Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Skkn 1516 toán 6

.DOC
24
150
144

Mô tả:

"Một vài kinh nghiệm giúp học sinh yếu kém lớp 6 học tốt môn Toán tại trường PTDT Nội trú Mộc Châu”
MỤC LỤC Néi dung Môc lôc Danh môc ch÷ c¸i viÕt t¾t Trang 1 2 1- Đặt vấn đề 3 2 - Giải quyết vấn đề 5 2.1- Cơ sở lí luận. 5 2.2- Cơ sở thực tiễn 7 2.3 - Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 9 2.4 - Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 19 3 - KÕt luËn 20 23 Tµi liÖu tham kh¶o danh môc c¸c ch÷ c¸i viÕt t¾t - THCS : Trung häc c¬ së - PPDH : Ph¬ng ph¸p d¹y häc - PPDHTC: Ph¬ng ph¸p d¹y häc tÝch cùc 1 - HS: Häc sinh - GV: Gi¸o viªn 1 - ĐẶT VẤN ĐỀ Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhiều quốc gia trên thế giới đã đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình phát triển nhờ sớm coi trọng vai trò của giáo dục và đào tạo. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn thế hệ trẻ “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” (HCM toàn tập, 1995, tập 4, tr33). Chất lượng giáo dục luôn luôn là điều trăn trở đối với các nhà quản lý giáo dục nói chung cũng như đối với người giáo viên nói riêng. Trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực hiện các cuộc vận động lớn như : "Hai không"," Không để học sinh ngồi nhầm lớp", "Mỗi thầy cô giáo là một 2 tấm gương tự học và sáng tạo". Trong mỗi nhà trường, điều đáng quan tâm nhất chính là chất lượng giáo dục. Chất lượng giáo dục chính là thước đo cho mỗi nhà trường. Một trường học có ít học sinh giỏi nhưng không còn học sinh yếu kém thì chưa đáng tự hào nhưng có thể yên tâm về chất lượng; trường có học sinh khá giỏi nhưng còn học sinh yếu, kém thì đúng là tồn tại điểm yếu kém đáng để cho người làm công tác giáo dục đau đầu. Bồi dưỡng học sinh khá giỏi thường dễ dàng hơn so với phụ đạo học sinh yếu vì đối tượng để bồi dưỡng đã có sẵn gốc kiến thức, kĩ năng, chỉ cần được gợi ý đúng phương hướng là các em sẽ phát huy sự sáng tạo. Ngược lại, học sinh yếu kém lại hổng nhiều kiến thức, thiếu kỹ năng hoặc đạt được kiến thức kỹ năng nhưng không bền vững. Nhà trường không còn học sinh yếu kém sẽ dễ dàng nâng cao chất lượng học sinh đặc biệt là nâng cao được chất lượng học sinh khá giỏi và ngược lại, trường học còn học sinh yếu kém thì trước tiên phải nâng số học sinh yếu, kém lên được học lực trung bình mới có được sự yên tâm để bồi dưỡng học sinh khá, giỏi. Thực tế cho thấy vấn đề học sinh yếu kém ở các bộ môn luôn tồn tại trong tất cả các cấp học, khối học do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Trong đó môn toán không phải là ngoại lệ. Môn Toán có một vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Là bộ môn có tính quyết định đến chất lượng học tập các bộ môn khác, góp phần tạo điều kiện cho HS phát triển nhân cách, kiến tạo tri thức và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo. Hơn nữa chương trình toán THCS là những viên gạch đặt nền móng đầu tiên cho cả quá trình học tập sau này. Bậc trung học cơ sở với môi trường học tập khác biệt khiến học sinh lớp 6 mới chuyển cấp gặp rất nhiều khó khăn trong việc thích nghi. Môn toán 6 là bộ môn khoa học tự nhiên rất quan trọng đối với học sinh trong quá trình học ở cấp trung học cơ sở. Vậy làm thế nào để học sinh yếu kém không tồn tại? Làm thế nào để thực hiện đúng nội dung, tinh thần của cuộc vận động " Hai không" mà đặc biệt là nội dung " Không để học sinh ngồi nhầm lớp", góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, giảm dần số học sinh yếu, đáp ứng nhu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện 3 nay đây là câu hỏi vẫn làm trăn trở của nhiều giáo viên cũng như cán bộ quản lý nhà trường. Với mong muốn tìm được một phương pháp tối ưu nhất để trong quỹ thời gian cho phép hoàn thành được một hệ thống chương trình qui định, nhằm lấp đầy các chỗ hổng kiến thức và từng bước nâng cao thêm về mặt kỹ năng trong việc giải các bài tập Toán cho học sinh. Từ đó phát huy, khơi dậy khả năng sử dụng hiệu quả kiến thức vốn có của học sinh, đồng thời thu hút, lôi cuốn các em ham thích học môn toán, đáp ứng những yêu cầu về đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học hiện nay. Với mục tiêu nâng cao chất lượng dạy học môn toán ở trường PTDT Nội trú Mộc Châu và qua thực tế dạy học, qua các buổi phụ đạo học sinh yếu kém do nhà trường phân công, tôi đã tìm tòi áp dụng một số giải pháp bước đầu đem lại thành công. Vì thế tôi chọn đề tài: "Một vài kinh nghiệm giúp học sinh yếu kém lớp 6 học tốt môn Toán tại trường PTDT Nội trú Mộc Châu” 2 - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2.1- Cơ sở lí luận. Học sinh như thế nào thì được coi là học lực yếu? Là những HS bằng kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của bản thân mình, dưới sự hướng dẫn của GV không tự giải quyết được những mnau thuẫn trước mắt để tự chiếm lĩnh tri thức của bài học, hoặc bị hụt hẫng, chậm chạp trong vận dụng các kiến thức kỹ năng cơ bản phải có ở HS để giải quyết một bài tập hay một yêu cầu được đặt ra trong quá trình dạy và học. Xuất phát từ khái niệm đó tôi cho rằng bất kỳ ở khối lớp nào cũng có thể có HS yếu kém. Học sinh yếu kém về môn toán là những học sinh có kết quả về môn toán thường xuyên dưới mức trung bình. Do đó việc lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng cần thiết đối với những học sinh này tất yếu đòi hỏi tốn nhiều công sức và thời gian hơn so với những học sinh khác. 4 Giải pháp phụ đạo kiến thức cho học sinh yếu kém bộ môn Toán có mục đích nhằm giúp cho học sinh xác định nội dung kiến thức đã tìm hiểu một cách chính xác mà trong giờ học vì một lí do nào đó học sinh chưa nắm bắt được. Học sinh khi đã tiếp thu, vận dụng được kiến thức bài học sẽ hình thành sự hứng thú, say mê với môn học từ đó xác định cho mình kế hoạch học tập, phương pháp tự học, tự nghiên cứu, có tính độc lập cao trong tư duy nhận thức sẽ thúc đẩy học sinh học tập tiến bộ …Trên cơ sở đó giáo viên đề xuất thêm một số kiến nghị sư phạm nhằm thực hiện tốt hơn nữa nội dung giáo dục toàn diện học sinh . Phụ đạo kiến thức cho học sinh yếu kém là giáo viên phải bổ sung được những “lỗ hổng” kiến thức cho học sinh (chủ yếu là những kiến thức có trong sách giáo khoa Toán học) để giải quyết, để giành lại kiến thức mà các em chưa lĩnh hội hết trong tiết dạy chính trên lớp. Từ đó học sinh có thể hòa nhập theo kịp với các bạn trong tiết học đang diễn ra trên lớp . Muốn làm tốt hoạt động này thì bản thân giáo viên cần phải nắm bắt chính xác và đánh giá được mức độ kiến thức đọng lại ở mỗi học sinh trong mỗi tiết dạy để chuẩn bị lên kế hoạch phụ đạo, thiết kế nội dụng tiết phụ đạo sao cho có hiệu quả nhất, muốn vậy thì cần phải biết rõ căn cứ, hiểu và kết hợp giải quyết được các vấn đề sau: - Tìm hiểu tại sao học sinh sợ, chán, học yếu kém học môn Toán học và tìm cách giải tỏa tâm lí này ở một số em. - Hướng dẫn học sinh tự đánh giá hiểu biết của bản thân về môn học và tự rèn luyện ý thức học tập. - Giáo viên xác định được khối lượng kiến thức đối với từng bài học cụ thể cho đối tượng học sinh yếu kém, để đề ra nội dung, hình thức và phương pháp dạy thích hợp nhất. Như vậy cần ở học sinh phải hoàn toàn tự giác cao trong suy nghĩ và hành động, tích cực phối hợp với giáo viên, có suy nghĩ, cân nhắc kĩ lưỡng những thông tin nhận được để “ vá lại lỗ hổng kiến thức” và phản hồi lại kiến thức một cách chính xác, khoa học nhất. Muốn vậy giáo viên là người rất quan trọng cần phải có các hướng dẫn cụ thể để giúp học sinh . 5 Bên cạnh việc bồi dưỡng học sinh khá giỏi thì việc Phụ đạo cho học sinh yếu kém là một hoạt động bình thường và không thể thiếu được trong bất kỳ trường THCS nào. Đây chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của người thầy, của nhà trường để góp phần giúp cho các học sinh không theo kịp bạn bè có thể nắm bắt được những kiến thức cơ bản nhằm lấp lỗ hổng kiến thức của bản thân. Trong đơn vị trường học việc tổ chức các lớp học phụ đạo cho học sinh yếu kém là việc làm thường xuyên chứ không phải chỉ là phong trào thi đua hoặc để đối phó với một đợt thi hoặc kiểm tra. Trong những năm gần đây việc đổi mới dạy học môn toán 6 luôn là vấn đề quan trọng nhất của cấp học THCS. Vì vậy khi giảng dạy những tiết toán trên lớp là rất quan trọng ngoài việc triển khai kiến thức cơ bản cho học sinh còn phải quan tâm đến sự tiếp thu kiến thức của đối tượng trung bình và yếu trong lớp làm cho các em này hiểu bài và không có tư tưởng sợ học, giáo viên cần bồi dưỡng lấp lỗ hổng kiến thức cho các em không chỉ trong các giờ phụ đạo mà ngay trong giờ học chính khóa đẻ các em này nắm được kiến thức cơ bản vững vàng, từ đó tạo cho các em niềm say mê về môn Toán, biết hướng cho học sinh tìm tòi cách giải ngắn gọn, rõ ràng chính xác để các em khắc sâu kiến thức vận dụng kiến thức đó áp dụng giải bài tập. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin được trình bày một số nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng dạy học còn yếu kém và một số biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học môn Toán học 6 ở trường PTDT Nội Trú Mộc Châu hiện nay. 2.2 - Cơ sở thực tiễn. Trường PTDT Nội trú Mộc Châu thành lập từ năm 1970. Đối tượng học sinh vào trường học 100% các em là học sinh dân tộc thiểu số vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh, nằm trong quy hoạch đào tạo cán bộ của huyện. Đặc điểm riêng biệt của trường là các em có học bổng, ăn ở sinh hoạt nội trú ngay tại trường trong thời gian theo học; Trường PTDT Nội trú Mộc Châu nói riêng; cũng như các trường PTDT Nội trú nói chung nằm trong hệ thống GD phổ thông, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà trường phổ thông mà trong luật GD và 6 trong điều lệ trường phổ thông quy định. Tổ chức dạy học kiến thức văn hóa, giáo dục nhân cách, đạo đức, kỹ năng sống, rèn luyện có sức khỏe tốt, biết lao động giỏi, biết tổ chức và tham gia các hoạt động xã hội và giữ gìn truyền thống bản sắc dân tộc của mình; với mục tiêu là tạo nguồn để đào tạo cán bộ cho địa phương, vùng dân tộc thiểu số. 2.2.1 - Thuận lợi: - Nhà trường thường xuyên được sự quan tâm lãnh chỉ đạo toàn diện của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh, của Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện của Sở và Phòng GD&ĐT, của các Ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh và huyện. - Đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên nhà trường có ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm tốt, có tinh thần đoàn kết, tâm huyết với nghề, gắn bó với nhà trường. - Học sinh nhà trường các em chăm ngoan, biết vâng lời thầy cô, cha mẹ, đa số phụ huynh học sinh đã quan tâm đến việc học tập của con em mình. - Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối ổn định, cơ bản đáp ứng được việc học tập bộ môn Toán. - Bộ môn Toán được chuyên môn nhà trường chú trọng, có những chỉ đạo sát sao, nhà trường luôn tạo điều kiện cho giáo viên được giao lưu học tập kinh nghiệm với các trường bạn trên địa bàn huyện. 2.2.2 - Khó khăn - Học sinh nhà trường là các con em dân tộc thiểu số, có phong tục tập quán khác nhau, phương pháp học tập của các em còn hạn chế, đây là một khó khăn lớn trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh nhà trường. - Tuy được xét tuyển song chất lượng đàu vào chưa cao, nhiều học sinh còn hổng kiến thức từ tiểu học, môn toán là một môn khó đòi hỏi tư duy cao, cách học mới ở THCS HS chưa kịp thích ứng, từ đó chán nản không có hứng thú học tập. - Cơ sở vật chất của nhà trường sau nhiều năm sử dụng có một số hạng mục đã xuống cấp, hư hỏng. Trang thiết bị, đồ dùng dạy và học, phục vụ cho 7 giáo viên, học sinh còn thiếu hoặc không đồng bộ, phần nào đó đã hưởng khó khăn đến việc học tập của các em học sinh. - Các hiện tượng tiêu cực, mặt trái của xã hội thường xuyên tác động ảnh hưởng sấu đến nhà trường. - Cũng như việc bồi dưỡng học sinh giỏi toán, việc giúp đỡ học sinh yếu kém phải được tiến hành ngay cả trong những tiết dạy học đồng loạt bằng các biện pháp phân hoá nội tại thích hợp. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học việc nâng cao hiệu suất giờ lên lớp để giúp đỡ học sinh yếu kém người thầy vẫn cần có sự giúp đỡ tách riêng đối với nhóm học sinh yếu kém (thực hiện chủ yếu ngoài giờ chính khoá). Trong quá trình công tác tôi cũng nhận thấy có những nguyên nhân dẫn đến chất lượng học tập của học sinh còn yếu là: - Học sinh có nhiều "lỗ hổng" về kiến thức cũng như kỹ năng do: - Do khả năng tiếp thu chậm. - Do thiếu phương pháp học tập phù hợp. - Tư duy thiếu linh hoạt : - Thờ ơ với giờ học trên lớp, thường xuyên không làm bài tập được giao. * Kết quả bài kiểm tra khảo sát đầu năm: Tổng số Điểm 9-10 Điểm7 - 8 học sinh SL % SL % 70 1 1,4 6 8,6 Điểm5 - 6 Điểm3 - 4 Điểm< 3 SL SL SL 28 % 40 24 % 34,3 11 % 15,7 Là một giáo viên đã có hơn mười năm gắn bó với nghề. Tôi rất hiểu và thông cảm trước những khó khăn của các em. Đồng thời cũng trăn trở với kết quả khảo sát trên. Bởi vậy trong quá trình giảng dạy tôi luôn học hỏi đồng nghiệp và tìm tòi những phương pháp thích hợp để giúp các em học sinh yếu, kém yêu thích và học tốt môn toán. Với sự trao đổi, góp ý của đồng nghiệp, tôi đã thử nghiệm trên một số đối tượng học sinh ở trường tôi về phương pháp giúp đỡ học sinh yếu, kém học tốt hơn môn toán và thực tế đem lại kết quả khả quan. 8 Sự tiến bộ rõ rệt của học sinh là động lực thúc đẩy tôi hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này. 2.3 - Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 2.3.1 - Các giải pháp. 2.3.1.2 - Khảo sát chất lượng đầu năm của học sinh để tìm đối tượng yếu, kém. Thông qua học bạ lớp dưới, thông qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm, kiểm tra vấn đáp những kiến thức cơ bản, trọng tâm mà các em đã được học. Qua đó giúp tôi nắm được những đối tượng học sinh yếu kém và những ''lỗ hổng” kiến thức của các em. Trên cơ sở đó tôi báo cáo về chuyên môn nhà trường, chuyên môn sắp xếp phân lớp thành nhiều nhóm gọi là nhóm ''Tương đồng về kiến thức”. Rồi tìm hiểu nguyên nhân và lập kế hoạch khắc phục. Thực hiện kế hoạch theo kế hoạch phụ đạo học sinh yếu kém của nhà trường. 2.3. 2 - Tìm hiểu và phân loại các nguyên nhân. Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn đến học sinh học yếu đó là: 2.3.2.1 - Học sinh có nhiều "lỗ hổng" về kiến thức cũng như kỹ năng do: Nguyên nhân thì rất nhiều, có em do khả năng hạn chế của bản thân, có em do sự lười học lâu ngày mà thành hổng kiến thức, hạn chế hoặc mất hẳn kỹ năng giải Toán, có em do không đủ kiến thức, kỹ năng làm Toán từ cấp THCS... và còn rất nhiều nguyên nhân khác. 2.3.2.2 - Do khả năng tiếp thu chậm. Với cùng một khoảng thời gian hình thành kiến thức mới, trong khi các học sinh khác đã hiểu bài, biết vận dụng kiến thức thì học sinh kém vẫn chưa biết vận dụng để thực hành kĩ năng. Trong khi luyện tập thực hành, các học sinh khác đã hoàn thành hết các bài tập theo chuẩn, có em còn làm hết các bài tập trong sách giáo khoa thì học sinh kém mới chỉ giải được một bài hoặc một hai phần trong bài học... 2.3.2.3 - Do thiếu phương pháp học tập phù hợp. 9 Một số em không thuộc công thức, quy tắc, định lý đã học; chưa đọc kĩ đề toán để phân biệt cái đã cho và cái phải tìm đã vội bắt tay vào giải; không chịu thử lại sau khi làm tính, luôn tẩy xoá trong bài làm. Nhiều em không chịu làm ra nháp hoặc làm bài nháp cẩu thả gây ra sự lộn xộn nhầm lẫn khi làm bài vào vở. 2.3.2.4 - Tư duy thiếu linh hoạt : Nghe giáo viên phân tích giảng giải, học sinh yếu không biết khái quát, không biết tư duy nên không nhớ trình tự tính toán, giải toán. Sự chú ý, óc quan sát, trí tưởng tượng đều phát triển chậm. Khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ khó khăn, sử dụng ngôn ngữ toán học lúng túng, nhiều chỗ lẫn lộn. 2.3.2.5 - Thờ ơ với giờ học trên lớp, thường xuyên không làm bài tập được giao. Biểu hiện bề ngoài là thái độ thờ ơ đối với học tập, ngại cố gắng, thiếu tự tin, ngay cả khi làm đúng bài tập, giáo viên hỏi cũng lại ngập ngừng không tin mình làm đúng bài tập. Thái độ trong lớp thụ động. Có thể thấy rõ đặc điểm này khi các em làm toán hoặc trả lời. Các em thường đưa mắt theo dõi thầy cô. Hễ thấy cô cau mày là sợ cho rằng mình sai không dám làm tiếp. Vì vậy kết quả học toán thường xuyên dưới trung bình. Giáo viên cần nắm vững 5 đặc điểm này để có thể giúp đỡ học sinh yếu kém một cách có hiệu quả. Việc giúp đỡ học sinh yếu kém cần được thực hiện ngay cả trong những tiết học đồng loạt, bằng những biện pháp phân hóa nội tại thích hợp. Về nguyên tắc đó là phương hướng chủ yếu khắc phục tình trạng yếu kém trong học toán. 2.3.3 - Thực hiện các biện pháp khắc phục yếu, kém. 2.3.3.1 - Với đối tượng học sinh yếu kém do lười học. Tôi trực tiếp trò chuyện riêng với các em, phân tích cho các em hiểu mặt tốt, xấu và sự liên quan đến tương lai của các em. Về mặt chuyên môn, tôi tăng cường công tác kiểm tra việc học và làm bài về nhà, trong các giờ học tôi khuyến khích cho các em phát biểu, gọi các em lên bảng và có lời khen kịp thời, cho điểm khuyến khích, động viên các em, giúp các em tự tin và hứng thú học tập hơn. 10 Sau khi tạo được tâm thế thoải mái về tinh thần trong học sinh thì việc tiếp theo đóng vai trò quan trọng và quyết định. Đó chính là thực hiện các biện pháp phù hợp nhằm giúp các học sinh yếu kém có điều kiện về mặt kiến thức để theo kịp yêu cầu chung của những tiết học trên lớp, tiến tới có thể hoà nhập vào việc dạy học đồng loạt. Qua kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy tôi đã gặp rất nhiều khó khăn khi giảng dạy kiến thức mới trong điều kiện nền tảng kiến thức cũ rất yếu kém của học sinh. Đây là một nỗi đau hàng ngày gặm nhấm trái tim nghề nghiệp của tôi, thôi thúc tôi phải làm một điều gì đó để có thể giúp đỡ các em.Và tôi đã thay đổi cách nghĩ và cách làm trong công tác giảng dạy để giúp đỡ các em yếu, kém học tốt môn toán hơn qua các biện pháp cụ thể sau: 2.3..3. 2 - Khắc phục các yếu tố chủ quan: a. Trước hết cần đảm bảo cho học sinh có trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp. Để tiết học trên lớp có kết quả thường đòi hỏi những tiền đề nhất định về trình độ kiến thức, kỹ năng sẵn có của học sinh. Đối với diện học sinh yếu kém thì thiếu hẳn tiền đề này. Vì thế cần giúp nhóm học sinh này có đủ tiền đề dảm bảo trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp đạt hiệu quả. Trước hết, tôi nghiên cứu kỹ nội dung chương trình, vạch rõ khối lượng tri thức và những kỹ năng cần thiết như những tiền đề xuất phát thông qua SGK, SGV, chuẩn chương trình ... Sau đó, phân tích những tri thức kỹ năng có sẵn ở học sinh ở mức độ nào(qua quá trình tìm hiểu, quan sát ở học sinh trên lớp, qua các bài kiểm tra ...) Tiếp đến, tôi tập trung vào việc tái hiện những tri thức và tái tạo những kỹ năng cần thiết một cách tường minh thông qua việc cho học sinh ôn tập những tri thức, kỹ năng trước khi dạy nội dung mới vào các buổi học ngoài giờ chính khoá. Chẳng hạn: Ví dụ 1: Học sinh thường yếu về kỹ năng công trừ phân số nên đối với bài này cần lưu ý: 11 Khi dạy bài cộng trừ số hữu tỉ, để học sinh học tốt bài này thì các em buộc phải nắm được các kiến thức, kỹ năng liên quan như đổi số thập phân ra phân số, qui đồng mẫu các phân số, qui tắc cộng, trừ phân số, qui tắc “chuyển vế”, qui tắc “dấu ngoặc”. Trong hoạt động đó học sinh được ôn lại các kiến thức tương ứng trong tập hợp số nguyên như cộng, trừ số nguyên... thông qua hệ thống câu hỏi và bài tập như sau: Bài tập1: Đổi các số thập phân sau ra phân số: 0,6 v à 2,25 HS: 0,6  Bài tập2: 6 3  10 5 ; 2,25  Tính : 3 9  5 4 225 9  100 4 Hỏi: Muốn thực hiện phép cộng trên trước hết ta phải làm gì? (HS: Phải qui đồng mẫu các phân số) 3 9  12 45    5 4 20 20 Hỏi: Tiếp theo cộng như thế nào? (HS: Tử cộng tử, giữ nguyên mẫu)  12 45 ( 12)  45   20 20 20 Hỏi: Nhắc lại cách cộng hai số nguyên? (HS: Nêu cách cộng hai số nguyên và tiến hành cộng)  12 45 (12)  45 33    20 20 20 20 Bài tập 3: Tìm x, biết: x 9 33  4 20 Hỏi: Muốn tìm được x trước hết ta phải làm gì? (HS: Lúng túng không trả lời được) GV: Hãy nhắc lại qui tắc chuyển vế trong Z (HS: Nhắc lại qui tắc chuyển vế trong Z) GV: Chúng ta vận dụng qui tắc chuyển vế để thực hiện bài toán. (HS: Vận dụng qui tắc chuyển vế và thực hiện bài toán) 12 x x  x Vậy: 33 9  20 4 (Theo qui tắc chuyển vế) 33 45 33  45  12  3     20 20 20 20 5 3 5 Như vậy trong buổi phụ đạo học sinh đã nắm được những kiến thức tiền đề của bài mới. Đảm bảo trình độ xuất phát cho tiết học chính khoá giúp các em tiếp thu bài một cách chủ động và hứng thú hơn, phát biểu xây dựng bài sôi nổi hơn. Hiệu quả giờ học được nâng lên rõ rệt. Cụ thể : Trong bài học mới khi đưa ra yêu cầu thực hiện phép tính : -0,6 + 2,25. Chỉ với gợi ý nhỏ: Mọi số hữu tỉ đều có thể viết được dưới dạng phân số a b với a,b  Z, b  0. Là học sinh phát hiện được hướng giải quyết vấn đề nhờ bài học phụ đạo đã nắm vững. Ví dụ 2: Khái niệm " Tam giác" được là sự kết hợp của nhiều khái niệm liên quan nên khi dạy khái niệm này cần lưu ý: Trước khi dạy khái niệm "Tam giác" giáo viên cần cho học sinh ôn tập lại các kiến thức, kỹ năng cũ như đoạn thẳng, cách vẽ đoạn thẳng khi biết độ dài , khái niệm ba điểm thẳng hàng đã được học ở tiểu học và học kỳ I lớp 6, rèn kỹ năng cho học sinh sử dụng thước và ê ke, com pa thành thạo thông qua các bài tập sau: Bài tập 1 Điền vào chỗ (...) trong phát biểu sau để có định nghĩa đúng. "Đoạn thẳng AB là ..." Bài tập 2 Vẽ đoạn thẳng AB dài 4 cm. Vẽ điểm M không thuộc đoạn thẳng AB. ba điểm A,B,M có thẳng hàng không? Vì sao? Bài tập 3 13 Vẽ cung tròn tâm A bán kính 3 cm. Vẽ cung tròn tâm B bán kính 2 cm. Lấy một giao sđiểm của hai cung trên, gọi đó là giao điểm M. Vẽ các đoan thẳng AM, BM ta có tam giác ABM. Như vậy khi học sinh đã nắm được khái niệm và kỹ năng nói trên thì việc tiếp thu bài mới không mấy khó khăn. Trong thực hiện việc tạo tiền đề đảm bảo trình độ xuất phát cần chú ý: * Mỗi bài toán phải được thực hiện qua nhiều bước, hướng dẫn và yêu cầu cách thực hiện thành thạo từng bước một. * Tổ chức phân dạng bài tập một cách khoa học, chi tiết, cung cấp cho học sinh các dạng bài tập một cách có hệ thống. * Soạn thêm nhiều bài tập đơn giản và tương tự cho từng dạng để các em tự làm, qua đó các em được lặp lại nhiều lần, giúp các em dễ khắc sâu kiến thức. Sau khi kiến thức lớp dưới đã được bù đắp và bằng cách hạ thấp yêu cầu đến mức tối thiểu ở các dạng bài tập tôi nhận thấy các em học sinh đã xích lại gần nhau hơn, tiếp thu bài mới tốt hơn, yêu thích học môn toán hơn. b. Thực hiện biện pháp lấp "lỗ hổng" về kiến thức và kỹ năng cho học sinh Qua tìm hiểu thực tế cho thấy: Kiến thức có nhiều "lỗ hổng" là một "bệnh " phổ biến của học sinh yếu kém toán. Vai trò của việc đảm bảo trình độ xuất phát là cần thiết nhưng chỉ để phục vụ cho nội dung sắp học . Còn việc lấp "lỗ hổng" về kiến thức kỹ năng là nhiệm vụ cần thiết nhưng mang tính tổng quát không phụ thuộc ý đồ chuẩn bị cho một bài học cụ thể nào sắp tới. Trong quá trình dạy học người thầy cần quan tâm phát hiện những lỗ hổng về kiến thức, kỹ năng của học sinh. Tìm ra những "lỗ hổng" điển hình đối với học sinh yếu kém mà ở trên lớp vì điều kiện thời gian chưa khắc phục được để có kế hoạch tiếp tục giúp đỡ. Trong quá trình giảng dạy, tôi thấy ở học sinh yếu kém toán THCS thường bị hổng kiến thức chủ yếu ở phần tập hợp số nguyên, các kỹ năng như thực hiện các phép tính trên số nguyên, quy đồng mẫu các phân số.... ở số học. 14 Còn về hình học , học sinh thường vẽ hình theo diễn đạt còn kém, các khái niệm về trung điểm của đoạn thẳng, tia phân giác của góc còn chưa nắm vững... Bởi thế tôi tập trung thời gian và sức lực cho việc bù đắp những lỗ hổng này cho các nhóm học sinh vào các buổi học phụ kém và cả giao bài về nhà. Ở các buổi học phụ đạo học sinh yếu kém, tôi đã hệ thống hoá những kiến thức, kỹ năng còn hổng cho học sinh và đặc biệt chú ý đến hệ thống các bài tập chứa đựng nội dung kiến thức và kỹ năng cần bù đắp. Chẳng hạn: Với nhóm học sinh yếu về kỹ năng cộng trừ số nguyên thì một mặt ở giờ học phụ kém tôi giúp các em nhớ lại cách thực hiện đồng thời cho các em thực hành nhiều lần với bài tập đơn giản vừa sức để các em mau chóng lấy lại được kiến thức và kỹ năng cơ bản. Mặt khác tôi giao bài tập về nhà và phân công học sinh khá kiểm tra giúp đỡ, hướng dẫn thêm cho nhóm. Ở các nhóm khác tôi cũng tiến hành tương tự. Ngoài ra, thông qua quá trình học lí thuyết và làm bài tập của học sinh tôi đã cố gắng tập cho học sinh có ý thức tự phát hiện những lỗ hổng của mình và biết cách tra cứu sách vở, tài liệu để tự mình lấp những "lỗ hổng" đó. 2.3.3. 3 - Giúp học sinh yếu kém luyện tập đảm bảo vừa sức Đối với học sinh yếu kém, thầy giáo nên đặt quan điểm đảm bảo tính vững chắc của kiến thức lên hàng đầu. Việc luyện tập theo trình độ chung sẽ không phù hợp với học sinh yếu kém, vì vậy nhóm này cần nhiều thời gian luyện tập hơn. Trước hết phải làm cho các em hiểu rõ đề bài: Đề bài cho biết cái gì? Yêu cầu cái gì? Nếu học sinh không hiểu đề bài thì không thể tiếp tục quá trình giải toán để đưa lại kết quả đúng được. Do đó giáo viên cần dành nhiều thì giờ giúp các em vượt qua được vấp váp đầu tiên này. Để rèn một kiến thức hay kỹ năng nào đó thì số lượng bài tập cùng mức độ cùng thể loại đối với các em yếu kém cần nhiều hơn bình thường, cùng mức độ. Do đó giáo viên cần chú ý gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại. Để hiểu 15 một kiến thức, rèn luyện một kĩ năng nào đó, học sinh yếu kém cần những bài tập cùng thể loại và mức độ với số lượng nhiều hơn so với các em khá giỏi và trung bình. Phần gia tăng này được thực hiện trong những tiết làm việc riêng với nhóm học sinh yếu kém toán. Chẳng hạn giáo viên có thể ra cho học sinh rất nhiều bài tập giải phương trình bậc hai với hệ số mà không sợ "nhàm" như trường hợp học sinh khá giỏi. Ngoài ra các bài tập phải được phân bậc với mức độ gần nhau (phân bậc mịn). Việc sử dụng những mạch bài tập phân bậc trong dạy học toán nói chung là đáng làm, riêng với nhóm học sinh yếu kém toán thì cần phân bậc mịn hơn so với trình độ chung, tức là khoảng cách giữa hai bậc liên tiếp không nên quá xa, quá cao. Ta hình dung rằng nhiều bậc của học sinh yếu kém có thể gộp lại thành một bậc cho học sinh trung bình hoặc khá giỏi Cụ thể: Khi dạy bài : "Cộng, trừ số phân số ". Phần bài tập về nhà cho đối tượng học sinh yếu, kém tôi ra các dạng như sau: Bài 1: Tính a) 7 2  15 15 b)  5 15  18 27 1 5  8 8 ; 5  0,75 12 ; Bài 2: Tính a) b) 3 5 1   4 4 4 4 2 3   3 5 2 ; 4 2 7   5  7  10 ; 2 7 1   3 4 2 Bài 3: Tìm x, biết a) x b) x 1 3  2 2 2 5  5 7 1 3  4 4 ; x ; 4 1 x 7 3 Thông thường khi ra bài tập cho đối tượng học sinh yếu , kém không nên ra quá nhiều và khó, các dạng bài tập phải vừa sức với các em đặc biệt là có kiểm tra, chấm, chữa và cho điểm để động viên, khuyến khích các em. 16 Được bước theo những bậc thang vừa sức với mình, học sinh yếu kém sẽ đỡ bị hẫng, bị hụt, bị ngã từ đó có nhiều khả năng leo hết các nấc thang dành cho họ để chiếm lĩnh được kiến thức, kĩ năng mà chương trình yêu cầu. Những nấc thang đầu dù có thấp, những bước chuyển bậc dù có ngắn nhưng khi học sinh thành công sẽ tạo nên một yếu tố tâm lý rất quan trọng: các em sẽ tin vào bản thân, tin vào sức mình, từ đó có đủ nghị lực và quyết tâm vượt qua tình trạng yếu kém. 2.3.3. 4- Giúp đỡ học sinh rèn luyện kỹ năng học tập, có phương pháp học tập phù hợp. Một thực tế vẫn xảy ra thường xuyên là học sinh không biết cách học như thế nào cho có hiệu quả. Các em do không có kỹ năng học tập nên thường chưa học kỹ, thậm chí chưa hiểu lý thuyết đã lao vào làm bài tập, đọc chưa kỹ đề đã đặt bút vào làm bài, trong khi làm bài các em thường vẽ hình cẩu thả, viết nháp lộn xộn...Vì thế việc hướng dẫn các em phương pháp học cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Như vậy, ngoài việc hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng học tập môn toán, mục này chỉ lưu ý một điều là đối với học sinh yếu kém, cần bồi dưỡng cho các em ngay cả những hiểu biết sơ đẳng về cách thức học tập toán như: - Phải nắm vững lý thuyết trước khi làm bài tập. - Trước một bài tập cần đọc kỹ đầu bài, vẽ hình rõ ràng, viết nháp cẩn thận. - Sau khi học xong một chương cần giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức (tốt nhất là bằng bảng hoặc bằng sơ đồ tư duy). Tóm tắt lý thuyết cơ bản và các công thức quan trọng cũng như cách giải một số dạng toán cơ bản và dán vào góc học tập. Đặc biệt, giáo viên cần đấu tranh kiên trì với những thói quen xấu của học sinh như: chưa học lý thuyết đã lao vào làm bài tập, không đọc kĩ đầu bài trước khi làm bài tập, vẽ hình cẩu thả, viết nháp lộn xộn,... 17 2.4 - Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. Kiến thức môn toán bậc THCS như đã trình bày đóng vai trò nền tảng. Vì thế khắc phục tình trạng yếu kém môn toán ở bậc THCS là vấn đề không chỉ của riêng một cá nhân giáo viên dạy toán nào. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả rõ ràng trong việc nghiên cứu và thể nghiệm trong đề tài này tôi chủ yếu tập trung đi đã sâu vào phương pháp dạy học toán cho học sinh yếu, kém của trường vào các giờ tự học, giờ luyện tập, tự chọn, các buổi học phụ đạo, các giờ học ngoại khóa…..Các bài toán được đề cập đến trong đề tài thuộc phạm vi SGK, SBT đảm bảo tính vừa sức đối với các em. Quá trình thực hiện nêu trên đối với học sinh ở trường mà tôi đang giảng dạy đã đạt kết quả đáng lưu tâm. Những năm trước đây khi chưa sử dụng phương pháp mới mỗi lớp có tới 30  40% học sinh yếu, kém. Nhưng với cách làm này năm học vừa qua so sánh kết quả của bài khảo sát và bài kiểm tra giữa kỳ II số HS yếu kém giảm đi rõ rệt . * Kết quả bài kiểm tra giữa học kỳ II: Tổng số Điểm 9-10 Điểm7 - 8 Điểm5 - 6 Điểm3 - 4 Điểm< 3 18 học sinh 70 SL 9 % 12,8 SL 23 % 32,9 SL 36 % 51,4 SL 2 % 2,9 SL 0 % 0 Hơn thế nữa qua cách làm này, các em rất hứng thú và yêu thích môn toán hơn, tự tin hơn trong học tập. Qua việc nghiên cứu và thực tế giảng dạy cho thấy việc thực hiện đề tài thu được hiệu quả rõ nét. Chất lượng môn Toán hàng năm được nâng lên rõ rệt thể hiện qua sổ điểm. Số học sinh thi đỗ vào trường PTDT nội trú của Tỉnh và các trường THPT trong huyện, Trường Hữu nghị T80.... tăng lên rõ rệt. Hơn nữa chất lượng học sinh khá cũng tăng lên. Học sinh tỏ ra quan tâm yêu thích học toán hơn trước đây. 3 - KẾT LUẬN: Qua quá trình giảng dạy bộ môn Toán THCS, qua việc nghiên cứu các nguyên nhân và giải pháp khắc phục tình trạng học sinh học yếu kém môn Toán, tôi đã rút ra một số kết luận và đề xuất như sau : * Về phía giáo viên : - GV phải không ngừng học hỏi, nhiệt tình trong giảng dạy, quan tâm đến chất lượng của từng học sinh, nắm vững được đặc điểm tâm sinh lý của em và phải hiểu được gia cảnh cũng như khả năng tiếp thu, từ đó tìm ra phương pháp dạy học hợp lý theo sát từng đối tượng học sinh. Đồng thời trong khi dạy các tiết học luyện tập, ôn tập giáo viên luôn áp dụng các giải pháp phù hợp cho từng nhóm, đối tượng , lấp đầy ngay những "lỗ hổng" kiến thức để học sinh ghi nhớ kiến thức cũ tạo tiền đề tiếp thu kiến thức mới trong các bài học tiếp theo. Sau đó giáo viên cần tổng hợp hệ thống hoá kiến thức, tóm tắt lý thuyết cơ bản và các công thức quan trọng cũng như cách giải một số dạng toán cơ bản, đồng thời động viên kịp thời để các em tự tin vào bản thân mình. 19 - Giáo viên cần thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp để học hỏi và rút ra kinh nghiệm cho bản thân, vận dụng phương pháp dạy học phù hợp với nhận thức của học sinh, không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng dạy và học. - Giáo viên phải chịu hy sinh một số lợi ích riêng đặc biệt về thời gian để xây dựng những giáo án phù hợp có đầu tư để các buổi phụ đạo cho học sinh đạt hiệu quả. - Giáo viên cần tích cực học hỏi và tham gia chuyên đề, hội thảo của tổ, nhóm và nhà trường, tham gia tích cực và nghiên cứu tài liệu về bồi dưỡng thường xuyên. * Về phía học sinh : - Bản thân học sinh phải thực sự cố gắng, có ý thức tự học tự rèn, kiên trì và chịu khó trong quá trình học tập. - Trong giờ học trên lớp cần nắm vững phần lý thuyết hiểu được bản chất của vấn đề, có kỹ năng vận dụng tốt lí thuyết vào giải bài tập. Từ đó học sinh mới có thể tự tin và không còn sợ bộ môn Toán. - Phải có đầy đủ các phương tiện học tập, đồ dùng học tập , dành nhiều thời gian cho việc làm bài tập ở giờ tự học, thường xuyên trao đổi, thảo luận cùng bạn bè để lấp đầy " lỗ hổng" kiến thức đồng thời cũng cần cố gắng nâng cao kiến thức cho bản thân. Phần kiến thức môn Toán trong chương trình THCS rất rộng và sâu, tương đối khó với học sinh, có thể nói nó có sự liên quan và mang tính thực tiễn rất cao, bài tập và kiến thực rộng, nhiều. Do đó muốn khắc phục tình trạng học sinh yếu kém về môn toán thì giáo viên cần phải phân biệt được từng nhóm học sinh yếu kém do nguyên nhân nào từ đó lựa chọn giải pháp phù hợp. Để nâng cao chất lượng dạy và học giúp học sinh hứng thú học tập môn Toán thì mỗi giáo viên phải tích luỹ kiến thức, phải có phương pháp giảng dạy 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan