Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Ngôn ngữ truyện kiều

.DOC
35
303
133

Mô tả:

Tổng hợp tất cả bài viết và luận văn liên quan đến ngôn ngữ Truyện Kiều, đặc biệt là đoạn trích Trao duyên
NGÔN NGỮ TRUYỆN KIỀU Chương 1. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA NHÌN TỪ QUAN NIỆM THẨM MỸ TRUNG ĐẠI 1. 1. Ngôn ngữ với văn chương và văn hóa 1.1.1. Ngôn ngữ và văn chương từ góc nhìn văn hóa Trong dòng chảy văn hoá của một dân tộc, với những chức năng cơ bản của mình, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện, là công cụ tư duy, giao tiếp, lưu trữ… mà nó còn là chất liệu cơ bản để xây dựng nên thế giới nghệ thuật thấm đẫm những sắc màu văn hoá của cả một dân tộc, một thời đại hay một cá nhân văn hoá cụ thể - nhà văn. Bên cạnh đó, với tư cách là mạch ngầm văn hoá, ngôn ngữ còn là một trong những yếu tố cấu thành văn hoá, có sức lan toả và làm sáng tỏ những tính chất trội bật của một nền văn hoá trong đời sống xã hội của một dân tộc. 1.1.2. Sự tác động của ngôn ngữ đối với văn hoá Ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ trong việc phản ánh, thể hiện và phát triển những giá trị, những yếu tính cốt lõi của văn hoá. Nó là thước đo nhân bản của xã hội và con người. Ngôn ngữ - một hiện hữu vật chất căn bản – sẽ giúp cho văn hoá và các giá trị căn bản của nó sẽ khúc xạ, ngấm sâu và dần hình thành chiều sâu văn hoá, phong cách văn hoá của từng cá nhân trong quá trình tồn tại của mình. 1.1.3. Ngôn ngữ với vấn đề bảo tồn, xây dựng và phát triển văn hóa Với tư cách là chất liệu lịch sử, ngôn ngữ đóng vai trò cốt tuỷ trong sáng tạo văn chương, nghệ thuật. Với tư cách là một công cụ giao tiếp và tư duy, ngôn ngữ đã thể hiện chức năng cơ bản trong sự phát triển văn hoá tinh thần của con người. Sự biến đổi, phát triển ngôn ngữ luôn luôn song hành với biến đổi và phát triển văn hoá. Muốn nghiên cứu sâu về văn hoá, khảo sát hàm nghĩa của văn hoá trong tập quán giao tiếp và văn chương nghệ thuật của một dân tộc phải nghiên cứu ngôn ngữ và tất nhiên muốn đi sâu vào ngôn ngữ phải chú tâm đến văn hoá. 1.2. Hàm nghĩa văn hóa của ngữ liệu trong truyện Nôm bác học 1.2.1. Khái niệm Ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bác học Trong phạm vi hạn hẹp của tư liệu hiện có, theo cách hiểu của chúng tôi, ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam là hệ thống từ ngữ có nguồn gốc từ văn hoá bác học, bình dân, có sự biểu hiện sinh động về ngữ nghĩa, góp phần hình thành, phản ánh thế giới nghệ thuật của tác phẩm và đặc trưng tư tưởng, tư duy văn hoá - nghệ thuật của nhà nghệ sỹ. Trong nghiên cứu tác phẩm văn học thời trung đại, việc sử dụng hàm nghĩa văn hoá của từ ngữ như một khái niệm công cụ đã mang lại cho người đọc những phương thức tiếp cận mới và góp phần gợi mở những ý nghĩa, biểu tượng văn hoá đặc của văn học cổ điển. 1.2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bác học Trong lịch sử văn học Việt Nam, ngữ liệu văn hoá là lớp từ ngữ có tính văn hoá cao trong các tác phẩm văn học cổ điển, là những hệ thống mã khoá nghệ thuật cần có sự phân tích, biện giải. Nó bao gồm một hệ thống những từ, ngữ, kiểu diễn ngôn, tứ thơ, đặc điểm ước lệ, lối nói uyển ngữ từ cú mỹ lệ của thơ ca cổ điển Trung Quốc. Bên cạnh đó, nó còn là hệ thống những từ ngữ được thoát thai từ văn hoá, văn học dân gian Việt Nam, từ vốn kinh nghiệm dân gian qua thành ngữ, tục ngữ hay hệ thống hư từ, từ láy trong tiếng Việt. Lớp từ ngữ này đã thể hiện một trình độ tiếp thu văn hoá, chiều sâu của kinh nghiệm sống mà nhà thơ muốn gửi gắm vào trong thi phẩm của mình. 1.2.3. Giá trị thẩm mỹ của ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm văn chương cổ điển Việt Nam nhìn từ góc độ văn hoá Khảo sát hệ thống ngôn ngữ tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam nhất là truyện thơ Nôm bác học, hệ thống thi văn liệu, điển cố, thành ngữ Hán Việt, từ ngữ xã hội, thuật ngữ luôn là những nội dung quan trong. Nó không chỉ là những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn mà còn là những rào cản nghệ thuật đối với người đọc. Khi tiếp cận văn hoá với những ngữ liệu này, người đọc sẽ giải thích được tính hợp lý vốn có để những ngữ liệu này có thể tồn tại được, tức là người đọc có thể phân tích và nêu bật nét nghĩa hư chỉ của ngữ liệu. Có thể nói, tham chiếu từ góc độ văn hoá, chúng ta dễ dàng nhận thấy ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm văn chương cổ điển Việt Nam không chỉ là một công cụ giao tiếp đặc thù của nhà văn đối với bạn đọc mà nó đã trở thành một hình thức giao tiếp văn hoá đặc thù. 1.3. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm – Tấm gương phản chiếu văn hóa 1.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm, một hình thức giao tiếp đặc thù của văn học cổ điển Việt Nam Trong quá trình hành chức của nó, hệ thống ngữ liệu đã đóng vai trò to lớn và góp phần hình thành tính văn hoá, khả năng đa nghĩa của ngôn ngữ truyện Nôm. Đồng thời, cách thức liên tưởng và sử dụng ngữ liệu cũng tạo nên tính chất phức điệu, những tình điệu thẩm mỹ cổ điển mang tính ngữ cảnh của thể loại truyện Nôm, xu hướng cao nhã, cảm thức văn hoá của tác giả, xã hội và thời đại. Bản thân nó có thể tạo nên một tiềm năng văn hoá mà mỗi độc giả khi tiếp nhận sẽ tự tái tạo những mô thức riêng, tuỳ thuộc vào “tầm đón nhận” và chiều sâu văn hoá của mỗi cá nhân. 1.3.2. Một số đặc trưng cơ bản của từ ngữ mang hàm nghĩa văn hóa trong truyện Nôm Về phương diện nội dung, ý nghĩa khái quát cao và đậm nét tượng trưng của lớp từ ngữ Hán Việt đã tạo nên tính hàm súc, cô đọng, tiết giản. Đặc tính này đã hỗ trợ đắc lực cho các tác giả tổ chức ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm theo thi pháp văn học cổ trung đại. Xét ở phương diện nghệ thuật, các ngữ liệu văn hoá trong ngôn từ nghệ thuật đã phát huy được tính năng động vốn có của nó: tính thẩm mỹ và đăng đối. Tính khách quan của các thi liệu văn hoá thích hợp với việc nhấn mạnh các sắc thái mơ hồ, trang trọng... và nó “không thích hợp với việc cụ thể hoá đối tượng phản ánh nhưng nó lại vô cùng thích hợp khi ta muốn vĩnh viễn hoá sự việc, đẩy lùi nó về thế giới ý niệm. Nó cấp cho ngôn ngữ cái vẻ dứt khoát, đanh thép của những chân lý vĩnh viễn...”. 1.4. Quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và Truyện Kiều 1.4.1. Cơ sở hình thành quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du Về cơ sở hình thành quan niệm thẩm mỹ Nguyễn Du, chúng ta có thể hình dung qua mấy căn cứ sau: Thứ nhất, Nguyễn Du đã sinh trưởng trong một giai đoạn lịch sử khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam và bi kịch lịch sử dân tộc. Thứ hai, Nguyễn Du sinh ra ở phường Bích Câu trong thành Thăng Long, một địa đàng nghệ thuật thời bấy giờ. Bên cạnh những ảnh hưởng của quê hương xứ Nghệ giàu truyền thống thi ca, sự tác động của một văn phái lừng lẫy ở mảnh đất Hồng Lĩnh cũng là điều đáng nói. Thứ ba, từ mạch nguồn văn hoá gia đình, phẩm chất tài hoa của người cha và tư chất nghệ sĩ của người mẹ đã ảnh hưởng không ít đến tư tưởng thẩm mỹ của ông. Thứ tư, Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân khi đề tự Truyện Kiều đã viết: “Đôi mắt nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ đến ngàn đời”. Người xưa đã chết vì kẻ tri âm nên đã thốt lên những lời tri kỷ ấy vậy. Mộng Liên Đường quả là người thấu hiểu tâm sự của Nguyễn Du và phong cách triết nhân của thi nhân. 1.4.2. Sự thể hiện quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và Truyện Kiều Một là, quan niệm thẩm mỹ của ông được bộc lộ rõ nét qua cái nhìn về cuộc đời và con người. Nguyễn Du đã tạo nên những cơ sở triết học, mỹ học để triển khai tư tưởng nhân sinh của mình theo hướng kết hợp Nho, Phật và Lão trên nền tảng tâm thế Việt: lấy sự cảm thương, đồng điệu làm điểm tựa cho những nhận định về nhân thế. Hai là, Nguyễn Du đã xem thiên nhiên như một cõi thiêng, một chốn đi về của tâm hồn. Ba là, quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du được thể hiện qua sự minh triết của con người thanh cao, u uẩn. Nguyễn Du đã tuân thủ nguyên lý minh triết của Phật giáo và sắc thái duy tình của người Việt. Bốn là, nhà thơ còn quan tâm đến bản chất, chức năng của văn chương. Chương 2. HỆ THỐNG NGỮ LIỆU VĂN HÓA TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU 2.1. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hóa Hán, bác học và văn hoá Việt, bình dân đối với hệ thống ngữ liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều 2.1.1.Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá Hán, văn hoá bác học đối với hệ thống ngữ liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều Dấu ấn thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu (là những dẫn chứng, dẫn liệu ngôn ngữ, nó có thể được trích dẫn, khai thác phục vụ cho quá trình nghiên cứu về nội dung, nghệ thuật của một tác phẩm) có nguồn gốc từ văn hoá bác học, văn hoá Trung Hoa đã ảnh hưởng trực tiếp đến ngôn ngữ nghệ thuật truyện thơ Nôm bác học. Nguyễn Đức Tồn trong Đặc trưng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy gọi đó các ngữ liệu ấy là “những hiện tượng văn hoá đặc tồn” hay “các đơn vị đặc văn hoá”. Khảo sát hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy, các dạng thức ngữ liệu văn hoá được các tác giả sử dụng khá đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, xét từ phương diện nguồn gốc, các ngữ liệu văn hoá được sử dụng trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bao gồm ngữ liệu nguyên dạng (ngữ liệu Hán Việt) và ngữ liệu được chuyển dịch (ngữ liệu bán Hán Việt, thuần Việt). 2.1.2. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá Việt, văn hoá bình dân đối với hệ thống ngữ liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều Trong ngôn ngữ Truyện Kiều, ngoài hệ thống từ cổ, từ địa phương, từ láy... thì lớp từ ngữ có phong cách khẩu ngữ quần chúng cũng được xem là những ngữ liệu thuần Việt đặc chất văn hoá bình dân. So với lớp từ ngữ Hán Việt, lớp từ ngữ này vô cùng sinh động, nhiều dáng vẻ và luôn được bổ sung không ngữ qua các thế hệ, thời đại văn hoá. Theo chúng tôi, sắc thái bình dân trong ngôn ngữ Truyện Kiều là những nét, yếu tố thẩm mỹ được gợi lên thông qua hệ thống những thành ngữ, tục ngữ, ca dao, hệ thống từ ngữ thuần Việt, hoặc có yếu tố Hán Việt với một lối diễn đạt bình dị, đơn giản đậm chất khẩu ngữ trong sinh hoạt của người Việt. Nó được Nguyễn Du sử dụng, chuyển dẫn và khái quát một cách thần tình, đích đáng và nhuần nhuyễn trong hệ thống ngôn ngữ Truyện Kiều. 2.1.3. Đặc trưng thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu văn hóa trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều 2.1.3.1. Đặc trưng thẩm mỹ của các ngữ liệu văn hoá Hán, bác học trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều Trong Truyện Kiều, cách sử dụng và bố trí ngữ liệu văn hoá của Nguyễn Du vừa hấp dẫn, vừa chuẩn mực đồng thời còn thể hiện cá tính sáng tạo của nhà thơ. Thông qua các ngữ liệu đã được chuyển dịch, chuyển dẫn một cách khéo léo, người tiếp nhận có thể tìm thấy được vẻ đẹp về thế giới hình tượng phong phú, sinh động được diễn đạt bằng nghệ thuật ẩn dụ, biểu trưng, uyển ngữ của văn cách trung cổ. Bên cạnh tính điển phạm, tập cổ, đăng đối..., hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn Truyện Kiều nói riêng đã thể hiện tính trang nhã, uyên bác phù hợp với tính chất bác học trong quan niệm xưa. 2.1.3.2. Đặc trưng thẩm mỹ của các ngữ liệu văn hoá Việt, bình dân trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều Với hệ thống từ ngữ bình dân, tác giả dường như lách nhẹ, đi sâu vào chân tơ kẽ tóc của những phẩm cách, ngoại hình của các nhân vật phản diện. Trong ngôn ngữ Truyện Kiều, chúng tôi