thêm, các chi phí phát sinh khi đưa xe về nơi sửa chữa, chi phí giám
định nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm đã được quy định trước trong hợp
đồng.
Trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu xe cho chủ xe
mới thì quyền lợi bảo hiểm vẫn còn hiệu lực với chủ xe mới, nếu chủ xe cũ
không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chũ xe mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn
lại phí cho họ.
2. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại
thời điểm chủ xe tham gia bảo hiểm cho xe. Việc xác định đúng giá trị của xe
tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường. Giá trị xe
thường được xác định dựa vào nhữn yếu tố như: loại xe, năm sản xuất, mức độ
sử dụng xe, …
Tuy nhiên, trên thực tế, để đơn giản trong việc xác định giá trị bảo hiểm
của xe, các công ty bảo hiểm thường tính trên cơ sở giá mua mới (nguyên giá)
và khấu hao cho thời gian xe đã sử dụng.
Giá trị bảo hiểm = Giá trị ban đầu(nguyên giá) - Khấu hao
Khi tính khấu hao phải theo những nguyên tắc sau:
+ Chỉ sử dụng nguyên tắc khấu hao đều;
+ Khấu hao tính so với nguyên giá;
+ Khấu hao tính theo tháng, nếu tham gia bảo hiểm từ ngày 15 trở về đầu
tháng, tháng đó không tính khấu hao, còn từ ngày 16 đến cuối tháng thì tháng đó
phải tính khấu hao.
9
Giá trị bảo hiểm là cơ sở để người tham gia bảo hiểm xác định số tiền bảo
hiểm. Vì đây là loại hình bảo hiểm tài sản nên về nguyên tắc, chủ xe có thể tham
gia với số tiền bảo hiểm lớn nhất bằng giá trị bảo hiểm. Tuy nhiên, chủ xe cơ
giới có thể tham gia với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm theo điềm
khoản giá trị thay thế mới nếu được công ty bảo hiểm chấp nhận. Nhưng các chủ
xe thường tham gia bảo hiểm dưới giá trị dưới hình thức bảo hiểm cho một số
tổng thành của xe mà không bảo hiểm cho toàn bộ xe.
3. Phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là nhân tố đầu tiên quyết định sự lựa chọn của khách hàng.
Vì vậy việc xác định chính xác phí bảo hiểm sẽ bảo đảm cho hoạt động của
Công ty đồng thời làm tăng tính cạnh tranh cho Công ty trên thị trường bảo
hiểm. Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia bảo hiểm cụ thể,
các công ty bảo hiểm thường căn cứ vào những nhân tố sau:
- Loại xe: Do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau, xác suất
rủi ro cũng khác nhau nên phí bảo hiểm vật chất cũng sẽ được tính riêng cho
từng loại xe. Thông thường, các công ty bảo hiểm đưa ra các biểu xác định phí
bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các loại xe thông dụng thông qua việc phân các
loại xe thành nhóm. Việc phân loại này dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ
gia tốc, chi phí và mức độ khó khăn khi sửa chữa và sự khan hiếm của phụ tùng
khi thay thế.Đối với những loại xe hoạt động không thông dụng như xe kéo rơ
moóc, xe chở hàng nặng, do có mức độ rủi ro cao nên phí bảo hiểm thường được
công thêm một tỷ lệ nhất định dựa trên mức phí cơ bản.
Phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe, mỗi loại xe được tính theo công
thức sau:
P = f + d
Trong đó P: Phí bảo hiểm mồi đầu xe
f: Phí thuần
10
d: Phụ phí
Căn cứ vào tình hình tổn thất năm trước. Căn cứ vào số liệu thống kê
công ty bảo hiểm sẽ thực hiện tính toán phí thuần f cho mỗi đầu xe như sau:
n
Si * Ti
f
i 1
n
Ci
i 1
Trong đó : Si : Số vụ tai nạn xảy ra năm thứ i
Ti : Thiệt hại bình quân một vụ tai nạn năm i
Ci : Số xe hoạt động năm i
Phụ phí d bao gồm chi phí quản lý, phí đề phòng hạn chế tổn thất. Phần
phí này thường được tính bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với phí bồi
thường.
Ngoài ra, khi tính phí bảo hiểm các công ty bảo hiểm còn dựa vào những
nhân tố sau :
- Khu vực giữ và để xe: Thông thường thì các công ty bảo hiểm ít quan
tâm đến nhân tố này nhưng cũng có một số công ty bảo hiểm lại rất coi trọng
nhân tố này. Đây là nhân tố liên quan đến những rủi rjo như cháy nổ, mất cắp,...
- Mục đích sử dụng xe: Đây là nhân tố rất quan trọng khi xác định phí
bảo hiểm vì nó giúp công ty bảo hiểm biết được mức độ rủi ro có thể xảy ra. Rõ
ràng là những xe chỉ phục vu cho mục đích đi lại thì có xác suất rủi ro thấp hơn
so với những xe dùng vào mục đích kinh doanh vì xe dùng vào mục đích kinh
doanh thương phải đi nhiều và trên một diện rộng hơn xe dùng cho mục đích đi
lại thông thường.
- Tuổi tác kinh nghiệm lái xe của người yêu cầu bảo hiểm và những người
thường xuyên sử dụng chiếc xe được bảo hiểm. Theo số liệu thống kê cho thấy
các lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với các lái xe lớn tuổi. Do vậy, thường
các công ty bảo hiểm thường áp dụng giảm phí cho các lái xe trên 50 hoặc 55
tuổi. Tuy nhiên, Với những lái xe quá lớn tuổi thường phải có giấy chứng nhận
sức khoẻ phù hợp để có thể lái xe thì công ty bảo hiểm mới nhận bảo hiểm.
11
- Giảm phí bảo hiểm: Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn tham
gia bảo hiểm tại công ty mình, các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức giảm
phí so với mức phí chung theo số lượng xe tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hầu hết
các công ty bảo hiểm còn áp dụng cơ chế giảm giá cho những người tham gia
bảo hiểm không có khiếu nại và gia tăng tỉ lệ giảm giá này cho một số năm
không có khiếu nại gia tăng. Có thể nói đây là biện pháp phổ biến trong bảo
hiểm xe cơ giới.
Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là xe chỉ hoạt
động một số ngày trong năm, thì chủ xe chỉ đóng phí cho những ngày hoạt động
theo công thức sau:
Phí bảo hiểm = Mức phí cả năm
*
Số tháng xe hoạt động trong năm
12 tháng
- Biểu phí đặc biệt: Khi khách hàng có số lượng xe tham gia bảo hiểm
nhiều, các công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu phí riêng cho khách hàng đó.
Việc tính toán biểu phí riêng cũng tương tự như cách tính phí được đề cập ở
trên, chỉ khác là chỉ dựa trên các số liệu thống kê về bản thân khách hàng đó, cụ
thể:
+ Số lượng xe của công ty tham gia bảo hiểm;
+ Tình hình bồi thường tổn thất của công ty bảo hiểm cho khách
hàng ở những năm trước đó;
+ Tỷ lệ phí theo quy định của công ty.
Trong trường hợp mức phí đặc biệt thấp hơn mức phí quy định chung,
công ty bảo hiểm sẽ áp dụng theo mức phí đặc biệt, còn nếu cao hơn (hoặc bằng)
thì công ty bảo hiểm sẽ áp dụng méc phí chung.
- Hoàn phí bảo hiểm: Có những trường hợp chủ xe đã đóng phí bảo hiểm
cả năm, nhưng trong năm xe không hoạt động một thời gian vì một lý do nào đó
thì thông thường trong trường hợp này công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo
12
hiểm của những tháng ngừng hoạt động đó cho chủ xe. Số phí hoàn lại được tính
theo công thức sau:
Phí
hoàn
lại
=
Phí
cả
năm
Số tháng không hoạt động
*
Tỷ lệ
* hoàn lại phí
12 tháng
Mỗi công ty bảo hiểm có tỷ lệ hoàn phí khác nhau nhưng thông thường tỷ lệ này
là 80%.
Trong trường hợp chủ xe muốn huỷ bỏ hợp đồng vảo hiểm khi chưa hết
thời hạn hợp đồng thì thông thường công ty bảo hiểm cũng hoàn lại phí bảo
hiểm cho thời gian còn lại đó theo công thức trên, nhưng với điều kiện là chủ xe
chưa có lần nào được công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm.
4.Giám định và bồi thường.
4.1.Tai nạn và giám định.
Theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm, khi có các sự kiện bảo hiểm
xảy ra, công ty bảo hiểm phải có trách nhiệm và nghĩa vụ bồi thường hoặc chi
trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng quyền lợi bao hiểm. Nhưng trước khi yều
cầu công ty bảo hiểm bồi thường hay chi trả tiền bảo hiểm thì khi tai nạn xảy ra,
chủ xe hoặc láI xe phải có trách nhiệm tìm mọi cách cứu chữa, hạn chế tổn thất,
mặt khác phải nhanh chóng báo cho công ty bảo hiểm biết. Chủ xe không được
di chuyển, tháo dỡ hay sửa chữa xekhi chưa chó ý kiến của công ty bảo hiểm,
trừ trường hợp phải thi hành chỉ thị của cơ quan có thẩm quyền. Điều này cũng
được thoả thuận giữa công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm trong hợp
đồng bảo hiểm.
Ngay khi có thông báo tai nạn, công ty bảo hiểm sẽ tiến hành giám định
tổn thất với sự có mặt của chủ xe, lái xe hay người đại diện hợp pháp nhằm xác
định nguyên nhân và mức độ thiệt hại. Trong trường hợp hai bên không đạt
được sự thống nhất thì giám định viên chuyên môn sẽ được chỉ định làm trung
gian.
13
4.2.Hồ sơ bồi thường.
Khi yêu cầu công ty bảo hiểm bồi thường thiệt hại vật chất xe, chủ xe phải
cung cấp những tài liệu, chứng từ theo yêu cầu của công ty bảo hiểm, thông
thường gồm có các giấy tờ sau:
- Tờ khai tai nạn của chủ xe;
- Bản sao của giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy chứng nhận đăng ký xe,
giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môI trường phương tiện
xe cơ giới đường bộ, giấy phép lái xe;
- Kết luận kiểm tra của công an hoặc bản sao bộ hồ sơ tai nạn gồm: biên
bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm liên quan đến tai nạn,
biên bản giải quyết tai nạn;
- Các biên bản xác định trách nhiệm của người thứ ba;
- Các chứng từ xác định thiệt hại do tai nạn như chi phí sủa chữa xe, chi
phí thuê cẩu kéo, …
4.3.Nguyên tắc bồi thường tổn thất.
Bồi thương tổn thất cũng phải tuân theo một số quy tắc sau:
Thứ nhất: Trong trường hợp xe tham gia bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực
tế, số tiền bồi thường được tính như sau:
Số tiền
bồi thường
=
Thiệt hại
thực tế
*
Số tiền bảo hiểm
Giá trị thực tế của xe
Thứ hai: Xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thực tế.
Theo nguyên tắc chung của bảo hiểm, công ty bảo hiểm chỉ chấp nhận số
tiền bảo hiểm nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm. Nhưng nếu người tham gia
bảo hiểm cố tình hoặc vô tình tham gia với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo
14
hiểm thì khi có tổn thất xảy ra, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường số tiền bằng gia
trị thực tế và luôn nhỏ hơn giá trị thực tế của xe. Ví dụ, một chiếc xe ôtô có giá
trị thực tế tại thời điểm ký hợp đồng là 300 triệu đồng nhưng chủ xe lại tham gia
bảo hiểm với số tiền là 400 triệu đồng. Như vậy, khi có tổn thất xảy ra, giả sử là
tổn thất bộ phận là 50 triệu đồng thì số tiền bồi thường ở đây cũng chỉ là 50 triệu
đồng. Hay giả sử là tổn thất toàn bộ thì số tiền bồi thường cũng chỉ là 300 triệu
đồng.
Trong trường hợp công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm trên giá trị,
trường hợp này gọi là bảo hiểm theo giá trị thay thế mới. Ví dụ, một chiếc xe ôtô
có giá trị thực tế là 3500 triệu đồng nhưng chủ xe lại muốn tham gia bảo hiểm
với số tiền là 500 triệu đồng, để khi có tổn thất toàn bộ xảy ra thì chủ xe đó sẽ
nhận được số tiền bồi thường là 500 triệu đồng để có thể mua chiếc xe ôtô mới
có giá trị là 500 triệu đồng. Tuy nhiên, để được bảo hiểm theo giá trị thay thế
mới thì chủ xe phải chấp nhận những điều kiện rất chặt chẽ của công ty bảo
hiểm và phải đóng một mức phí cao hơn.
Thứ ba: Trong trường hợp tổn thất bộ phận.
Khi tổn thất bộ phận xảy ra, chủ xe sẽ được giải quyết bồi thường theo
một trong hai nguyên tắc trên. Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm thường giới hạn
mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng tỷ lệ giá trị tổng thành xe.
Ví dụ:
Chủ xe A tham gia bảo hiểm toàn bộ theo giá trị thực tế một chiếc xe ôtô
giá trị thực tế trên thị trường Việt Nam là 300 triệu đồng. Trong thời hạn bảo
hiểm xe bị tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm thiệt hại như sau:
+ Thân vỏ: 70 triệu đồng
+ Động cơ: 50 triệu đồng.
Theo quy định của các công ty bảo hiểm tỷ lệ giá trị tổng thành như sau: Tỷ lệ
tổng thành thân vỏ 53,5% động cơ 15,5%.
Như vậy trong trường hợp này công ty bảo hiểm sẽ bồi thường như sau:
15
+ Thân vỏ = 300 * 53% = 170 triệu đồng, lớn hơn phạm vi bảo hiểm nên
sẽ bồi thường 70 triệu đồng
+ Động cơ = 300 * 15,5% = 46,5 triệu đồng, bồi thường 46,5 triệu đồng.
Thứ tư:Trường hợp tổn thất toàn bộ.
Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi bị mất cắp, mất tích hoặc bị thiệt hại
nặng đến mức không thể sửa chữa được hoặc chi phí sửa chữa phục hồi bằng
hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Nếu tổn thất toàn bộ, chủ xe sẽ được bồi
thường theo giá trị ghi trong đơn bảo hiểm.
Ví dụ:
Chủ xe A có chiếc xe ôtô giá trị thực tế 200 triệu đồng tham gia bảo hiểm
toàn bộ với số tiền bảo hiểm là 200 triệu đồng. Theo quy định của công ty chỉ
được coi là tổn thất toàn bộ ước tính khi giá trị thiệt hại bằng hoặc lớn hơn 90%
giá trị thực tế xe. Trong thời hạn bảo hiểm xe bị tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm,
chi phí sửa chữa như sau:
+ Thân vỏ thiệt hại 100% chi phí sửa chữa: 100 triệu đồng.
+ Động cơ thiệt hại 100% chi phí sửa chữa: 40 triệu đồng.
Tổng cộng thiệt hại:
140 triệu đồng
Giá trị thiệt hại này nhỏ hơn 90% giá trị thực tế xe (140/200=0,7) nên
không được bồi thường toàn bộ ước tính mà chỉ được bồi thường bộ phận như
trên.
Các công ty bảo hiểm thường quy định khi giá trị thiệt hại so với giá trị
thực tế của xe đạt tới hoặc vượt qua một tỷ lệ giới hạn nhất định nào đó thì được
coi như là tổn thất toàn bộ ước tính tuy nhiên giới hạn bởi bảng tỷ lệ cấu thành
xe.
Ngoài ra, khi tính toán số tiền bồi thường còn phải tuân theo những
nguyên tắc sau:
- Những bộ phận thay thế mới, khi bồi thường phải trừ khấu hao đã sử
dụng hoặc chỉ tính giá trị tương đương với giá trị của bộ phận được thay thế mới
16
ngay trước khi xảy ra tai nạn. Khấu hao theo nguyên tắc khấu hao như đã nói ở
trên.
- Công ty bảo hiểm sẽ thu hồi những bộ phận được thay thế hoặc đã bồi
thường toàn bộ giá trị.
- Nếu thiệt hại liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba, công ty bảo
hiểm bồi thường cho chủ xe và yêu cầu chủ xe bảo lưu quyền khiếu nại và
chuyển quyền đòi bồi thường cho công ty bảo hiểm kèm theo hồ sơ, chứng từ có
liên quan.
Bảo hiểm trùng: Có những trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất
xe theo nhiều đơn bảo hiểm. Trong trường hợp này, khi thiệt hại xảy ra thì tổng
số tiền bồi thường mà chủ xe nhận được chỉ đúng bằng thiệt hại thực tế. Giới
hạn trách nhiệm của mỗi công ty bảo hiểm thông thường dựa vào tỷ lệ giữa số
tiền bảo hiểm ghi trong Giấy chứng nhận bảo hiểm của công ty mình so với tổng
số tiền bảo hiểm ghi trong tất cả các đơn bảo hiểm.
III - GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI ĐỐI VỚI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT
CHẤT XE CƠ GIỚI.
1. Vai trò của công tác giải quyết khiếu nại.
Công tác giải quyết khiếu nại là khâu cuối cùng và quyết định chất lượng
của một sản phẩm bảo hiểm nói chung và bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng.
Giải quyết khiếu nại một cách chủ động, nhanh chóng, chính xác, hợp lý là sự
biểu hiện cụ thể trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm đối với
khách hàng của mình. Giải quyết khiếu nại bao gồm hai nội dung chính là giám
định tổn thất và giải quyết bồi thường.
Giám định tổn thất là quá trình xem xét phân tích đánh giá rủi ro xảy ra
dẫn đến tổn thất. Từ đó, xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất để từ đó đo
lường tổn thất. Kết quả giám định tổn thất là cơ sở để xem xét giải quyết bồi
thường một cách chính xác và thoả đáng. Giám định đúng, chính xác sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường một cách chính xác và
17
thoả đáng nhất, đảm bảo quyền lợi của khách hàng. Qua đó làm tăng uy tín của
doanh nghiệp đối với khách hàng, ngoài ra còn giúp ngăn chặn và giảm bớt được
hiện tượng trục lợi trong bảo hiểm.
Giải quyết bồi thường là việc nhà bảo hiểm sẽ chi trả một khoản tiền nhất
định hay hiện vật cho người tham gia bảo hiểm khi có thiệt hại thuộc phạm vi
bảo hiểm xảy ra. Bồi thường được thực hiện một cách chính xác và nhanh chóng
không chỉ khách hàng sẽ nhanh chóng vượt qua được những khó khăn về tài
chính mà còn giúp doanh nghiệp bảo hiểm nâng cao uy tín của mình đối với
khách hàng, và nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường bảo
hiểm, là cách quảng cáo tốt nhất đối với một doanh nghiệp bảo hiểm.
18
2.Giám định tổn thất.
2.1.Yêu cầu của công tác giám định.
Công tác giám định được thực hiện bởi các chuyên viên giám định hay
giám định viên bảo hiểm. Các giám định viên bảo hiểm do doanh nghiệp lựa
chọn nhưng thường là chính nhân viên của bản thân các doanh nghiệp. Công
việc chính của chuyên viên giám định bao gồm:
+ Ghi nhận thiệt hại:Khi người tham gia bảo hiểm gặp phải rủi ro thuộc
phạm vi bảo hiểm dẫn đến tổn thất họ sẽ thông báo cho nhà bảo hiểm biết. Nhà
bảo hiểm sẽ chỉ định một giám định viên đến tiến hành giám định, giám định
viên sẽ ghi lại những tổn thất, mức độ tổn thất và lập thành biên bản .
+ Đề xuất biện pháp bảo quản và đề phòng thiệt hại:Khi thiệt hại xảy ra
các giám định viên phải có nghĩa vụ can thiệp nhằm giảm thiểu tổn thất.
Ngoài ra, chuyên viên giám định còn phải phân tích thông tin từ những
người có liên quan để kết hợp rồi đưa ra những kết quả giám định chính xác
nhất.
Chuyên viên giám định là trung gian nên có vai trò rất quan trọng, một
chuyên viên giám định phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Phải công minh, cẩn thận, hiểu biết thấu đáo về đối tượng được bảo
hiểm.
- Khi tiến hành giám định, giám định viên được lựa chọn phải độc lập về
lợi ích với các bên liên quan.
- Giám định viên do công ty bảo hiểm chỉ định được uỷ nhiệm có giới
hạn, sự uỷ nhiệm này không được tự tiện trao cho người khác.
Giám định viên phải chịu trách nhiệm về những thông tin do mình thu
thập và cung cấp cho các bên.
2.2.Quy trình giám định tổn thất.
Giám định bảo hiểm chỉ chấp nhận yêu cầu giám định khi có tai nạn, có
tổn thất xảy ra thuộc pham vi trách nhiệm của bảo hiểm. Tuỳ từng nghiệp vụ bảo
19
hiểm mà tổ chức giám định tổn thất cho phù hợp nhưng nhìn chung có thể khái
quát quy trình giám định theo các bước: Chuẩn bị giám định,tiến hành giám định
và lập biên bản giám định. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới thì
quy trình giám định thường bao gồm các bước sau:
Bước 1: Tiếp nhận và xử lý sơ bộ các thông tin về tai nạn:
Trong bước này nhà bảo hiểm sẽ nhận thông tin về tai nạn từ phía khách hàng,
từ những người có liên quan để kiểm tra tính xác thực của thông tin nhằm xác
định sơ bộ về trách nhiệm giám định và nội dung giám định.
Các thông tin về tai nạn bao gồm:
- Ngày, giờ, địa điểm xảy ra tai nạn
- Các thông tin về xe gặp nạn : biển số xe, tên, chủ xe
- Số giấy chứng nhận bảo hiểm, nơi cấp bảo hiểm.
- Thời hạn bảo hiểm, loại hình bảo hiểm tham gia.
Bước 2: Dự kiến phương án và chuẩn bị giám định :
Các giám định viên sau khi nhận được thông tin và xử lý các thông tin sẽ lựa
chọn các phương án giám định phù hợp để chuẩn bị cho quá trình tiến hành
giám định. Đồng thời nhà bảo hiểm hướng dẫn giúp đỡ chủ xe thu nhập và hoàn
thành hồ sơ khiếu nại.
Bước 3: Tiến hành giám định:
Đây là khâu quan trọng nhất nhằm xác định mức độ tổn thất của xe gặp tai nạn.
Chủ xe có nghĩa vụ bảo vệ xe nhằm hạn chế thiệt hại nếu có tổn thất phát sinh
thêm do các nguyên nhân khách quan, người được bảo hiểm phải thông báo
chính xác, cụ thể cho Công ty Bảo hiểm biết.
Việc tiến hành giám định được giám định viên thoả thuận trước với người được
bảo hiểm về thời gian và địa điểm giám định. Quá trình giám định phải có mặt
của chủ xe, người điều khiển xe, hay người đại diện hợp pháp của họ.
Việc giám định phải được lập biên bản giám định, xác định các bộ phận tổn thất,
mức độ tổn thất và dự trù các phương pháp xử lý thiệt hại. Đối với những xe bị
tổn thất có nhiều chi tiết cấu thành, cần tiến hành giám định và lập biên bản
20
- Xem thêm -