thống kê được 332 thành ngữ được sử dụng nguyên mẫu và 113 thành ngữ tách xen và được vận dụng một cách sáng tạo. Truyện Kiều đánh dấu một bước phát triển mới về chất, có ý nghĩa đặc biệt trong việc học tập thơ ca dân gian và ngôn ngữ quần chúng của nhà thơ. Nguyễn Du vận dụng khẩu ngữ, thành ngữ, tục ngữ; trong đó thành ngữ được vận dụng nhiều nhất. Lớp từ vựng khẩu ngữ của quần chúng đã đi vào thơ Nguyễn Du một cách chan hoà, dung dị và nhẹ nhàng, giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Với 1.736 lượt xuất hiện như vây, hệ thống hư từ không chỉ thể hiện sự linh hoạt trong việc thể hiện cách sử dụng hư từ mà còn góp phần làm đa dạng hoá các lớp từ trong ngôn ngữ tác phẩm, thể hiện tính dân dã, khẩu ngữ. 2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hóa bác học và bình dân trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều 2.2.1. Khảo sát và nhận xét về hệ thống ngữ liệu văn hóa bác học Khảo sát trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, từ quan điểm và nội hàm khái niệm ngữ liệu văn hoá đã được thống nhất, trong tổng số 972 từ ngữ Hán Việt thống kê được, chúng tôi đã thống kê được 626 ngữ liệu văn hoá nguyên dạng chiếm khoảng 67,3% từ ngữ Hán Việt xuất hiện trong Truyện Kiều và 169 ngữ liệu chuyển dịch, mô phỏng, chiếm tỷ lệ 39,5 % so với số lượng 440 từ ngữ Việt được chuyển dẫn từ văn hoá bình dân và bác học mà tác giả Nguyễn Thuý Hồng đã khảo sát. Từ kết quả thống kê, chúng ta có thể nhận thấy, dù ở dạng thức nào, ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đều phong phú, đa dạng. Trong hệ thống này, các thuật ngữ văn hoá, tôn giáo, chính trị, quân sự... đặc trưng của xã hội phong kiến chiếm một tỷ lệ tương đối lớn (384 ngữ liệu nguyên dạng Hán Việt; 60 ngữ liệu chuyển dịch (bán Hán Việt) và thuần Việt). Trong khi đó, các ngữ liệu có nguồn gốc từ kinh truyện (145 nguyên dạng, 61 chuyển dịch), điển cố thi liệu, nhân danh, địa danh cũng chiếm một số lượng tương đối (69 nguyên dạng, 08 chuyển dịch). Sự có mặt của hệ thống ngữ liệu này đã góp phần khẳng định những yếu tố văn hóa bác học đã ảnh hưởng một cách sâu sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm. Tuy sự phân chia nguồn gốc theo các thành phần đã nêu tuy chỉ là một sự quy ước tương đối, nhưng nó cũng có thể đảm bảo cho việc nhận thức ngữ liệu được dẫn dụng thêm rõ ràng, phản ánh trình độ Hán học uyên bác và kế thừa, học tập cổ nhân của Nguyễn Du trong quá trình sáng tạo trong tác phẩm. Nó góp phần làm đa dạng hoá thành phần kiến tạo nên vẻ đẹp, chiều sâu văn hoá của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều. 2.2.2. Khảo sát và nhận xét về hệ thống ngữ liệu văn hóa bình dân Riêng Truyện Kiều, trong tổng số 1102 ngữ liệu được khảo sát, số lượng 445 thành ngữ được sử dụng là một con số khá lớn. Cụ thể là 170 thành ngữ có xuất xứ từ văn học dân gian Việt Nam, 162 thành ngữ có xuất xứ từ văn học, văn hoá bác học Trung Hoa và 113 thành ngữ tạo mới. Tât nhiên trong số này, 332 thành ngữ được sử dụng nguyên dạng và 113 thành ngữ được vận dụng sáng tạo, tách xen như một phương tiện tu từ mà không mất đi vẻ cân đối, bóng bẩy của câu thơ. Các số liệu về từ ngữ được so sánh và phân tích trên đã góp phần thể hiện một bức tranh ngôn ngữ đa dạng với nhiều thành phần khác nhau trong ngôn ngữ Truyện Kiều (qua so sánh đối chiếu với Hoa Tiên, Lục Vân Tiên). Ngoài, cùng với sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố văn hoá bác học và bình dân trong ngôn ngữ Truyện Kiều, sự trội bật của ngôn ngữ bình dân đã nâng cao giá trị văn hoá, thẩm mỹ của ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm. 2.3. Nghệ thuật sử dụng ngữ liệu văn hóa trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều 2.3.1. Hệ thống ngữ liệu văn hoá được chuyển dẫn tự nhiên, biến hoá và thích hợp với nội dung ngữ cảnh Hệ thống mỹ từ văn hoá trong Truyện Kiều phần lớn là các ngữ liệu có chiều hướng thiên về quá khứ. Nó được thể hiện qua hàng loạt các từ ngữ thi ca, dẫn ngữ, thi liệu, điển cố... mà chúng tôi gọi chung là ngữ liệu văn hoá. Với ngôn ngữ bác học trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng một hệ thống ngữ liệu mang tính nghiêm trang, tôn kính để phác họa những tính cách hoặc miêu tả tính cách nhân vật. Với ngôn ngữ bình dân, ông thường sử dụng hệ thống này với các nhân vật phản diện, mang tính chất phê phán. 2.3.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá được vận dụng và chuyển dẫn một cách sáng tạo Bên cạnh từ thuần Việt, hư từ, từ láy… nhưng tiểu hệ thống từ ngữ mang sắc thái bình dân, vốn từ địa phương là một trong những phương tiện nghệ thuật giúp Nguyễn Du thể hiện tối ưu nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều. Nhờ vai trò của ngôn ngữ và văn hoá mà Nguyễn Du đã chuyển được từ một cốt truyện giản đơn - Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc thành một truyện thơ đặc sắc, phù hợp với tâm tư, tình cảm của con người Việt Nam. Từ ngữ văn hoá bình dân, bác học trong ngôn ngữ Truyện Kiều đã Nguyễn Du dùng một cách hết sức hợp lý. Ở đó cái giá trị cá thể hoá độc đáo nhất của nó được sử dụng và thể hiện rõ. Cũng cần phải thấy rằng sự xuất hiện của những từ ngữ văn hoá ấy phù hợp với cấu trúc của câu thơ lục bát, hợp cả về nội dung lẫn hình thức và âm hưởng của nó. 2.3.3. Sự kết hợp hài hoà, chuyển dịch hợp lý của hai hệ thống ngữ liệu bác học và bình dân trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều Hai hệ thống từ ngữ văn hoá được sử dụng trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều chủ yếu thuộc vào các lĩnh vực văn hoá, xã hội thời trung đại. Hệ thống ngữ liệu văn hoá trong Truyện Kiều không chỉ khắc hoạ, thể hiện chiều sâu triết mỹ trong tâm hồn, phong thái của thi nhân, mà còn là những cơ sở thể hiện những tính cách, dòng suy tưởng của nhân vật, là căn cứ để khái quát văn hoá về phong cách, ngoại hình của nhân vật, tạo nên những tuyến nhân vật trong tác phẩm. Truyện Kiều được lưu truyền rộng rãi trong dân gian là vì Nguyễn Du đã đã sử dụng một cách nhuần nhuyễn, sinh động, đa dạng, kết hợp một cách thuần thục hai hệ thống từ ngữ Việt và Hán Việt. Bên cạnh đó, trong quá trình sáng tạo, tác giả đã tổng hợp, điều hoà những ảnh hưởng của cả hai khuynh hướng bình dân và bác học. Chương 3. HIỆU QUẢ THẨM MỸ CỦA HỆ THỐNG NGỮ LIỆU VĂN HOÁ TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU 3.1. Ngữ liệu văn hoá với sự thể hiện tính triết luận và bức tranh thời đại qua ngôn ngữ tác giả 3.1.1. Tính triết luận và trầm tích văn hóa qua ngôn ngữ trữ tình Tính triết luận ở đây được hiểu như là chiều sâu văn hoá, những tác động văn hoá đến sự lựa chọn, sử dụng các ngữ liệu bình dân, bác học trong ngôn ngữ trữ tình hay tự sự của tác phẩm, tác giả. Do đó, theo chúng tôi, tính triết luận của lớp từ ngữ văn hoá trong một tác phẩm văn học cổ điển được thể hiện ở chỗ nó đã giúp tác giả phản ánh, nghiền ngẫm về hiện thực, cuộc sống, quan niệm nhân sinh, miêu tả nhân vật, biểu đạt tình cảm cá nhân qua thế giới nghệ thuật phong phú, đa dạng. Giá trị đích thực của hệ thống hình tượng nghệ thuật, của bức tranh sống động của cuộc sống trở nên phong phú và đa dạng hơn thông qua hệ thống ngôn ngữ triết lý, trữ tình của nhà thơ. Với cái nhìn tinh tế, tư duy nhạy bén và lăng kính mỹ thuật độc đáo, Nguyễn Du đã thể hiện một chiều kích văn hoá phức hợp qua một hệ thống ngôn ngữ đặc sắc giàu tính triết mỹ, đậm tính trữ tình. Mỗi câu thơ của ông chẳng những nhuốm một vẻ đẹp u tịch, triết mỹ của thơ ca phương Đông mà còn hiển hiện những đường nét lung linh của văn hoá Á Đông. Trong tư duy nghệ thuật và quan niệm thẩm mỹ của nhà thơ, hai đặc trưng này chuyển hoá, tác động qua lại một cách thần tình khiến cho ngôn ngữ trữ tình của nhà thơ luôn sinh động, có tính triết mỹ, không có sự lặp lại, điều đó tạo nên sự trong sáng, hài hoà của ngôn ngữ tác giả và nhân vật trong thiên truyện. 3.1.2. Bức tranh văn hóa thời đại qua ngôn ngữ tự sự Ngôn ngữ tự sự của tác giả, nếu xét từ phương diện kể, được hiểu là những lời kể của tác giả nhằm nêu lên một vấn đề nào đấy. Để mở đầu cho tác phẩm của mình, Nguyễn Du đã khai mở một không - thời gian văn hoá đặc trưng của những tác phẩm trung đại, ấy là không - thời gian của triều đại, gia cảnh hay bất kỳ một khung cảnh nên thơ, nơi gặp gỡ, đoàn viên, là phát đoan của nỗi đoạn trường. Bên cạnh tính phức điệu, ngôn ngữ tự sự của Nguyễn Du còn thể hiện một khả năng đối chiếu và tương phản đặc biệt. Có thể thấy, qua lời kể của tác giả và trực tiếp đọc Truyện Kiều, và bất kỳ độc giả nào cũng đồng ý với nhận định của Hoàng Hữu Yên: Ai mà nén nổi xúc động trước mọi chặng đường khổ ải của nạn nhân Thuý Kiều…, ai mà không thấy hiện lên trước mắt là cái “lờn lợt màu da”, với những lời tục tĩu văng ra từ mồm mụ đĩ Tú Bà! Ai mà không ghê rợn về sự tính toán bỉ ổi của tên ma cô họ Mã! Cũng chẳng ai quên được cái “lẻn”, cái “rẽ dây cương” rồi cái “mặt mo” của tên lừa đảo đốn mạt Sở Khanh…” 3.2. Ngữ liệu văn hóa với sự thể hiện tính triết mỹ trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều 3.2.1. Tính đa thanh, đa giọng điệu qua phong cách Khổng tước văn và Hải hạc văn Qua ý kiến của một số nhà nghiên cứu, chúng tôi cũng xem ba bài thơ trên là những tự sự nghệ thuật của ông, trong đó bài Khổng tước vũ nói về phong cách ngôn ngữ. Đúng như Lê Quế đã nhận xét: “Giọng văn của Nguyễn Du trong Đoạn trường tân thanh có cả sự lộng lẫy như vũ điệu chim công và cả sự thanh thoát, kín đáo, tế nhị như vũ điệu của loài hạc biển...”. Dựa trên việc lý giải mối quan hệ giữa hình thức và nội dung đã nêu, trong Truyện Kiều, tác giả đã tạo nên hai tuyến nhân vật với hai kiểu phát ngôn và giọng điệu riêng biệt. Giọng điệu và ngôn ngữ của các tuyến nhân vật đó thể hiện rất phong phú, đa dạng nhưng cũng rất thống nhất: nhân vật nào ngôn ngữ ấy, ngôn ngữ nào, giọng điệu đó. 3.2.2. Phong cách Khổng tước văn trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều Để nhận chân cái vẻ bề ngoài của Khổng Tước văn tưởng cũng thật dễ dàng, bởi ngoại diện của nó đã được phô ra hết bên ngoài, nhưng vấn đề là nhận ra được sự ẩn hàm những tàng độc của nó như mối quan hệ giữa vẻ đẹp bên ngoài của công lại dung chứa một hệ thống lục phủ ngũ tạng đầy chất độc. Tác giả đã khéo léo sử dụng mối quan hệ ấy dưới bộ lông sặc sỡ của Khổng Tước. Trong tác phẩm, ở đâu Nguyễn Du dùng những lời lẽ khoa trương, ồn ào thì ở đó có sự xuất hiện của những kẻ chuyên sống bằng xác thịt con người, bằng mưu mô và thủ đoạn, những lừa dối, sự tầm thường hoặc chưa hoàn thiện. Sau cái đêm ở trú phường, khi đã ở ngoài mươi dặm trường đình, Thuý Kiều tâm sự với Vương Bà trước lúc chia tay, đã nhận xét về Mã: “Khác màu kẻ quý người thanh/ Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn.” Như đã nói, ngôn ngữ của các nhân vật phản diện, hay có tính tiêu cực đã phân tích trên đã chỉ rõ vẻ đẹp của những lông công, là những bước biểu diễn của con công và sự tàng độc của gan công. Có lẽ vũ điệu đẹp nhất, những chiệc lông đẹp nhất chính là kỹ thuật và giọng điệu, ngôn ngữ náo nhiệt nhất mà tác giả đã sử dụng để viết về cái “không khí Từ Hải” (chữ dùng của Xuân Diệu). Từ góc độ ngôn ngữ, qua thống kê trong 12 câu thơ được trích trên, chúng tôi nhận thấy có lẽ nhà thơ đã vận dụng hết những gì là tinh tuý nhất của hai lớp ngữ liệu bình dân và bác học để phục dựng cái không khí rất hào tráng của đội quân Từ Hải. Sự kết hợp nhuần nhuyễn những ngữ liệu bác học và bình dân đã giúp nhà thơ như muốn thể hiện cái oai hùng rất lớn của cái không khí ấy. Chẳng hạn, khi sử dụng từ cô quả (tiếng vua chư hầu tự xưng), bá vương (vừa ám chỉ những người đứng đầu có tài năng, sức mạnh, vừa ám chỉ việc làm của Từ Hải giống như Sở Bá Vương năm xưa) có nguồn gốc từ văn hoá khiêm xưng của Trung Hoa (cô gia, quả nhân) hoặc thời kỳ lịch sử Hán sở tranh hùng, tả giả muốn đề cao vai trò to lớn của người anh hùng Từ Hải. Thế nhưng, cái không khí ấy càng hùng tráng bao nhiêu thì khi sự thất bại của họ Từ diễn ra, người đọc càng cảm thấy thấm thía bấy nhiêu. 3.2.3. Phong cách Hải hạc văn trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều Xét từ phương diện ngôn ngữ, nếu Thuý Kiều ôn nhu thì Từ Hải mạnh mẽ, nếu Thuý Kiều thanh cao thì Từ Hải võ biền, nếu Thuý Kiều đáng thương thì Từ Hải đáng trọng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc chơ rằng: “Ngôn ngữ của Từ Hải là tuyên ngôn của lý tưởng anh hùng là sự biểu hiện của một phẩm cách anh hùng.”. Khi khẳng định Từ Hải là kẻ quốc sĩ, Nguyễn Du muốn thông ngôn ngữ của nhân vật này đề cao phẩm giá củanhững người phụ nữ từng trải, những người có số phận “cỏ nội hoa hèn”, cách dùng từ “tri kỷ” để nói về Thuý Kiều đã thể hiện rõ điều đó. Qua ngôn ngữ chân thành của Từ Hải, Nguyễn Du không những đã sử thi hoá nhân vật này, mà đồng thời ông cũng phác hoạ thành công bức chân dung một nhân vật anh hùng xuất chúng, một tâm hồn bầu bạn, một trái tim yêu thương, kính trọng của Thuý Kiều. Hiểu văn Nguyễn Du qua Khổng Tước văn chỉ là mới tiếp cận bên ngoài của cái vẻ hào nhoáng, chỉ thấy được giọng điệu cay độc, mỉa mai của tác giả dành cho những kẻ độc ác, gian ma nhiều khi được che đậy trong một lốt vẻ hào hoa, phong nhã. Khi tiếp cận với giọng Hải Hạc văn, người đọc dường như mới tiếp cận được cái trọn vẹn, hoàn mỹ của một thiên tài. Vẻ đẹp của Hải Hạc văn được thể hiện qua ngôn ngữ của các nhân vật chính diện là vẻ đẹp kín đáo, tế nhị và mộc mạc, thân tình. Qua nhiều đoạn triết lý, độc thoại nội tâm của những nhân vật như Thuý Kiều, chúng ta mới thấy được dáng vẻ thâm trầm, kín đáo của thi nhân. 3.3. Âm hưởng của ngôn ngữ văn hoá trong Truyện Kiều đến đời sống xã hôi, văn chương Việt Nam 3.3.1. Ảnh hưởng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đến đời sống văn hoá, xã hội Việt Nam Qua ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều, Nguyễn Du tái hiện một thế giới nghệ thuật sinh động qua một hệ thống từ ngữ mang tính phúng dụ sâu sắc, dung chứa những quan niệm văn hóa, văn chương và đậm hơi thở của cuộc sống. Nó “không chỉ chiếm lĩnh ở đỉnh cao về nghệ thuật sử dụng tiếng Việt mà còn có vai trò hiếm có trong việc đóng góp vào kho tàng từ vựng tiếng Việt một hệ thống từ ngữ mới, đi vào lời ăn tiếng nói hằng ngày của mọi tầng lớp nhân dân.”. Sau khi ra đời, Truyện Kiều đã thực sự trở thành món ăn tinh thần cho bao thế hệ người đọc Việt Nam, là một tác phẩm có vị trí đỉnh cao trong lịch sử phát triển của văn học Việt Nam, là sách giáo khoa quốc văn cần phải đọc ở các bậc học, là một đối tượng nghiên cứu chuyên sâu của các chuyên luận khoa học. Cùng với Lục Vân Tiên ở Nam Bộ, Truyện Kiều đã trở thành hai đại tuyệt phẩm của thể loại truyện Nôm bác học. Sự ra đời của Truyện Kiều đã góp phần to lớn làm phong phú đời sống văn hóa dân tộc. “Làm trai biết đánh tổ tôm, uống trà Chính Thái, xem nôm Thúy Kiều” đã trở thành một nét văn hóa đặc sắc của người dân Việt. Trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, những hình thức sinh hoạt như đố Kiều, lẩy Kiều, bình Kiều, ca tài tử, cải lương liên quan các tuồng tích trong Truyện Kiều đều in đậm dấu ấn ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều. Sau Truyện Kiều, không ít người đã nói đến cái gọi là lục bát hậu Truyện Kiều, Truyện Kiều đọc ngược, văn Kiều, thơ Kiều, bói Kiều, vịnh Kiều, tập Kiều. Trong những năm gần đây, sau khi thành lập Hội Kiều học Viêt Nam quy tụ những học giả, chuyên gia Hán Nôm, người yêu mến Nguyễn Du và Truyện Kiều, các nhà nghiên cứu và nhà xuất bản Thanh niên lần lượt cho xuất bản các ấn phẩm nghiên cứu, bình luận về Truyện Kiều trong bộ Tùng thư Truyện Kiều, đây được xem là một bộ sách góp phần thay đổi diện mạo của “văn hoá Kiều”. Có thể nói, đây không chỉ là một công việc thuần tuý khoa học mà còn là một cách thức rất cơ bản khuyến khích việc tuyên truyền quảng bá “văn hoá Kiều” đến bạn đọc trong và ngoài nước. 3.3.2. Sự lan tỏa và vang vọng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đến đời sống văn chương Việt Nam Nghiên cứu về vấn đề ảnh hưởng, lan toả và vang vọng của ngôn ngữ văn hoá trong Truyện Kiều đến đời sống văn chương nghệ thuật, quá trình sáng tác cũng như các tác phẩm cụ thể của các thế hệ thi nhân hậu Nguyễn Du, hậu Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy cần phải xem xét trên hai phương diện. Một là các sáng tác, tác phẩm cụ thể lấy cảm hứng từ những vấn đề xung quanh câu chuyện về hệ thống nhân vật, nội dung tư tưởng, nghệ thuật của Truyện Kiều. Hai là sự ảnh hưởng, tiếp nhận kiểu sáng tác, mô hình sáng tác, kiểu dùng từ đặt câu... có vận dụng các ngữ liệu văn hoá trong Truyện Kiều đến các nhà văn, nhà thơ sau khi tác phẩm này hành thế. Trong truyền thống văn chương Việt Nam, đề vịnh về các danh tác là một hiện tượng không hiếm. Nhà nghiên cứu Lê Thu Yến đã nhận xét, từ góc độ ngôn ngữ văn hoá, từng câu chữ trong “Truyện Kiều như có hấp lực bắt người đọc phải làm theo, nỗ lực sáng tạo... vì vậy mà có các hình thức lẩy Kiều, tập Kiều... Nhiều cuộc thi tập Kiều với những hình thức khác nhau được tổ chức từ sau Truyện Kiều ra đời, kéo dài đến bây giờ.” Nguyễn Văn Y với Thơ vịnh Kiều (1973) là người đầu tiên ý thức về việc nghiên cứu những ảnh hưởng của ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều đến giới văn nhân hậu Nguyễn Du. Qua Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ đời sau (2001), 126 bài thơ tiêu biểu nhất lấy cảm hứng từ Nguyễn Du và Truyện Kiều được sưu tuyển. Nhiều người Việt Nam đã đọc Kiều, ngâm Kiều, thuộc Kiều, rất hay dùng những từ ngữ, tứ thơ, ngữ điệu thơ, những tâm trạng, tình huống trong Truyện Kiều để diễn đạt những cung bậc tình cảm cá nhân. Hiện tượng này các nhà nghiên cứu thường gọi là lẩy Kiều. Đọc các bài viết, bài nói chuyện và thơ văn của chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người rất yêu Truyện Kiều và hay lẩy Kiều - như một ứng xử văn hoá trước bạn bè quốc tế. KẾT LUẬN 1. Lịch sử tiếp nhận ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá tuy không có bề dày như nhiều hướng tiếp cận khác nhưng nó đã mở ra được một hướng nghiên cứu mới về một đối tượng đặc biệt của văn học dân tộc. Khảo sát hệ thống ngôn ngữ trong tác phẩm văn học trung đại nói chung và ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều nói riêng từ góc độ văn hoá là một công việc vô cùng lý thú và hấp dẫn. Với hệ thống ngữ liệu văn hóa, chúng ta có thể đi vào tìm hiểu bức tranh “muôn hình muôn vẻ” về thế giới nghệ thuật, xã hội, con người và những cách tân của tác giả trong quá trình chiếm lĩnh hiện thực, những trải nghiệm của một thi nhân, triết nhân luôn nặng nợ với đời. 2. Vấn đề hàm nghĩa văn hoá và ngôn ngữ văn hoá trong tiếng Việt tuy đã được quan tâm nghiên cứu từ lâu, song sự thống nhất quan điểm nghiên cứu về nội hàm và ngoại diên của các khái niệm này vẫn chưa được cụ thể hoá, khu biệt hoá. Trong bối cảnh chung đó, việc đề xuất một cách hiểu sơ khởi về hai khái niệm này của tác giả luận văn đã góp phần xây dựng nên hệ quy chiếu để phân loại và biện giải về hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ Truyện Kiều nói riêng và ngôn ngữ truyện Nôm nói chung. Khi trở thành một yếu tố quan trọng của ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam, hệ thống từ ngữ này đã phát huy tối đa tiềm năng vốn có của nó, giúp cho nhà nghệ sỹ có thể diễn đạt uyển chuyển những khái quát nghệ thuật ở cấp độ cao. 3. Hệ thống từ ngữ văn hóa trong Truyện Kiều đã tồn tại với tư cách là một phương tiện đặc thù của ngôn từ tác phẩm. Nguyễn Du đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn, cách tân, sáng tạo, linh động, thần tình, đích đáng, tự nhiên, gọn gàng, ý vị thanh nhã và thuyết phục người đọc. Đó còn là nhờ có sự hòa quyện giữa những yếu tố khách quan và chủ quan theo đặc trưng thi pháp văn học Trung đại, là sự tiếp nhận những ảnh hưởng từ văn học cổ điển Trung Hoa. 4. Những đặc trưng thẩm mỹ của hệ thống ngôn ngữ văn hóa trong Truyện Kiều đã có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình tiếp nhận tác phẩm trong bối cảnh giao lưu văn hóa. Nó góp phần thể hiện giọng điệu tiêu biểu như Khổng Tước văn, Hải Hạc văn của Nguyễn Du. Ngoài ra, nó còn tác động đến đời sống sinh hoạt văn hóa của dân tộc, các hình thức Bình Kiều, Đố Kiều, Lẩy Kiều, Bói Kiều đã trở thành những thú chơi tao nhã của văn nhân, mặc khách. Tác động của nó còn lưu dấu trong tâm thức thẩm mỹ của các nhà thơ qua các thế hệ. Dù đã tồn tại nhiều cuộc tranh luận khác nhau về giá trị của Truyện Kiều nhưng những đặc điểm nổi bật về ngôn ngữ vẫn là những yếu tố trội bật, tiêu biểu trong diễn trình vận động và tồn tại của tác phẩm. Tiếp nhận Truyện Kiều trong một bối cảnh giao lưu văn hoá không chỉ giúp cho người đọc các thế hệ hiểu thêm về một tuyệt tác văn học, một điển hình tiêu biểu cho văn chương Việt Nam. Dù có nhiều cách luận bình khác nhau, tiêu cực hay tích cực, Truyện Kiều vẫn luôn được tồn tại với tư cách là một sinh mệnh văn hoá của dân tộc, là món ăn tinh thần quý giá của nhân dân ta, Và do đó, Nguyễn Du và Truyện Kiều suốt hơn hai trăm năm qua đã trở thành nguồn cảm hứng của biết bao thế hệ thi nhân, là đề tài cho các nghệ sĩ và nó vẫn tiếp tục trong mạch nguồn văn hóa dân tộc, vẫn liên tục tiếp diễn, bền bỉ và dài lâu. Vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật trong truyện Kiều của Nguyễn Du qua một số đoạn trích đã học Xưa nay, nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều , người ta thường hay chú ý trước hết đế những chỗ dùng từ chính xác, từ hay , tinh tế thường được gọi là lối dùng từ đắt của Nguyễn Du ,cũng như cách dùng hư từ , khối lượng từ đồng nghĩa , từ có phong cách khẩu ngữ, từ mang phong vị ca dao , thành ngữ, tục ngữ ... Ví như hai từ đầy đặn , nở nang trong câu thơ “ Khuôn trăng đầy đặn / Nét ngài nở nang” khi tác giả dùng để miêu tả Thuý Vân. Hai từ đó không chỉ đơn thuần là miêu tả khuôn mặt tròn trịa ,đầy đặn như mặt trăng đêm rằm của nàng Vân , cũng như cả cái nét ngài minh bạch ,rõ ràng , uốn cong thanh tú của nàng mà đó còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận , của cuộc đời nàng . Hai chữ thua , nhường trong câu thơ “Mây thua nước tóc , tuyết nhường màu da” dùng để chỉ thiên nhiên và cũng chính là tạo hoá sẽ chịu thua mái tóc mây, dài, xanh mượt, màu da trắng như tuyết để nhường bước cho nàng đi trên con đường bằng phẳng , không hề có chông gai . Hay như chữ thông minh trong câu “Thông minh vốn sẵn tính trời” dùng để nhấn mạnh trí tuệ thiên bẩm của nàng Kiều mà nhiều người cho rằng đó là một nhãn tự nhờ cách nhà thơ đưa từ này lên đầu câu , nó không chỉ nhằm khắc hoạ một tính cách mà là cả một nhân cách . Kiều đẹp sắc sảo, mặn mà - Một vẻ đẹp vừa rực rỡ , vừa hấp dẫn , rất có hồn . Nhưng Kiều chiếm được cảm tình nơi bạn đọc không phải vì cái vẻ sắc nước hương trời ,cùng tài năng hiếm có cuả nàng , mà chủ yếu là phẩm cách tuyệt vời và một trí tuệ hơn người . Trong tác phẩm Truyện Kiều , Nguyễn Du đã nhiều lần viết về tài hoa và trí tuệ theo kiểu ấy . Chẳng hạn như câu “Anh minh phát tiết rangoài” … Điều đó cho thấy ánh sáng trí tuệ chính là yếu tố nổi bật trong tài hoa của Thuý Kiều . Còn như từ não trong câu “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân” . Ở đây , Nguyễn Du đã sử dụng từ não rất chính xác .Nội hàm ý nghĩa của từ này diễn đạt nỗi buồn đã có sẵn tự trong lòng . Nó không chỉ đơn thuần là sầu , buồn , là những từ diễn đạt nỗi buồn trên sắc diện con người mà là não (não lòng , não nuột) . Âm thanh của từ ngữ này dường như xoáy sâu vào tâm can người đọc . Bởi lẽ , khúc nhạc tiêu tao của thiên bạc mệnh ấy đã từng khiến cho biết bao người rung cảm, sầu não theo từng khúc nhạc não nề . Nó đã từng khiến cho Kim Trọng nao nao lòng người , Thúc Sinh phải tan nát lòng và cho cả trái tim vô tình, sắt đá của quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến cũng phải cảm thương mà rơi châu nhỏ lệ . Cung đàn bạc mệnh của Kiều đã trở thành một hình tượng nghệ thuật thể hiện tâm hồn đa sầu, đa cảm và số phận bi thương của Kiều là vì thế . Cả câu “Não người cữ gió tuần mưa” thì từ não cũng được dùng với ý nghĩa như vậy . Nhiều người cho rằng, Nguyễn Du sử dụng từ ngữ rất đắt . Đắt vì nhiều khi chỉ một chữ thôi đã có thể lột tả được bản chất bên trong của con người . Đó là trường hợp câu thơ “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” mà nhà thơ dùng để khắc hoạ nhân vật Mã Giám Sinh lúc đến hỏi Kiều về làm vợ . Một kẻ đã ngoài tứ tuần mà Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao thì thật nực cười và kỳ cục đến không thể chấp nhận được. Bởi nhẵn nhụi là từ ngữ người ta thường dùng để chỉ độ trơn , bóng , láng của đồ vật , chứ không phải dùng để chỉ tính chất trang nhã , lịch sự của con người . Còn từ bảnh bao thường dùng để khen trẻ em có quần áo đẹp lại dùng cho Mã Giám Sinh thì lại có ý chế giễu , mỉa mai . Một kẻ đã nhiều tuổi nhưng lại cố ý tô vẻ , tỉa tót thì lại trở nên kệch cỡm , giả tạo và có phần trai lơ , đàng điếm . Đặc sắc nhất vẫn là cách dùng từ trong câu “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng” - một cử chỉ vội vàng , khiếm nhã khiến Nguyễn Du phải hạ ngay một từ sỗ sàng . Cử chỉ ấy không phù hợp với một người đi hỏi vợ và lại càng không đúng với phẩm cách văn hoá của một Giám Sinh . Nó quá bất ngờ so với sự chờ đợi của người đọc, quá phi lý so với vai trò của một sinh viên trường Quốc Tử Giám . Cử chỉ này là tín hiệu đầu tiên để bước đầu khẳng định bản chất của Mã Giám Sinh . Tự định vị một cách vô lễ , trịch thượng, chướng mắt trên chiếc ghế của người bề trên ( những bậc cao niên ) càng cho thấy tính chất vô học và nhất là tâm lý hợm cúa của kẻ buôn người giàu có . Chỉ một chữ tót đã phủ nhận vai trò giám sinh của gã họ Mã . Như thế cũng chưa đủ . Cái cách cò kè thêm bớt đến cả một giờ lâu rồi mới ngã giá vàng ngoài bốn trăm thì Nguyễn Du đã lột tả được bộ mặt gớm ghiếc, giả dối của Mã Giám Sinh . Hắn đã hiện nguyên hình là một gã con buôn lọc lõi chỉ cần biết một điều là làm sao mua được món hàng với giá hời nhất , chỉ cần một vốn mà có đến bốn lời là được .Chỉ với một từ cò kè rất con buôn, Nguyễn Du đã cho ta thấy được bộ mặt tàn ác, dơ bẩn nhất của bọn buôn thịt bán người mà Mã Giám Sinh là đại diện . Và trong đoạn đời đầu tiên của bước lưu lạc, lúc Kiều được đưa ra ở lầu Ngưng Bích, nàng đã sống trong một tâm trạng buồn tủi , chua xót đến cực độ . Nàng đâu còn cơ hội khoá kín tuổi xuân của mình nữa . Nàng không còn giữ được chữ trinh đối với chàng Kim thì hai chữ khoá xuân lại đầy mỉa mai đối với nàng . Thực chất nàng đang bị Tú Bà giam lỏng để chờ ngày kén chồng tử tế , nhưng thực ra là mụ đang rắp tâm thực hiện một âm mưu mới . Trong cảnh vò võ cô đơn , trơ trọi nàng đã tưởng nhớ đến người yêu . Chỉ một từ tưởng mà nói được bao điều . Nếu mơ là luôn nghĩ đến những kỉ niệm , những điều tốt đẹp về nhau ; hay nhớ cũng là nghĩ đến những điều tốt đẹp nhưng lại có thêm ý mong mỏi có ngày gặp lại thì tưởng cũng là mơ là nhớ nhưng với Kiều chỉ là tưởng , chỉ xem mối tình đầu trong trắng, ngây thơ của mình là một kỉ niệm đẹp , không dám mơ tưởng những gì xa xôi lại càng không dám mong gì ngày gặp lại . Nhớ người yêu , Kiều cũng rất nhớ về cha mẹ . Nhưng Nguyễn Du không dùng thương hay nhớ mà lại dùng một chữ xót ở đầu câu thơ . Bởi xót đâu chỉ đơn thuần là nhớ , là thương mà còn bao hàm cả nỗi giận đời và trách mình . Ngay cả việc sử dụng điệp ngữ buồn trông ở cuối đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích ta càng thấy Nguyễn Du không hề vô tình khi đặt chữ buồn đứng trước chữ trông .Buồn mà trông ,buồn rồi mới trông là nỗi buồn thấm sâu tự đáy lòng Kiều để rồi trông vào mọi vật nàng chỉ thấy thấp thoáng mơ hồ , tàn tạ, héo uá như chính cuộc đời của nàng cùng với nỗi lo sợ hãi hùng về một tương lai mờ mịt . Thật đúng là “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” . Đọc Truyện Kiều ta còn bắt gặp được nhiều câu thơ , nhiều từ ngữ đặc sắc như thế . Chữ cậy emvà chữ chịu lời trong câu 723 dùng thật khéo . Cụ Nguyễn Du dùng chữ cậy là tuyệt hay vì nếu thay chữ nhờ và chữ nghe lời vào thì câu thơ sẽ là Nhờ em em có nghe lời thành ra quá áp đặt , câu thơ trở nên tầm thường, nhạt nhẻo , không còn ý vị gì nữa . Vì điều Kiều sắp nói cho em biết thuộc về chữ tình nên chưa chắc em đã nhận lời cho . Do vậy , dùng cậy và chịu lời là hợp lý nhất . Chữ tốc dùng trong câu 1.133 Tú Bà tốc thẳng tới nơi lúc sở khanh đưa Kiều chạy trốn là tuyệt khéo . Chỉ mới nghe câu thơ ấy thôi cũng đủ biết rằng mụ Tú Bà giận dữ lắm , dáng bộ hung hăng, vội vàng lắm , mặc dù điều đó nằm trong âm mưu của mụ nó hoàn toàn khác cái vẻ thong dong khi mụ dạy Kiều nghề chơi. Một chữ tốc thôi nhưng có sức mạnh lạ thường . Như chỗ nàng Kiều vượt tường để trốn khỏi Quan Âm Các của nhà họ Hoạn “Cất mình qua ngọn tường hoa” – câu 2.227 . Chữ cất dùng ở đấy thật tuyệt . Vì ý nó mơ hồ ,ta không thể biết được là nàng Kiều văng mình qua tường hay trèo qua tường để trốn đi . Hay như chữ chặn trong cặp câu thơ 3.181 , 3.182 trong màn Đoàn viên : “Thân tàn chặn đục khơi trong/ Là nhờ quân tử khác lòng người ta” . Nguyễn Du dùng chặn mà không dùng gạn . Bởi vì từ chặn được dùng với nghĩa chặn dòng đục trong quá khứ của cuộc đời Kiều . Quả thật với hoàn cảnh Kiều lúc bấy giờ thì không thể gạn đục khơi trong được . Chữ chặn vì thế mà có giá trị biểu cảm cao . Nhìn chung, từ ngữ Truyện Kiều không chỉ hay mà còn rất đắt , rất độc đáo. Nhiều chữ được dùng đi, dùng lại rất nhiều lần nhưng với một nét nghĩa mới nên không thấy nhàm chán như 63 trường hợp sử dụng từ thân, 59 từ xuân, 14 từ ngựa , rất nhiều lần sử dụng chữ tâm và chữ tài . Ngay như chữ chút là một uyển ngữ rất khó dùng , thế mà Nguyễn Du sử dụng được 47 chữ như thế … Vấn đề sử dụng từ ngữ ước lệ trong Truyện Kiều Là nhà thơ thiên tài của dân tộc , Nguyễn Du là người chiụ ảnh hưởng rất lớn thi pháp cổ điển về khắc hoạ , xây dựng hình tượng nhân vật . Vì thế ngôn từ ước lệ được sử dụng nhiều trong Truyện Kiều . Cũng giống như người xưa , nhà thơ đã lấy vẻ đẹp của thiên nhiên như tuyết - mai , trăng - hoa, mây - tuyết , thu thuỷ - xuân sơn , hoa - liễu …Làm chuẩn mực , làm thước đo giá trị , vẻ đẹp của con người . Tác giả đã dùng bút pháp cực tả tuyệt đối hoá , lý tưởng hoá nhan sắc cốt cách hai chị em Kiều . Đó là Mai cốt cách , tuyết tinh thần , khuôn trăng , nét ngài , hoa cười ngọc thốt , mây thua, tuyết nhường , làn thu thuỷ, nét xuân sơn , hoa ghen, liễu hờn …Để khắc hoạ cái cốt cách thanh tao , mảnh dẻ như mai ; tinh thần trong trắng như tuyết. Một vẻ đẹp mười phân vẹn mười nhưng mỗi người một vẻ của chị em Kiều . Tả nàng Vân kiều diễm, Nguyễn Du dùng khuôn trăng, nét ngài , hoa cười, ngọc thốt , mây thua , tuyết nhường cùng với một số từ nôm na như khác vời và những từ ngữ đầy đặn, nở nang vừa khắc hoạ được vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của nàng Vân , vừa như dự báo được cuộc sống sau này rất bình lặng của nàng . Còn với Kiều , Nguyễn Du đã dùng vẻ đẹp của Thuý Vân để bẫy vẻ đẹp của Kiều . Nhà thơ đã dùng đến 12 câu thơ để khắc hoạ về Kiều . Điều đó chứng tỏ nhà thơ đã dành cho nhân vật chính của mình một tình cảm hết sức đặc biệt . Nhiều thi liệu cổ đã được huy động để khắc hoạ bức chân dung tuyệt mỹ của giai nhân như : Làn thu thuỷ , nét xuân sơn , hoa ghen , liễu hờn … Với bút pháp lý tưởng hoá , Kiều hiện ra trước mắt người đọc bằng hình ảnh một thiếu nữ có đôi mắt trong sáng , bình lặng như mặt nước hồ thu ; nét mày uốn cong thanh tú như dáng núi mùa xuân .Thật là một dung nhan rực rỡ , sắc sảo mặn mà , vừa có duyên, vừa có hồn . Nhưng đẹp đến độ sắc nước hương trời , chim sa cá lặn , nước thành nghiêng đổ , hoa phải ghen , liễu phải hờn tất cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, đau khổ … Mười lăm năm lưu lạc chìm nổi của Kiều đã chứng minh rõ điều đó . Là một nghệ sĩ về ngôn từ , Nguyễn Du không sử dụng những thi liệu cổ ấy một cách máy móc rập khuôn mà sự sáng tạo của nhà thơ là rất lớn . Nói tới nỗi buồn của người đẹp , nhà thơ gắn với những thềm hoa ,lệ hoa , rồi nét buồn như cúc , điệu gầy như mai … Nói chung , qua việc sử dụng những thi liệu cổ nhà thơ đã tạo ra những từ ngữ rất riêng , rất Nguyễn Du , nhưng vẫn là ngôn ngữ dân tộc . Ngôn từ thiên nhiên (vũ trụ thi ca) của Truyện Kiều . Theo tác giả Đặng Tiến thì vũ trụ thi ca trong Truyện Kiều là một không gian với chân trời rộng . Ngoài thảm cỏ non phải xanh tận chân trời ( Cảnh ngày xuân) thì không gian còn là một vũ trụ rộng, trống, mờ xa tít tắp với vẻ non xa , tấm trăng gần ; với cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia (Kiều ở lầu Ngưng Bích). Đó là một vũ trụ từ chối cuộc sống, từ chối con người -một vũ trụ mà cảnh vật bốn bề bát ngát xa trông, bên thì cồn cát nhấp nhô như sóng lượn , bên thì bụi hồng trải dài khắp dặm xa mênh mông . Ngoài ra, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du còn sử dụng rất nhiều ngôn từ vũ trụ thi ca : Con đường khuya thì phải ngắt tạnh mù khơi , màu của rừng thu phải là màu quan san , khung trời thương nhớ phải gợn áng mây Tần xa xa , đến túp lều cỏ bên sôngTiền Đường cũng phải là “Một gian nước biếc mây vàng chia đôi” . Bên cạnh đó còn có những dặm vi lô hiu hắt , những bờ liễu loi thoi , những rừng phong quan tái . Rồi đến cảnh màu xanh tơ liễu bên cầu , gió cây trút lá , mấy ngàn dâu xanh xuất hiện trong Truyện Kiều những giờ phút chia phôi , những lúc bước chân ngập ngừng , những lúc tâm hồn phân tán … Dường như nhà thơ muốn thu nhận cả đất trời nhân loại bằng cái nhìn phơi trải trong hình ảnh non phơi bóng vàng , cái nhìn đo lường kích thước cuộc sống hằng ngày để xác định vị trí ,tầm sống của mình trước cuộc đời . Về ngôn từ chỉ màu sắc trong Truyện Kiều Truyện Kiều có nhiều từ ngữ chỉ màu sắc (có đến 119 lần) , với nhiều màu khác nhau. Nguyễn Du dùng từ chỉ màu sắc để tạo thành các hình tượng có nội dung khái quát, rộng lớn và giàu giá trị thẩm mỹ . Trước hết cần xét từ ngữ chỉ màu sắc trong các đoạn trích học ( sách Ngữ Văn 9 - tập 1) : Tả nàng Vân với mái tóc dài, mượt còn xanh hơn cả mây ; làn da trắng mịn hơn cả tuyết “ Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” . Ở đây, Nguyễn Du dùng màu mây thay cho màu đen của mái tóc . Bởi trong Truyện Kiều chưa có màu đen có ý nghĩa đẹp cho nên tóc đen đẹp được gọi là tóc mây . Tả nàng Kiều với đôi môi đỏ thắm khiến hoa phải ghen vì thua thắm và mái tóc xanh mượt khiến liễu phải hờn ( Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh ) . Rồi đến màu cỏ non xanh tận chân trời , một màu xanh trải dài mênh mông tít tắp , mà nổi bật trên cái nền toàn cảnh màu xanh ấy là sự điểm xuyết của một vài bông hoa lê màu trắng . Những màu sắc có sự hài hoà tới mức tuyệt dịêu làm cho bức tranh thiên nhiên càng thêm tươi đẹp - những màu sắc tươi sáng, đầy sức sống . Không chỉ có màu trắng , màu xanh , Nguyễn Du còn đề cập đến màu vàng, màu hồng trong câu “Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” . Đó không chỉ đơn thuần là sắc vàng của cồn cát nhấp nhô, sắc hồng của từng đám bụi cuốn lên từng dặm xa mênh mông mà còn là cát bụi của cuộc đời . Đó là màu vàng tàn tạ héo uá của nội cỏ dàu dàu / Chân mây mặt đất một màu xanh xanh – là những màu buồn ,ảm đạm, thiếu sức sống , màu của bế tắc, không lối thoát . Trong Truyện Kiều ,từ ngữ chỉ màu sắc ít có tính chất tả thực mà nặng về tính biểu trưng . Tác giả thường lấy màu của sự vật để tả cảnh, gợi tình. Ở đây có mặt sắt đen sì của Hồ Tôn Hiến , có lờn lợt màu da của mụ Tú Bà, mặt như chàm đổ của Thúc Sinh v.v... Màu cỏ cũng đa dạng : khi thì “Cỏ non xanh tận chân trời” , khi thì “Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” khi thì cỏ lợt màu sương , khi thì cỏ áy bóng tà, khi thì “Một vùng cỏ mọc xanh rì” … Với Nguyễn Du, màu sắc là sản phẩm của cảnh vật và tâm lý . Màu cỏ non xanh gắn với bao cảm xúc bao la về viễn cảnh của cuộc đời , với vẻ thanh tân, trinh trắng của một vài bông hoa lê đầu mùa , ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh như cuộc đời dang dở . Cỏ áy bóng tà - cỏ nhuốm ánh vàng của nắng chiều như có cái gì xốn xang, day dứt . Màu sắc trong Truyện Kiều còn là màu sắc của tình cảm . Đó là những màu quan san, màu quan tái , màu khơi trêu , màu của nỗi nhớ “Bốn phương mây trắng một màu / Trông vời cố quốc biết đâu là nhà” . Hay “Trời cao trông rộng một màu bao la”. Có thể nói, Nguyễn Du không chỉ nắm bắt sắc màu của sự vật mà còn nắm bắt và diễn tả cả sắc màu tình cảm nhuốm đậm lên cảnh vật, không gian làm cho phong cảnh trở nên sinh động, có hồn … Về cách sử dụng hư từ Theo ý kiến của nhiều người thì vấn đề dùng hư từ chỉ có Truyện Kiều của Nguyễn Du là dùng đúng nhất .Cụ thể là các chữ : bao, bấy được dùng một cách độc chiếc trong Truyện Kiều .”Trải bao thỏ lặn ác tà” ; “Quản bao tháng đợi năm chờ” ; “Trời Liêu non nước bao xa” ; “Biết bao duyên nợ thề bồi” ; “Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao” . Năm chữ bao ấy đều dùng chữ bằng nào mà cắt nghĩa được cả : trải bằng nào ngày đêm ; đợi chờ đến bằng nào năm tháng ; xa bằng nào ; thề bồi bằng nào ; đội trên đầu bằng nào . Tất cả đều có ý hỏi để tỏ ra nghiã là nhiều không phải ít . Cũng vậy, chữ bấy được dùng độc chiếc như : “Khéo vô duyên bấy là mình với ta” ; “Phủ phàng chi bấy hoá công” ; “Trời làm chi cực bấy trời” ; “Thân sao bướm chán , ong chường bấy thân” ; “Hoa sao hoa khéo đoạ đày bấy hoa” . Năm chữ bấy ấy đều dùng bằng ấy mà cắt nghĩa được cả : vô duyên bằng ấy , phũ phàng bằng ấy , cực bằng ấy , chán chường bằng ấy , đoạ đày bằng ấy ; Đều có ý tỏ lòng thương tiếc hoặc trách móc . Rồi đến chữ bây , nhưng chữ này không thể dùng độc chiếc ( Lão kia có giở bài bây) . Nhà thơ Nguyễn Du đã đặt sau các chữ bao , bây , bấy một chữ để làm thành liên tự chỉ thời gian như : bao giờ , bây giờ , bấy giờ … Những hư từ này được sử dụng nhiều trong Truyện Kiều Các liên từ : bao nhiêu , bấy nhiêu cũng được sử dụng một cách linh hoạt trong tác phẩm , cụ thể là 3 trường hợp sau : * “Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường” ; “Bao nhiêu của , mấy ngày đườn”g . Bao nhiêu dùng độc chiếc không đi đôi với bấy nhiêu. * “Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên” ; “Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình” , thì bấy nhiêu dùng độc nhất không đi với bao nhiêu . * “Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi”; Bao nhiêu đi đôi với bấy nhiêu Sự sáng tạo của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật a / Trước hết, cần nói đến từ ngữ mang phong vị ca dao , thành ngữ , tục ngữ Ở đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Truyện Kiều, xuất hiện một tứ thơ mang phong cách thành ngữ tục ngữ . Để diễn tả nỗi lòng tưởng nhớ người yêu , xót thương cha mẹ , Nguyễn Du đã biểu đạt tâm tư ấy qua chiều dài của thời gian và khoảng cách của không gian như : dưới nguỵêt chén đồng , rày trông mai chờ , tựa cửa hôm mai cách mấy nắng mưa , chân trời góc bể , tấm son gột rửa, hoa trôi man mác , nội cỏ dàu dàu, chân mây mặt đất , gió cuốn mặt duềnh ,ầm ầm tiếng sóng… Những từ ngữ này làm cho cách sử dụng ngôn từ trở nên gần gũi , dễ hiểu , mang đậm màu sắc dân tộc . b / Cách tạo từ mới đặc sắc trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã tạo ra hàng loạt ngôn từ không có trong thực tế , cũng không có trong từ điển thông thường ; mà theo ông Trần Đình Sử đó là những ngôn từ ý tượng (là hình ảnh chỉ nảy sinh trong tâm tưởng , không phải là hình ảnh sao chép thực tại ) có cấu tạo riêng , nói lên sự cảm thụ chủ quan của tác giả : Nói tới nước mắt thì nói giọt ngọc , giọt châu , giọt tương , giọt hồng , giọt tủi, giọt riêng ... Nói đến giấc ngủ thì ông nói giấc xuân , giấc mai, giấc hoè , giấc tiên, giấc nồng … Nói tới mái tóc , không chỉ là tóc mây , tóc sương mà là mái sầu . Nói tới đường xa , ông nói thành dặm hồng , dặm xanh , dặm băng ,dặm khách , dặm phần … Nói tới chén rượu ông lại nói tới chén xuân , chén quỳnh , chén đưa, chén mời , chén khuyên chén đồng … mang đầy sắc thái khác nhau của tình huống . Nói tới cửa sổ ông cũng nói bằng những từ của riêng ông : song sa , song mai , song hồ , song mây , song trăng , song đào , song phi … Nói tới bóng trăng thì là bóng nga, bóng nguyệt … Nói tói tấm lòng thì ông gọi là tấm riêng , tấm yêu , tấm son ,tấm thành hoặc tấc cỏ ,tấc riêng , tấc son, tấc lòng … Cùng là gió mà có bao nhiêu thứ gió như : gió mưa , gió trăng , gió trúc mưa mai, gió tựa hoa kề , gió tủi mưa sầu … Những ngôn từ ý tượng này cũng là phương diện cơ bản của ngôn từ nghệ thuật Truyện Kiều . Nguyễn Du đã phá vỡ cách tạo từ thông thường để tạo từ mới gây hiệu quả lạ hoá . Nhà thơ cũng đã phá vỡ nhiều cấu trúc cố định để tạo thành những kết hợp không đâu có . Chẳng hạn : ăn gió nằm mưa , bướm chán ong chường , bướm lả ong lơi, cười phấn cợt son ,dày gió dạn sương, gìn vàng giữ ngọc, gió gác trăng sân, gió thảm mưa sầu , gió trúc mưa mai , gió giục mây vần , hoa thải hương thừa , hồn rụng phách rời , lấy gió cành chim , tô lục chuốt hồng , tiếc lục tham hồng , liễu ép hoa nài , liễu chán hoa chê , ngày gió đêm trăng , nắng giữ mưa gìn …Các cấu tạo đặc biệt này diễn đạt một trạng thái sự vật có ý nghĩa phổ quát , diễn ra nhiều lần và chỉ hiểu được trong ngữ cảnh tác phẩm Truyện Kiều mà thôi . Nói tóm lại, trong văn học Tiếng Việt , chỉ đến Truyện Kiều của Nguyễn Du thì ngôn từ mới tự đứng lên biểu diễn như một nghệ thuật . Nói Nguyễn Du là nhà nghệ sĩ lớn về ngôn từ chính là nói đến cách ứng xử nghệ thuật của ông đối với ngôn ngữ dân tộc và hiệu quả của nó . Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với việc sáng tạo ngôn ngữ thi ca nói chung mà Nguyễn Du là một tấm gương tiêu biểu . BÀN THÊM VỀ SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DU TRONG TRUYỆN KIỀU QUA ĐOẠN TRÍCH TRAO DUYÊN Mối liên hệ giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân phản ánh qui luật phát triển chung của các nền văn học trung đại trên thế giới. Điều đặc biệt là, từ nguồn chất liệu vay mượn của một tác phẩm “không lấy gì làm xuất sắc”(B.L.Riptin), thiên tài Nguyễn Du đã tạo nen một kiệt tác. Ở đây, chúng tôi muốn bàn thêm về vấn đề này qua Trao duyên - một trong những trích đoạn tiêu biểu nhất cho thành tựu tư tưởng và nghệ thuật của Truyện Kiều. Trong Truyện Kiều, sự kiện Thuý Kiều trao duyên cho Thuý Vân được Nguyễn Du miêu tả trong một tình huống mới, khác hẳn so với Kim Vân Kiều truyện. Thanh Tâm Tài Nhân để cho việc trao duyên diễn ra ngay sau quyết định bán mình, đan xen cùng nhiều sự kiện khác và kéo dài trong suốt ba hồi (trên tổng số 20 hồi). Khi đó, Vương ông và Vương Quan vẫn bị bọn công sai đưa đi; Vương bà phải theo chúng để biết lối mang cơm nước. Còn lại hai chị em, Thuý Kiều lập tức bày tỏ nỗi lòng với Thuý Vân; mời em ngồi lên lạy tạ “nhờ em đền bồi thay chị” và gắng vượt qua nỗi đau khổ để viết thư từ biệt Kim Trọng. Bởi vì nàng liệu trước được cảnh ngộ của mình: “Mẹ trở về, mụ mối tất cũng đến. Việc này liên quan đến chuyện trộm cướp, chắc rằng trong vùng không ai dám lấy chị, nhất định phải là người xa. Họ cưới rồi tất giục đi ngay. Lúc bấy giờ ruột gan rối bời, dù muốn viết để lại nửa chữ cũng không thể viết”(tr 52). Dẫu nhiều lúc khóc gọi Kim Trọng; mấy lần đau đớn đến ngất đi nhưng khi tỉnh lại Thuý Kiều vẫn bình tĩnh, chủ động, can trường như một đấng nam nhi. Mụ mối đưa Mã Giám Sinh tới, nàng tự đứng ra mặc cả bán mình, thu xếp các thủ tục mua bán, tự viết hôn thư. Nàng nhận bạc còn đem cân lại, thấy thiếu năm lạng, bắt họ Mã phải “bù thêm cho đủ số”... Quan sát những hành động đó, người đọc tất nhiên thán phục trước “cái tài nhìn đời sáng suốt, làm việc quyết đoán” song không khỏi cảm thấy sự khiên cưỡng của tác giả trong cách miêu tả hành động, tâm lí nhân vật. Nó không thực sự phù hợp với một cô gái trẻ sinh ra, lớn lên trong khung cảnh “Êm đềm trướng rủ màn che” lần đầu tiên phải đối mặt với những biến cố dữ dội, kinh hoàng. Hơn nữa, ngay trong lúc mọi việc còn ngổn ngang, rối bời, còn phải lo lắng cho số phận của cha và em như thế, thật khó có thể nghĩ và tính toán chu toàn cho mình, cho người yêu... Khác với Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du không chủ tâm tạo dựng hình tượng Thuý Kiều như một “tay hào kiệt trong bạn quần thoa”(tr 45). Người thiếu nữ được nuôi dưỡng trong cảnh phong lưu ấy khi phải đối mặt với tai họa cũng rất cứng cỏi, giàu nghị lực. Nhưng lời lẽ, cách ứng xử... vẫn toát lên vẻ dịu hiền, đằm thắm; có cả nét thơ ngây, trong sáng của một cô gái mười lăm, mười sáu tuổi. Kể từ giây phút quyết tình “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”, Thuý Kiều không một lần nghĩ đến Kim Trọng, như thể chỉ cần một kỉ niệm tình yêu thức dậy là sẽ lấy đi của nàng tất cả sức lực và lòng can đảm. Phải đến khi “Việc nhà đã tạm thong dong”, cha và em đã thoát khỏi gông cùm và sáng hôm sau Mã Giám Sinh sẽ đến lấy người - nàng mới dám sống với nỗi đau khổ của mình. Nguyễn Du đã dành riêng cho nỗi đau này một đêm khuya thanh vắng “Một mình nàng ngọn đèn khuya/ Áo đầm giọt lệ tóc se mái sầu”. Đối diện với lòng mình, Thuý Kiều chấp nhận số phận éo le, bất hạnh nhưng không nguôi được nỗi day dứt, đau đớn vì phải phụ lời thề ước sâu nặng, thiêng liêng; phải để lại cho người yêu nỗi đau dang dở: Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa; Vì ta khăng khít cho người dở dang; Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà tự tôi... Không thể tròn vẹn chữ tình, nàng chỉ còn biết đắm chìm trong đau khổ: “Nỗi riêng riêng những bàn hoàn/ Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”. Đúng lúc ấy, Thuý Vân cất lên lời hỏi han, chia sẻ ân cần và chuyện trao duyên đến bất ngờ, thuận theo diễn biến tự nhiên của tâm trạng nhân vật chứ không phải là chủ ý được tính trước. Như vậy, sáng tạo của Nguyễn Du không đơn giản chỉ là lược bỏ nhiều chi tiết, sắp xếp, tổ chức lại các sự kiện, xây dựng tình huống mới... mà chủ yếu là biến đổi tính cách nhân vật và sử dụng những phương thức biểu đạt của riêng mình. Ngòi bút của cụ Nguyễn Tiên Điền đã “khai sinh” một Thuý Kiều mới với “chất Việt Nam thuần tuý và nồng hậu”(M.Durant). Cô Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân thiên về lí trí và luôn có ý thức nêu cao tấm gương liệt nữ nên hay thuyết giáo về chuyện đạo lí. (Cô thuyết phục cha: “Con nay gặp cảnh nước vỗ đầu ghềnh này, cần đứng chân cho vững để làm một việc bất hủ, lưu lại cho đời sau truyền tụng, tuy là không may mà thực là rất may.... làm cho con được cái danh thơm hiếu nữ, há chẳng phải việc rất hay rất đẹp đó ư?”(tr67)). Lúc trao duyên cho Thuý Vân cũng vậy, Thuý Kiều khẳng định mình đã dũng cảm nhận lấy sự hi sinh lớn nhất: “Em là người lương thần hiếu thờ cha mẹ, chị là người trung thần sát thân thành nhâni”(tr50)... Vì thế, lời nàng dặn dò em có chút trịch thượng của người ban ơn: “Chị sợ người tài tình như chàng Kim, khó lòng mà gặp, chị cùng chàng thề thốt bao nhiêu, tất cả phải nhờ em giữ cho trọn vẹn. Sau này chồng quí vợ vinh, đừng có quên chị!”(tt 51). Cách nói đó chỉ phù hợp với một Thuý Vân từng có ý định cùng chị chung mối duyên tình. (Ngay sau cuộc gặp gỡ bên mộ Đạm Tiên, cô Vân của Thanh Tâm Tài Nhân đã “xui giục” chị: “Chị đã coi chàng vừa ý, sao không gá nghĩa cùng chàng rồi dắt díu em đây cũng được phong quang đôi chút”(tr 18). Có thể chính cô Vân ấy mới khiến người đời sau hạ bút viết những câu thơ này chăng: “Chắp duyên nếu là người hôm nọ/ Chẳng lạy thì em cũng nhận lời!”?). Trong khi đó, nàng Kiều của Nguyễn Du lại nặng về tình cảm, nghĩ nhiều đến bổn phận tự nhiên với những người ruột thịt: “Thà rằng liều một thân con/ Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây”. Nàng không coi việc bán mình là hành động phi thường của liệt nữ, hiếu nữ mà là lẽ thường của người làm con, làm chị. (Tinh thần vị tha cao cả mà giản dị, thầm lặng đó toát lên từ nhiều hình tượng nhân vật nữ của văn học Việt Nam – từ cổ tích, ca dao, truyện Nôm... đến các tác phẩm hiện đại.) Cho nên, lời Thuý Kiều nhờ cậy, dặn dò lúc trao duyên chứa đựng không chỉ tình nghĩa với Kim Trọng mà cả tấm lòng yêu thương, trân trọng và biết ơn dành cho Thuý Vân “Ngày xuân em hãy còn dài/ Xót tình máu mủ thay lời nước non”. Nàng nghĩ em còn trẻ, còn nhiều cơ hội để có được tình yêu, hạnh phúc của riêng mình. Hơn nữa với Thuý Vân lúc đó, chàng Kim dẫu có hào hoa phong nhã nhưng mới chỉ là một “người dưng”! Nàng thấu hiểu rằng, em gái cũng phải thiệt thòi, cũng có công ơn to lớn khi “chịu lời” ủy thác này. Để Thuý Kiều nói những lời như thế trong cảnh trao duyên, Nguyễn Du còn “phục bút” cho bi kịch Thúy Vân và cảnh đoàn viên nhiều ngậm ngùi của mười lăm năm sau... Đoạn trích Trao duyên cũng là bằng chứng tiêu biểu cho giá trị riêng của phương thức tái hiện đời sống mà Nguyễn Du lựa chọn. Nếu Thanh Tâm Tài Nhân tận dụng được thế mạnh của tự sự và ngôn ngữ văn xuôi thì Nguyễn Du lại đặc biệt thành công trong nghệ thuật trữ tình. Tác giả Kim Vân Kiều truyện đan cài sự kiện trao duyên giữa rất nhiều sự kiện khác, khéo léo cuốn người đọc vào cái hiện thực đời thường ngồn ngộn chất sống, làm nổi bật lên một Thuý Kiều với bản lĩnh khác xa người thường. Song ở đây, tính cách Thuý Kiều chủ yếu vẫn được bộc lộ qua lời nói, cử chỉ, hành động - kiểu nhân vật ngoại hiện quen thuộc của tiểu thuyết chương hồi. Nguyễn Du lại tách riêng cuộc trao duyên, tập trung miêu tả diễn biến nội tâm của Thuý Kiều, mang đến cho người đọc cái thế giới phong phú, phức tạp, bí ẩn không cùng của trái tim tình yêu. Ngôn ngữ nhân vật với các hình thức đối thoại, độc thoại... được tác giả sử dụng như một phương tiện đắc lực để khám phá, khắc hoạ “con người bên trong”. Lời Thuý Kiều nhờ cậy em vừa trang trọng (cậy, chịu lời, lạy, thưa) vừa gần gũi (chắp mối tơ thừa, mặc em) nói lên được cả tính chất hệ trọng của việc trao duyên, cả sự trông chờ, tin cậy của tình ruột thịt. Lời kể ngắn gọn mà vẫn đủ để Thuý Vân hiểu mối tình sâu nặng (khi gặp, khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề); lời thuyết phục thấm đượm ân tình khiến Thuý Vân không thể và không nỡ chối từ (xin em hãy vì xót tình máu mủ mà thay lời nước non chứ không phải vì chàng Kim là người tài tình khó lòng mà gặp)... Lời lẽ tinh tế, giọng điệu điềm tĩnh tưởng chừng Thuý Kiều đã vượt qua được nỗi đau nhưng đến lúc trao kỉ vật, thì tâm trạng nhân vật lập tức thay đổi. Lời dặn dò em bây giờ đầy những mâu thuẫn, xót xa, tiếc nuối. Đã thiết tha cầu khẩn Thuý Vân chắp mối tơ thừa nhưng lại nói về sự gắn bó giữa em và chàng Kim như một giả thiết bất đắc dĩ: Dù em nên vợ nên chồng; Mai sau dù có bao giờ... Vừa mới khẳng định rằng, chỉ cần trọn nghĩa cùng Kim Trọng thì dẫu phải chết cũng ngậm cười nơi chín suối đã lại hình dung trong tương lai bi thảm mình sẽ hiện về như một hồn ma oan trái: “Hồn còn mang nặng lời thề/ Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”. Kiều vẫn đang trò chuyện cùng Vân mà luôn nói như mình đã thuộc về cõi khác: mất người, người mệnh bạc, người thác oan... Để rồi cuối cùng, nàng lại phải trở về với những day dứt, đau khổ lúc ban đầu “Ôi Kim lang hỡi Kim lang/ Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”... Chỉ trong một đoạn thơ ngắn, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh tâm trạng với rất nhiều cung bậc, trạng thái cảm xúc, nhiều biến động tinh tế. Phan Ngọc đã không hề nói quá khi ông gọi Truyện Kiều là “quyển sách của một ngàn tâm trạng”. Nguyễn Du không chỉ khám phá, tái hiện một quá trình diễn biến tâm lí phong phú, phức tạp mà còn lí giải sự vận động của quá trình ấy bằng “phép biện chứng tâm hồn”. Mở đầu cảnh trao duyên, Thuý Kiều nói năng bình tĩnh, sáng suốt vì nàng ngỡ đã tìm được cách chu toàn khi cậy nhờ em hoàn thành lời nguyện ước. Vậy mà chỉ cần nhìn thấy những kỉ vật, là tiếng nói của trái tim đã lấn át lí trí. Kỉ vật gọi về kỉ niệm, kỉ niệm đánh thức tình yêu, tình yêu trào dâng mãnh liệt cuốn đi tất cả những ảo tưởng về chuyện chắp mối tơ thừa, thay lời nước non, ngậm cười chín suối! Nó buộc nàng phải trở về với thực tại chia lìa, đổ vỡ không thể hàn gắn, không gì bù đắp nổi: đứt gánh tương tư, trâm gãy bình tan, tơ duyên ngắn ngủi, thiếp đã phụ chàng... Nàng có thể trao hết cho em chiếc thoa, tờ mây, phím đàn, mảnh hương nhưng làm sao dứt khỏi lòng mình một tình yêu nồng thắm, sâu sắc tự buổi đầu gặp gỡ? Cuộc trao duyên kết thúc trong đỉnh điểm của nỗi đau: “Cạn lời hồn ngất máu say/ Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng”. Thuý Kiều bất lực trước trái tim yêu thương tha thiết mãnh liệt của chính mình! Và khối tình vẫn còn nguyên vẹn ấy, nàng sẽ phải mang theo trên suốt hành trình đằng đẵng của mười lăm năm đoạn trường: Thấy trăng mà thẹn những lời non sông; Tấm son gột rửa bao giờ cho phai; Nhớ lời nguyện ước ba sinh; Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng... Bàn về sáng tạo của Nguyễn Du, không thể không nói đến nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Tôi vẫn nghĩ đây là bình diện so sánh quan trọng nhất. Nó sẽ mang đến câu trả lời thích đáng cho câu hỏi vì sao một tác phẩm có nguồn gốc “ngoại lai” lại chiếm giữ vị trí đặc biệt như thế trong đời sống văn học, văn hoá của nhân dân Việt Nam. Truyện Kiều đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nhưng có lẽ không thể có một bản dịch nào chuyển tải hết được cái linh diệu của thứ ngôn ngữ mà Nguyễn Du dùng để tạo nên công trình tuyệt mĩ này. Phải đọc Truyện Kiều bằng Tiếng Việt; phải đặt từng từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu... của mấy ngàn câu thơ lục bát uyển chuyển kia trong bầu khí quyển của văn hoá và tâm hồn Việt, mới cảm nhận hết được sáng tạo thiên tài của Nguyễn Du... Chỉ cần lướt qua vài yếu tố ngôn ngữ trong đoạn trích Trao duyên, cũng đã thấy được phần nào thành tựu nghệ thuật vĩ đại đó. Đọc Kim Vân Kiều truyện, có thể dễ dàng nhận thấy thế mạnh của Thanh Tâm Tài Nhân trong việc tạo dựng cốt truyện hấp dẫn với hệ thống chi tiết phong phú, có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn. Có lẽ đây cũng là lí do khiến Nguyễn Du mượn tác phẩm này làm cái bình để rót vào đó những suy ngẫm, trăn trở, khát khao, ước vọng... của riêng mình. Khi thực hiện mục đích đó, Nguyễn Du đã tìm đến một thế mạnh khác – sức mạnh của ngôn ngữ thơ, sự giàu có của tiếng mẹ đẻ. Ông lược bỏ cái thô nhám của ngôn ngữ văn xuôi, dùng khả năng biểu đạt, tính biểu cảm cao độ của từ ngữ thay cho nhiều chi tiết. Chẳng hạn, Thuý Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân lúc bắt đầu trao duyên đã vừa khóc vừa nói (có Thuý Vân trước mặt): “Chàng Kim! Chàng Kim! Trước đây thiếp cố giữ vẹn tấm thân, không chiều ý chàng là sợ trong đêm hợp cẩn, không lấy gì làm tin. Nếu sớm biết có biến ngày nay như thế này thì lúc ấy còn giữ làm chi”(tr 52). Thật khó hình dung một thiếu nữ được nuôi dạy trong nền nếp nho gia lại dễ dàng nói thẳng một vấn đề như thế trước mặt người khác, dù đó là em ruột. Mặt khác, có thật hợp lí không khi để cho những suy nghĩ ấy xuất hiện ngay khi Kiều chưa bán mình xong, chưa phải gánh chịu cái cảnh “Một cơn mưa gió nặng nề/ Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương”? Nguyễn Du đã đưa câu nói kia khỏi cảnh trao duyên và chuyển thành ý nghĩ của Thuý Kiều trong tâm trạng nhục nhã, ê chề, phẫn uất sau khi thất thân với Mã Giám Sinh và diễn đạt bằng những từ ngữ hàm súc, tế nhị: “Biết thân đến bước lạc loài/ Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”... Hoặc chi tiết Thuý Kiều trao cho em kỉ vật được tác giả Kim Vân Kiều truyện miêu tả hai lần, lối tả vẫn nặng về kể việc. Lần đầu Thuý Kiều nói với Thuý Vân: Chị với chàng Kim có một tờ minh ước, một đôi vòng bạc, xin đưa cả cho em, mong em khéo giữ gìn, để làm mối ăn ở về sau”(tr 51). Lần thứ hai, nàng viết trong thư gửi lại cho Kim Trọng: “Một cây hồ cầm, một tập oán khúc và một gói hương trầm để lại. Sau này có lúc chàng cùng em thiếp, vợ chồng đốt hương ngâm vịnh, ca khúc dạo đàn, nếu thấy gió lạnh hiu hiu, khói hương quanh quất thì ấy là hồn thiếp ở đấy.”(tr83). Nguyễn Du gộp cả thành lời Thuý Kiều nhắn nhủ em và sáng tạo kiểu ngôn ngữ đối thoại có khả năng biểu hiện diễn biến tâm trạng: “Chiếc thoa với bức tờ mây/ Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Hai tiếng của chung hàm ẩn bao nhiêu xót xa, tiếc nuối. Duyên trao cho em rồi mà như vẫn muốn “xí phần” cho mình. Từ ngữ và cấu trúc đối của câu thơ (duyên – thì giữ, vật – của chung) gợi liên tưởng đến bàn tay ngập ngừng, lưu luyến, không nỡ xa rời những kỉ vật tình yêu. Tâm trạng ấy càng đậm nét hơn khi Thuý Kiều trao nốt cho Vân kỉ vật của đêm thề nguyền: “Mai sau dù có bao giờ/ Đốt lò hương ấy, so tơ phím này”. Câu thơ sáu tiếng được ngắt thành ba nhịp ngắn và không trọn nghĩa khiến ta có cảm giác như nghe thấy tiếng nghẹn ngào, nức nở của một người muốn nói mà không thốt nổi thành lời. Những từ ngữ bình thường, thậm chí tầm thường như ấy, này bỗng hoá thành phi thường trong câu thơ của Nguyễn Du. Không có chúng, phím đàn, mảnh hương chỉ là đồ vật, có thể thay thế, có thể mua được. Có chúng, đồ vật biến thành kỉ vật thiêng liêng, duy nhất, vô giá... Những từ Hán Việt, những ước lệ, ẩn dụ cổ điển (tương tư, keo loan, quạt ước, chén thề, bồ liễu, trúc mai, dạ đài, trâm gãy bình tan...) song hành một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn cùng lời ăn tiếng nói bình dị, dân dã (giữa đường đứt gánh, chắp mối tơ thừa, mặc em, xót tình máu mủ, vật này của chung, có ngần ấy thôi, bạc như vôi...)... Vì thế, chẳng cần nhiều chi tiết, nhiều lời, tác giả Truyện Kiều vẫn tái hiện được những biến động tinh tế, vô hình của nội tâm; mức độ sâu sắc, mãnh liệt của tình yêu và nỗi đau... Tìm hiểu sơ qua một đoạn trích Trao duyên, đã có thể hiểu vì sao Truyện Kiều của Nguyễn Du có sức rung động mãnh liệt đối với mọi tầng lớp, mọi thế hệ người Việt trong gần ba thế kỉ qua. Và nói theo cách của Hoài Thanh, thì một tác phẩm có khả năng đi sâu vào tâm hồn của một nòi giống cũng sẽ có sức mạnh thấm sâu vào tâm hồn nhân loại. TIẾP CẬN "TRAO DUYÊN" THEO CÁI NHÌN THỜI GIAN NGHỆ THUẬT I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI : Nguyễn Du là một trong những đỉnh cao của nền văn học Việt Nam cuộc đời và sự nghiệp của ông mang nhiều tâm tư sâu sắc quy tụ được những vấn đề xã hội và dự báo nhiều điều cho mai hậu. Việc nghiên cứu về Nguyễn Du không bao giờ kết thúc. Truyện Kiều - tác phẩm bất hủ của ông "tập đại thành" của văn học Việt Nam ngay từ khi mới ra đời đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và từ đó đến nay việc nghiên cứu Truyện Kiều không bao giờ đứt đoạn nó luôn phát triển cùng nghành văn bản học và ngữ văn học. Hơn nữa Nguyễn Du và Truyện Kiều chiếm vị trí không thể thiếu trong chương trình văn học ở trường phổ thông tính cả chương trình văn THCS và THPT Nguyễn Du và Truyện Kiều chiếm một thời lượng lớn. Trong đó Truyện Kiều được học với tư cách tác phẩm và nhiều đoạn trích. Đoạn trích "Trao duyên" là màn đặc biệt diễn tả sâu sắc bi kịch đầu tiên trong cuộc đời đầy bi kịch của Kiều đồng thời thể hiện tập trung nghệ thuật miêu tả nội tâm và tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Vì thế "Trao duyên" là một đoạn trích hay nhưng cũng rất khó tiếp cận nó thu hút những sự tìm tòi khám phá của các nhà nghiên cứu và của giáo viên giảng dạy môn văn. Qua nhiều năm giảng dạy tích lũy chúng tôi mạnh dạn đề xuất một hướng tiếp cận đoạn trích này. II. NHỮNG CON ĐƯỜNG ĐÃ MỞ : Như đã nói ở trên là một đoạn trích tiêu biểu cho ngòi bút của Nguyễn Du trong Truyện Kiều nên "Trao duyên" được nhiều nhà nghiên cứu phân tích và khám phá trên nhiều bình diện. Lê Trí Viễn với bài viết "Trao duyên" trong cuốn "Đến với thơ hay" - NXB Giáo dục -1998 đã phân tích sâu sắc ngôn ngữ nhân vật chỉ ra cách sử dụng từ ngữ độc đáo ý nghĩa của các từ ngữ trong việc Kiều thuyết phục Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim nhằm làm nổi bật cái "sắc sảo mặn mà" của nhân vật nhưng cũng chính vì thế mà bài viết chưa làm nổi bật được diễn biến tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều. Bài viết của Lê Bảo trong "Giảng văn văn học Việt Nam" - NXBGD-1997 - một bài viết rất công phu khám phá sâu sắc về nhiều phương diện nghệ thuật của đoạn trích "Trao duyên" nhằm làm nổi rõ dòng tâm trạng của nhân vật như tác giả kết luận: “ý thức về thân phận của con người trong tác phẩm là kết quả của những yếu tố nghệ thuật kết hợp lại một cách nhuần thấm tự nhiên trong đó có nhịp điệu các thành ngữ việc miêu tả thời gian tâm lý trong cái dòng phát triển biện chứng của những trạng huống tâm hồn" và tác giả Lê Bảo phân tích rất kỹ các yếu tố nghệ thuật như nhịp điệu từ ngữ thành ngữ - tác giả chú ý phân tích làm rõ thời gian tâm lý trong đoạn trích nhưng chỉ chú ý vào phần sau mà chưa chú ý dòng chảy thời gian tâm lý xuất hiện ngay từ đầu đoạn trích chính nó tạo nên nhịp độ chung cho đọan trích cũng như quy định ngôn ngữ hành động của nhân vật trong việc trao duyên. Hơn nữa đây là một bài viết chuyên sâu nên nếu áp dụng bài viết này vào bài giảng trong hai tiết ở lớp với trình độ của học sinh giáo viên sẽ gặp nhiều khó khăn lúng túng giữa việc cân bằng nội dung bài giảng với lượng thời gian lên lớp. Ở sách giáo viên một cuốn sách có tầm định hướng cụ thể chi tiết cho giáo viên trong soạn bài lên lớp cũng viết bài nàykhá rõ ràng chu đáo với mục đích "làm rõ" chủ đề "bi kịch tình yêu tan vỡ" khám phá lôgích trong diễn biến tâm trạng và ngôn ngữ biểu đạt. Bài viết này chia đoạn trích làm hai phần với ba nội dung chủ yếu : nội dung thứ nhất "Mâu thuẫn làm nền cho diễn biến tâm trạng nhân vật". Nội dung thứ hai: "Thúy Kiều nhờ em thay mình trả nghĩa Kim Trọng". Nội dung thứ ba: "Tâm trạng bi kịch của Thúy Kiều”. Như vậy tác giả Nguyễn Lộc chỉ tập trung khám phá tâm trạng nhân vật ở phần thứ hai còn phần đầu của đoạn trích tác giả chỉ tập trung phân tích sức thuyết phục trong lời lẽ của Thúy Kiều khi nhờ Thúy Vân trả nghĩa Kim Trọng. bài viết này phù hợp với nội dung câu hỏi hướng dẫn học bài ở sách giáo khoa. ở sách giáo khoa có ba câu hỏi: Câu hỏi 1 và 2 đòi hỏi học sinh tìm hiểu ý nghĩa của một số từ ngữ thành ngữ trong việc thuyết phục Vân cuả Thúy Kiều. Câu hỏi 3 đòi hỏi phân tích tâm trạng của Thúy Kiều từ câu: "Ngày xuân em hãy còn dài " đến hết đoạn trích Như vậy chúng ta thấy rằng các bài viết đã có những thành công nhất định nhưng về mặt nào đó vẫn có những hạn chế như việc tách riêng hai phần đoạn trích để khám phá sức thuyết phục trong lời lẽ của nhân vật ở phần 1 và khám phá diễn biến tâm trạng ở phần 2. Chưa tác giả nào khám phá đoạn trích từ phía tìm hiểu dòng thời gian tâm lý. chính sự cảm nhận thời gian của nhân vật trong đoạn trích đã quy định cách thể hiện ngôn ngữ hành động cũng như thể hiện diễn biến tâm trạng nhân vật. Vì thế để khám phá sâu sắc diễn biến tâm lý nhân vật chúng tôi đề xuất khám phá đoạn trích từ cái nhìn thời gian nghệ thuật. III. CƠ SỞ ĐỀ RA GIẢI PHÁP Nghiên cứu Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những vấn đề được các nhà khoa học chú trọng từ trước đến nay trong đó có hai công trình lớn rất có giá trị là: "Phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều" của Phan Ngọc và "Thi phápTruyện Kiều" của Trần Đình Sử; hai tác giả này đã nghiên cứu nhiều phương diện khác nhau của Truyện Kiều trong đó có sự tập trung khám phá thời gian nghệ thuật trong tác phẩm. Qua nghiên cứu Phan Ngọc khẳng định Truyện Kiều có “hai thời gian" "một thời gian khách quan của thế giới và một thời gian nội tâm trong lòng từng nhân vật” ông còn nói "thời gian nghệ thuật này không được đo bằng kim đồng hồ mà được đo bằng xúc cảm con tim”. Ông còn chỉ ra sự cảm nhận thời gian cụ thể ở nhân vật Thúy Kiều: "Thế giới nội tâm tách ra thành ba thời gian: sững sờ trước hiện tại hồi tưởng tới quá khứ và lo lắng cho tương lai". Trong "Thi pháp Truyện Kiều " Trần Đình Sử dành một mục lớn để khám phá nhiều phương diện của hình tượng thời gian ông đã chỉ ra Truyện Kiều có "một dòng thời gian tâm lý" đó là sáng tạo độc đáo vượt xa truyện nôm đương thời của Nguyễn Du. Dòng thời gian tâm lý xuất hiện ở tất cả các nhân vật nhưng rõ nhất ở Thúy Kiều: "thời gian của Kiều là do hoạt động có ý thức của Kiều tạo ra trong tương quan với hoàn cảnh”. Vì thế trước mỗi hoàn cảnh cảnh ngộ Kiều lại có sự cảm nhận thời gian theo một cách riêng và dòng thời gian đó bộc lộ rõ thế giới nội tâm của Kiều. Sự cảm nhận thời gian của Kiều rất phong phú và đa dạng tùy vào sự biến thái đổi thay tâm trạng của nàng trước mọi cảnh huống. Như vậy chúng ta thấy các học giả đã khẳng định trong Truyện Kiều có một dòng thời gian tâm trạng dòng thời gian đó được xây dựng trên sự cảm nhận ý thức của nhân vật trong mối quan hệ với hoàn cảnh vì thế muốn khám phá thế giới nội tâm nhân vật ta có thể dựa vào khám phá hình tượng thời gian nghệ thuật mà tác giả xây dựng trong tác phẩm. Những thành tựu của ngành thi pháp học cộng với những nghiên cứu cụ thể của các giáo sư trong hai công trình trên đã trang bị cho chúng tôi phương tiện để đi vào khám phá những biểu hiện của thời gian nghệ thuật trong đoạn trích "Trao duyên”. Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy thế giới nội tâm của Kiều được bộc lộ rõ qua việc nhà thơ xây dựng một dòng thời gian một cách đặc biệt đó là một thời gian hiện tại dồn nén thắt ngặt trong cảnh huống đầy bi kịch một thời gian đồng hiện trong sự hoảng loạn của nội tâm vì tình yêu tan vỡ. IV. ĐỀ XUẤT HƯỚNG TRIỂN KHAI BÀI GIẢNG “TRAO DUYÊN” 1. Lưu ý khi dạy phần tiểu dẫn: Bên cạnh việc xác định vị trí đoạn trích trong toàn bộ bố cục kết cấu của tác phẩm như sách giáo khoa đã trình bày chúng tôi còn chú ý giúp học sinh xác định sự kiện trao duyên xảy ra trong giai đoạn nào của cuộc đời Kiều để xác định rõ tâm lý nhân vật lúc đó đồng thời định hướng cho học sinh thấy đoạn trích tập trung miêu tả tâm trạng nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại: Nhân vật tự suy ngẫm tự nếm trải giãi bày cảm nhận trước thực tế phũ phàng nên thế giới nội tâm đó càng sâu sắc chân thực. Từ những suy nghĩ đó chúng tôi thử đề xuất hệ thống câu hỏi trong phần này: Câu hỏi : Dựa vào phần tiểu dẫn ở SGK và những hiểu biết về Truyện Kiều em hãy nêu ngắn gọn vị trí đoạn trích? Yêu cầu: Đoạn trích nằm phần đầu tác phẩm từ câu 724 đến câu 756 sau một loạt những biến cố lớn: Kiều phải chia tay để Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú gia đình Kiều bị vu oan Kiều phải từ bỏ tình yêu bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha và em đây là đêm cuối cùng trước ngày ra đi Kiều tâm sự và nhờ Vân trả nghĩa chàng Kim. Câu hỏi Những biến cố này xảy ra trong giai đoạn nào của đời Kiều?ở Kiều nảy sinh tâm lý gì? Yêu cầu: Sự kiện này xảy ra khi Kiều chỉ mới "Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê" (khoảng 15 16 tuổi) Kiều còn rất ngây thơ trong sáng chưa có va chạm trong cuộc đời chưa hề có sự chuẩn bị chống đỡ những nghiệt ngã của số phận tai họa lúc này tạo nên ở Kiều một cú sốc tâm lý lớn với những biến thái nội tâm vô cùng phức tạp. Câu hỏi : Truyện Kiều là tác phẩm tự sự nhưng đoạn trích lại sử dụng ngôn ngữ độc thoại dụng ý của tác giả ? Yêu cầu: Để nhân vật tự độc thoại tức là để cho nhân vật tự suy ngẫm tự nếm trải tự giãi bày thế giới nội tâm của mình thì thế giới nội tâm đó hiện lên một cách chân thực và sâu sắc nhất. Từ đó chúng ta rút ra cho học sinh thấy đoạn trích "Trao duyên" chủ yếu thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật khám phá đoạn trích tức là đi sâu khám phá diễn biến tâm lý đó. Đồng thời để thấy rõ tấm lòng cũng như tài năng của Nguyễn Du trong việc miêu tả tâm lí nhân vật ở Truyện Kiều. 2. Phân tích đoạn trích : câu hỏi:Dựa vào sự tìm hiểu kết cấu và bố cục đoạn trích em hãy đề xuất cách phân đoạn để phân tích? Theo dòng chảy tâm trạng của nhân vật trong đoạn trích chúng tôi chia đoạn trích làm hai phần để tìm hiểu phần thứ nhất từ đầu cho đến câu: "Duyên này thì giữvật này của chung" phần thứ hai: Tiếp đó cho đến hết. a. Phần thứ nhất: Có thể nói màn "Trao duyên" diễn ra toàn bộ ở phần này ở đây tác giả đã xây dựng một bối cảnh thời gian đặc biệt. Bối cảnh thời gian làm nổi bật diễn biến tâm trạng của nhân vật vì thế để phân tích diễn biến tâm trạng của Kiều ở đây chúng tôi đề xuất những câu hỏi như sau: Câu hỏi: Kiều tâm sự với Vân ở thời điểm nào? Thời điểm đó tác động gì đến nhân vật? Yêu cầu : Kiều tâm sự với Vân vào đêm cuối cùng trước ngày Kiều theo Mã Giám Sinh từ bỏ gia đình từ bỏ mối tình với chàng kim ra đi đây là khoảng thời gian ngắn ngủi mà kiều còn được ở với gia đình. Sự thắt ngặt của thời gian đó tạo nên sự dồn nén cảm xúc đậm đặc trong mỗi tích tắc của thời gian có sự vận động của nội tâm của ý thức với những biến hóa khôn lường bởi chỉ có một thời điểm duy nhất một con người duy nhất có khả năng nhận lời gửi gắm cái tài sản quý giá nhất cái hi vọng cuối cùng của Kiều. Tính chất thắt ngặt dồn nén của bối cảnh thời gian đó đã tạo nên một cơn lốc nhỏ làm cồn lên những suy nghĩ những thổn thức thúc đẩy nhân vật hành động. Sau những đắn đo: “Hở môi ra cũng ngượng ngùng/ để lòng thì phụ tấm lòng với ai” Kiều quyết định trao duyên cho em Câu hỏi : Việc Kiều trao duyên cho em thể hiện rõ nhất ở những câu thơ nào trong đoạn trích? Yêu cầu: màn trao duyên diễn ra trọn vẹn ở phần thứ nhất của đoạn trích và hoạt động trao duyên cũng chỉ diễn ra ở những câu thơ đầu và cho đến câu thơ "Duyên này thì giữ vật này của chung" Những câu thơ thể hiện một sự kiện có một không hai trong cuộc đời Kiều bộc lộ sâu sắc nỗi đau của thân phận con người thân phận tình yêu trong xã hội xưa. Câu hỏi : Màn trao duyên diễn ra qua trình tự như thế nào? Yêu cầu : - Trong 4 câu thơ đầu ngôn từ và hành động của Kiều vô cùng đặc biệt * Câu thơ mở đầu có hai từ em cậy *Có sự phi lý trong thái độ trân trọng quá đáng với Thúy Vân của Kiều ở hành động "lạy thưa " Câu hỏi: Em có nhận xét gì về lời lẽ hành động của Kiều đối với Thúy vân trong màn trao duyên? vì sao Kiều lại hành động như thế? Yêu cầu: Lời nói hành động được Kiều thể hiện liên tiếp dồn dập vội vàng. Hành động vội vàng này của Kiều trước hết bắt nguồn từ việc Kiều ý thức sâu sắc hoàn cảnh của mình trong hiện tại: Tình yêu vô cùng mãnh liệt khát khao hạnh phúc thì vô biên mà thời gian để yêu thương thì ngắn ngủi chật hẹp. Sóng gió cuộc đời khủng khiếp ập tới bất cứ lúc nào. Chính ý thức thời gian này đã làm cho Kiều phải hành động vội vàng. Kiều nói với em bằng những lời lẽ khẩn thiết nhất cảm động nhất “Cậy em em có chịu lời . Tất cả sự trông đợi sự ký thác gửi cả vào từ “cậy” nàng khẩn khoản van nài em bằng những hành động tôn kính quá mức : "lạy thưa ...làm những điều đó Kiều muốn Vân không thể chối từ và Kiều có thể trả nghĩa chàng Kim trong muôn một. Hơn nữa nhịp độ gấp gáp vội vàng trong những câu thơ còn thể hiện tinh thần tranh chấp với số mệnh của Kiều; bởi ngay trước đó Kiều đã có những kinh nghiệm xương máu về những phi lý của cuộc đời: vừa nhận lời yêu Kim Trọng “thề hoa chưa ráo chén vàng” Kim Trọng đã phải ra đi. Gia đình đang hạnh phúc “êm đềm trướng rủ màn che” cha mẹ đã : “rường cao rút ngược dây oan” tai họa có thể ập tới bất cứ lúc nào con người không thể chống đỡ nổi. Kiều phải hành động tranh chấp với thời gian để cứu lấy tình yêu của mình và Kim Trọng. Câu hỏi: em thử so sánh việc Kiều trao dyên với những việc làm khác của nàng trước và sau này? Yêu cầu: Những quyết định trong cuộc đời đều được Kiều cân nhắc suy nghĩ rất chín chắn. Khi quyết định bán mình nàng đã “để lời thệ hải minh sơn/làm con trước phải đền ơn sinh thành” sau những đắn đo dằn vặt khủng khiếp và sau này cũng thế bao giờ kiều cũng phải suy nghĩ rất nhiều nhưng ở đây dường như Kiều không hề so đo tính toán nàng nghĩ đến và làm rất mau chóng. Có lẽ nàng biết mình không thể dùng dằng được nữa thời gian không cho phép sáng ra nàng đã phải lên đường phải từ bỏ tất cả. Câu hỏi: Trong bốn câu cuối của phần thứ nhất Kiều đã thuyết phục em như thế nào? (Bốn câu cuối từ: "Ngày xuân em hãy còn dài” cho đến “ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây” ) Yêu cầu: Để thuyết phục em Kiều đã dùng những lời lẽ thật đặc biệt. Trong lời của nàng có một loạt thành ngữ nói lên mối quan hệ thân thiết ruột rà như: tình máu mủ/ lời nước non Hay là những thành ngữ chỉ cái chết: thịt nát xương mòn/ ngậm cười chín suối Đó là lời lẽ có sức mạnh lay động tình cảm lòng trắc ẩn của con người nhất là những người thân. Kiều đã nói với em bằng tất cả sự đau đớn chua xót cho thân phận mình. Lời của Kiều như là những lời trăng trối nàng viện dẫn cả tình máu mủ ruột rà cả cái chết thê thảm để thuyết phục em. Kiều hiểu để Vân nhận lời cũng rất khó khăn bởi đây là một việc làm thay đổi cả đời Vân là gánh nặng mà Vân phải mang suốt cả cuộc đời. Nàng vô cùng thông cảm cho em nhưng nàng cũng không còn cách nào khác nghĩa chàng Kim quá nặng mà hoàn cảnh của Kiều lúc này thì quán éo le. Câu hỏi :Lời lẽ thái độ và hành động của Kiều ở đây cho ta thấy điều gì ? Yêu cầu: Kiều đã quyết định dứt khoát và tìm mọi cách để thuyết phục Thuý Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim bởi Kiều ý thức sâu sắc về hạn chót của thời gian Kiều không thể làm gì khác để cứu tình yêu. Trong ý thức nàng đây là hành động duy nhất mà nàng có thể làm cho tình yêu cho chàng Kim. Cho nên nàng đã dùng tất cả nỗi thống khổ của đời mình và những lời lẽ thuyết phục nhất để thuyết phục Vân. Câu hỏi: bên cạnh việc thuyết phục Thuý Vân lời nói của Kiều còn thể hiện điều gì? Yêu cầu: Bên cạnh đó lời của Kiều còn cho ta thấy sự cảm nhận của nàng về bi kịch số phận bi kịch tình yêu một cách sâu sắc. Trong từng câu từng chữ nàng nói với em có sự ý thức sâu sắc về thân phận của mình đó là sự hiển diện của một "mệnh bạc" của cái chết "Thịt nát xương mòn". Nhưng đặc biệt nhất ở đây lời của nàng thể hiện nỗi đớn đau tột cùng trước sự tan vỡ của tình yêu. Nàng nhắc lại kỷ niệm tình yêu thật tha thiết (ngay khi đang tìm cách trao duyên cho em). Nàng nhớ như in phút dây gặp gỡ hẹn thề khi gặp chàng Kim khi ngày quạt ước khi đêm chén thề "đó là phút dây đẹp nhất đời nàng. Thế mà tình yêu đó thật ngắn ngủi những tai hoạ khủng khiếp đổ xuống bất ngờ không thể chống đỡ “sóng gió bất kì” “giữa đường đứt gánh tương tư” tình yêu phút chốc nát tan. Câu hỏi: để diễn tả nỗi đau này của Kiều tác giả sử dụng những phương tiện nghệ thuật nào? Đoạn thơ có điệp ngữ “khi gặp khi ngày khi đêm” âm điệu thơ luyến láy nhịp điệu thơ gấp gáp hình ảnh thơ tương phản gay gắt đã diễn giải ý thức sâu sắc của Kiều về sự ngắn ngủi mong manh của hạnh phúc tình yêu giữa cuộc đời dâu bể. Tất cả những điều này làm nổi bật cái bi kịch oan trái của cuộc đời Kiều: Khát khao hạnh phúc thì vô biên hiện thực đời sống tàn nhẫn khủng khiếp đã biến hạnh phúc thành chốc lát tất cả chỉ còn là sự xót xa nuối tiếc khôn nguôi. Câuhỏi: Sau những lời thuyết phục em việc làm tiếp theo của Kiều là gì? Yêu cầu: việc làm tiếp theo của Kiều là trao kỉ vật cho em Câu hỏi: cảm nhận của em khi nghe Kiều dặn dò Vân lúc trao kỷ vật? Yêu cầu: Kiều trao kỷ vật cho em chiếc thoa bức tờ mây những vật minh chứng cho tình yêu của Kim Kiều bây giờ nàng đưa lại cho em thế là mọi việc đã kết thúc Vân đã nhận lời việc đền ơn Kim Trọng đã xong. Thế mà Kiều vẫn không thể thanh thản bởi duyên đã trao nhưng tình thì không thể dứt nên kỷ vật đã trao mà nàng vẫn cố níu kéo bằng lời dặn “vật này của chung”. Câu thơ không hề có một từ ngữ nào miêu tả trực tiếp nội tâm nhân vật nhưng sự dùng giằng khi trao kỷ vật của Kiều lại gợi dậy cho người đọc những cảm nhận về tâm trạng tiếc nuối vò xé của nàng. Như vậy ở phần thứ nhất trong đoạn trích này tác giả không chỉ thể hiện sự "sắcsảo" của Kiều trong việc thuyết phục Thúy Vân trả nghĩa chàng Kim. Nếu chỉ là thuyết phục Vân thì bốn câu đầu đã hoàn thành viên mãn. Ở đó có cả việc trao gửi có người nhận lời gửi gắm có cả hoàn cảnh éo le "giữa đường đứy gánh tương tư" buộc Kiều phải nhờ cậy nhưng ở đây Kiều giãi bày rất dài dòng hành động lời nói của Kiều không chỉ chịu sự chỉ đạo của lý trí mà còn do những cảm nhận về cảnh ngộ của bản thân trong hiện tại đã tạo ra những khủng hoảng nội tâm sâu sắc. Nên những nguồn cơn trong lòng nàng trào dâng không kìm giữ nổi. Chúng ta thấy trong đoạn thơ xuất hiện hai dòng chảy: một dòng chảy của lý trí và một dòng chảy của tâm trạng. Mạch ngầm đầy dư ba đó biểu hiện sâu sắc cái nhìn cảm thông nhân đạo của Nguyễn Du trước bi kịch cuộc đời Kiều. Đồng thời việc khám phá được những rung động tinh vi trong tâm hồn nhân vật như thế chứng tỏ nhà thơ là một kì tài trong việc phân tích nội tâm nhân vật. b.Phần thứ hai: Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh thấy được diễn biến tâm trạng của nhân vật từ phần thứ nhất đến phần thứ hai bằng câu hỏi có tính chất gợi ý như sau : Câu hỏi : Nếu phần thứ nhất tâm trạng của Kiều chủ yếu được thể hiện qua sự cảm nhận cái hiện tại ngắn ngủi thì ở phần này tâm trạng của Kiều được biểu hiện qua dòng thời gian nghệ thuật như thế nào ? Yêu cầu: ở phần thứ nhất Kiều phải dùng lý trí kìm nén cảm xúc để trao duyên cho em thì lúc này việc vì người đã xong lý trí không còn đủ sức kìm giữ được cảm xúc Kiều rơi vào sự khủng hoảng tâm lý cực độ. Tâm trạng đó của Kiều được biểu hiện bằng những lời nói hành động của Kiều trong sự cảm nhận thời gian đặc biệt đó là thời gian đồng hiện quá khứ hiện tại tương lai. Câu hỏi : Từ sự kiện trao duyên Kiều cảm nhận hiện tại của mình như thế nào? Yêu cầu : Khi duyên đã trao tình yêu vĩnh viễn tan vỡ hạnh phúc trở thành ảo vọnghiện tại đã trở thành thời điểm phân chia ngã ba đường của số phận để nhân vật quay nhìn vào quá khứ soi rọi vào tương lai. Soi rọi vào tương lai Kiều nhìn thấy hạnh phúc của Thúy Vân khi đã "nên vợ nên chồng" với chàng Kim và Kiều cũng thấy thân phận mình đã trở thành kẻ "mệnh bạc" kẻ bị "mất người" vì thế trong Kiều trào lên niềm tự thương khắc khoải xót xa. Câu hỏi : Đồng thời với việc nhìn thấy tương lai đó trong Kiều có diễn biến tâm lý như thế nào? Bộc lộ tâm trạng gì ? Yêu cầu : Từ hiện tại cay đắng ( mất tình yêu) hình dung một tương lai bất hạnh khi đối sánh số phận mình với duyên tình của Thuý Vân Kiều quay về tìm đến với tình yêu bằng kỷ niệm của ngày gặp gỡ hẹn thề "phím đàn với mảnh hương nguyền”nhưng tất cả đã không còn. Mọi việcđã trở thành quá khứ hai từ "ngày xưa" đã đẩy lùi cái kỷ niệm êm đềm ngày nào vào quá khứ xa xôi vời vợi (mặc dù tình yêu Kim - Kiều vừa mới thề hoa chưa ráo chén vàng” những sự biến trong gia đình Vương ông xảy ra gần như đồng thời với việc Kim Trọng về Liêu Dương). Cái ngày nay phút chốc đã là cái ngày xưa cả "phím đàn" cả "lò hương " đêm thề thốt những gì đẹp nhất quý giá nhất đã hun hút xa xôi chìm vào bóng tối. Kiều trở về quá khứ tưởng tìm được nơi an ủi nhưng kỷ niệm lại là nhát dao cứa mạnh vào tim đẩy nàng tới sự hoảng loạn nàng chạy trốn kỷ niệm tìm đến với tương lai. Câu hỏi : Trước mắt Kiều hiện lên một tương lai như thế nào ? Yêu cầu : Trước mắt Kiều hiện lên một tương lai thật hãi hùng nàng nhìn thấy số phận của mình nơi mai hậu thật là thê thảm nàng đã là người của thế giới bên kia linh hồn nàng vật vờ theo lá cây ngọn cỏ trở về mang theo niềm tiếc nuối khắc khoải hồn còn mang nặng lời thề " nhưng tình yêu bất diệt của nàng không còn chỗ trong cuộc sống hiện thực. Cũng lò hương ấy" tơ phím này" nhưng người so tơ đốt lò không còn là Kiều cũng không còn là Kim của ngày xưa. Sự trở về của Kiều chỉ còn niềm hy vọng duy nhất là sự cảm thông của người ngày xưa “rưới xin chén nước cho người thác oan” Kiều ví mình như chàng Trương Chi thủa nào mang nặng khối tình xuống Tuyền đài chỉ có sự thấu hiểu của người ngày xưa mới có thể hoá giải nỗi oan tình nàng khẩn cầu niềm an ủi để xoa dịu nỗi đau. Vậy mặc dù duyên đã trao nghĩa chàng Kim đã trả nhưng Kiều không hề thanh thản sự tan vỡ oan khuất của tình yêu làm nàng đau đớn không cùng hồn nàng không thể về nơi siêu tịnh nàng chỉ hy vọng mai hậu Kim Trọng cảm thông may ra nỗi oan thác này mới được giải tỏa. Câu hỏi: em có nhận xét gì về dòng thời gian ở đây? Yêu cầu: Dòng thời gian ở đây không tuân theo sự chảy trôi của thời gian khách quan bên ngoài mà nó có những nhịp độ hoàn toàn khác: có sự hồi hoàn giữa thời gian hiện tại quá khứ tương lai trong một khoảnh khắc ngắn của cả cuộc đời. Giọng thơ cũng thay đổi hình ảnh thơ chập chờn ma mị thời điểm không xác định (mai sau bao giờ) không khí linh thiêng (đốt lò hương so tơ phím).Tất cả nói lên tâm trạng khổ đau khủng hoảng của nhân vật. Sự đối lập găy gắt giữa ước vọng và hiện thực cuộc sống đã làm cho Kiều rơi vào tột cùng bi kịch dẫn tới sự khủng hoảng tâm lý dữ dội. Câu hỏi: Nhận xét của em về nghệ thuật miêu tả nội tâm của nhà thơ? Yêu cầu: Xây dựng dòng thời gian tâm lý này Nguyễn Du đã làm nổi bật thế giới nội tâm đầy mâu thuẫn của Kiều. Một mặt nàng muốn trao duyên cho em để chàng Kim đỡ đau khổ một mặt nàng không dứt nổi mối tình tuyệt đẹp của mình và khi không thể giữ nổi tình yêu nàng đau đớn đến hoảng loạn. Nàng gần như mất hết ý thức về không gian thời gian. Vì thế dòng thời gian ở đây không tuân theo thời gian khách quan mà nó có một nhịp độ riêng thẫm đẫm cảm xúc tâm trạng. Dùng dòng thời gian đặc biệt này nhà thơ đã mổ xẻ tâm trạng nhân vật một cách chân thực nhất những biến đổi tinh vi của tâm hồn được lý giải thật sâu sắc tài tình. Trong sự hoảng loạn khi tình yêu đã mất Kiều chìm vào một dòng thời gian ảo Kiều như nửa tỉnh nửa mê đang nói chuyện cùng Vân nàng bỗng như nói chuyện với mình nàng đối diện một thực tế đớn đau: Trâm gãy gương tan Tơ duyên ngắn ngủi Câu hỏi : Tâm trạng của Kiều được thể hiện rõ nhất qua từ ngữ nào? Yêu cầu: Từ “bây giờ” như một cái mốc oan nghiệt xẻ cuộc đời Kiều thành hai nửa. Một nửa trong quá khứ êm đẹp một nửa là hiện tại bi thương. Cái giới hạn chia đời Kiều thành hai nửa đó chính là bi kịch trao duyên mà Kiều vừa thực hiện xong. Cái“bây giờ” trở thành bản lề khép mở hai thế giới của đời Kiều: một quá khứ “êm đềm trướng rủ màn che” một tương lai “mệnh bạc” hồn vật vờ theo lá cây ngọn cỏ vì ôm mối oan tình không dứt.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan