Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn “kinh nghiệm rèn nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày giúp trẻ 18 24 tháng tuổi...

Tài liệu Skkn “kinh nghiệm rèn nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày giúp trẻ 18 24 tháng tuổi vui vẻ, mạnh dạn hơn tại trường mầm non

.DOC
45
281
87

Mô tả:

MỤC LỤC Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1. Lý do chọn đề tài. 1 2. Mục đích nghiên cứu. 2 3. Đối tượng nghiên cứu. 2 4. Phương pháp nghiên cứu.. 2 5. Phạm vi nghiên cứu. 3 6. Kế hoạch nghiên cứu. 3 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 3 1. Cơ sở lý luận. 3-5 2. Thực trạng. 5-7 3. Các biện pháp thực hiện 7-31 4. Hiệu quả 32 C. KẾT LUẬN 33-34 *Bài học kinh nghiệm 34 * Khả năng phát triển của đề tài 35 * Kiến nghị 35-36 Phụ lục 1 37 Phụ lục 2 38 Bài tập khảo sát 39-41 Tài liệu tham khảo 42 MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH CHỨNG 43 0 A. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. Lý do chọn đề tài a) Lí do về mặt lý luận Nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày là những hoạt động của trẻ hàng ngày như học tập, vui chơi, ăn, ngủ, rửa tay, lau mặt…được thường xuyên diễn ra, trẻ được thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần, dưới sự chỉ bảo hướng dẫn tận tình của người lớn. Trẻ 18-24 tháng tuổi lần đầu tiên đến trường lớp, nên mọi thứ xung quanh trẻ đều rất mới lạ, bỡ ngỡ, trẻ dễ bị tổn thương về mặt tâm lý. Chính vì thế cô giáo là người luôn phải tạo cho trẻ sự gần gũi như là người mẹ thứ hai của trẻ, lớp học là ngôi nhà hạnh phúc chung mà trẻ cần được sự che chở, chia sẻ, gần gũi và yêu thương. Cô giáo luôn linh hoạt mềm dẻo, có sáng tạo và gần gũi trẻ, giúp trẻ có sự vui vẻ, tự tin, mạnh dạn tham gia vào các hoạt động. Mọi hoạt động hàng ngày phải được lập di lặp lại nhiều lần mới thành nề nếp. Tác động của cô giáo luôn thay đổi để phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ, có những lúc cô phải quên mình là người lớn để nhập vai vào thế giới của trẻ, để cùng chơi với trẻ, là người bạn của trẻ. Biết tôn trọng, đồng cảm tạo không khí thoải mái, cuốn hút trẻ, hướng dẫn trẻ làm theo yêu cầu của cô một cách tự nhiên, thoải mái, vui vẻ. Từ đó giúp trẻ hiểu biết nhất định, tạo cho trẻ có đầy đủ điều kiện về thể lực, kiến thức đồng thời hình thành và phát triển nhân cách tốt cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững vàng và tự tin hơn. Vì vậy nếu chúng ta biết kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để chăm sóc, hướng dẫn, rèn luyện trẻ thì kết quả đạt tốt hơn. b) Lý do về mặt thực tiễn Trong thực tế, với một giáo viên mầm non, nhiều năm được phân công chăm sóc và giáo dục các cháu ở lứa tuổi nhỏ, là đầu vào của nhà trường. Bản thân tôi rất tâm huyết với nghề nuôi dạy trẻ. Tôi thấy ở độ tuổi này trẻ còn rất non nớt, nhưng đặc điểm sinh lý trẻ phát triển rất mạnh. Vì thế trẻ dễ bị tổn thương về tâm lý. Bên cạnh đó ở độ tuổi này trẻ nắm bắt rất nhanh về những kiến thức, thế giới xung quanh. Nhưng những cái 1 rất gần gũi và đơn giản trong sinh hoạt hàng ngày như: (Nề nếp, thói quen, kỹ năng tự phục vụ đơn giản… dường như trẻ ít có). Trẻ ở lớp tôi, đa số được sự bao bọc, nuông chiều của ông bà, cha mẹ, chưa tách rời bố mẹ, gia đình... nên khi mới nhập lớp, nhập trường trẻ thường có thái độ sợ hãi, mọi thứ đều lạ lẫm, tránh né bạn, không chấp nhận sự giúp đỡ của các cô giáo, thậm chí còn la khóc, không ăn, không ngủ, hoặc không tham gia vào mọi hoạt động… có thể trẻ dường như không hoà nhập vào tập thể. Thậm chí đối với một số phụ huynh ít quan tâm và để ý hướng dẫn tận tình cho trẻ, và cho rằng trẻ ở tuổi này còn rất nhỏ, nên việc rèn nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ 18-24 tháng tuổi là chưa thật sự cần thiết. Vậy làm thế nào để nhanh chóng đưa trẻ vào nề nếp, vui vẻ, mạnh dạn và thói quen trong sinh hoạt hàng ngày ngay những ngày đầu, những ngày mà trẻ không muốn rời xa mẹ... đến với cô giáo và các bạn. Theo tôi nghĩ đây không phải là vấn đề trăn trở của riêng tôi mà là của tất cả các đồng nghiệp nói chung. Nhận thức được tầm quan trọng đó tôi đã suy nghĩ, tìm hiểu và mạnh dạn đưa ra đề tài “Kinh nghiệm rèn nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày giúp trẻ 18-24 tháng tuổi vui vẻ, mạnh dạn hơn tại Trường Mầm non 8/3 Nha Trang” 2. Mục đích nghiên cứu Rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ 18-24 tháng tuổi, nhằm tạo cho trẻ có một thói quen, vui vẻ, mạnh dạn hơn khi đến lớp. 3. Đối tượng nghiên cứu Rèn nề nếp cho trẻ 18-24 tháng tuổi thông qua sinh hoạt hàng ngày 4. Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu lý luận: Tài liệu, tạp chí giáo dục, sách bồi dưỡng thường xuyên để giúp tổng hợp khái quát 1 số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài - Quan sát: Quan sát các hoạt động của học sinh, giáo viên, phụ huynh, từ đó tìm ra 1 số biện pháp tác động phù hợp 2 - Thực hành và trò chơi: Cho trẻ thực hành các bài tập trò chơi do cô sưu tầm hoặc biên soạn cho phù hợp với các hoạt động rèn nề nếp cho trẻ trong sinh hoạt hàng ngày. - Trò chuyện, đàm thoại: Trao đổi kinh nghiệm đồng nghiệp, tuyên truyền để phụ huynh thấy được tầm quan trọng của việc rèn nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ 18-24 tháng tuổi - Thống kê số liệu: Trước tác động và sau tác động 5. Phạm vi nghiên cứu - Trẻ 18-24 tháng tuổi tại trường Mầm non 8/3 Nha Trang. 6. Kế hoạch nghiên cứu -Với đề tài này tôi nghiên cứu trong thời gian 5 tháng (Bắt đầu từ tháng 10/2016 đến hết tháng 3/2017) cụ thể: - Tháng 10/2016: Xác định đề tài, sưu tầm tài liệu, quan sát, khảo sát thực tế. - Tháng 11,12/2016 đến tháng 2/2017: Nghiên cứu và tiến hành thực nghiệm. - Tháng 3/2017: Viết đề tài. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I. Cơ sở lí luận Giai đoạn trẻ 18- 24 tháng tuổi là giai đoạn khởi điểm của việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, các mặt phát triển của trẻ hoà quyện vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không tách bạch rõ nét. Trẻ hoàn toàn còn non nớt, nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ phát triển rất nhanh về mọi mặt. Trẻ rất dễ bị tổn thương về mặt tâm lý. Bởi thế muốn rèn luyện nề nếp thói quen trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ, ngay từ những ngày đầu trẻ mới vào lớp: Theo tâm lí học trẻ em - Nguyễn Thị Ánh Tuyết - Nhà xuất bản giáo dục: “Giáo viên mầm non giữ vai trò rất quan trọng và chủ đạo trong việc tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ em. Là người phát hiện năng khiếu ban đầu, định hướng cho sự phát triển nhân cách của trẻ, uốn nắn, vun đắp tâm hồn trẻ em phát triển lành mạnh” Cô giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận được nguồn hạnh phúc, thấy mình được chấp nhận, được an toàn, được yêu mến và là thành viên trong cộng đồng 3 mà trẻ đang hoà nhập. Như sách Tâm lý và giáo dục học trẻ em - Nhà xuất bản giáo dục đã viết: “Không có cấp học nào mà giữa người dạy và người học lại có mỗi quan hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết như cấp học mầm non”. Quan hệ của cô với trẻ giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương như quan hệ mẹ con. Vậy hoạt động sư phạm của cô giáo mầm non đòi hỏi phải rất linh hoạt, nhạy bén, kịp thời, phải có sự sáng tạo để phát hiện và đáp ứng những nhu cầu phát triển của trẻ. Hoạt động lao động sư phạm của cô giáo mầm non có định hướng, có mục đích để giáo dục, phát triển trẻ. Tác động sư phạm của cô giáo phải luôn thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ, có cảm tình, có hứng thú. Vì thế nghệ thuật chủ yếu của cô thể hiện ở chỗ biết hoà nhập vào thế giới trẻ, biết quên mình là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ, tạo cho trẻ sự gần gũi như là người mẹ thứ hai của trẻ, lớp học là ngôi nhà hạnh phúc chung mà trẻ cần được sự cởi mở, lôi cuốn, che chở, sẻ chia, gần gũi và thương yêu. Như thế mới giúp trẻ mạnh dạn, vui vẻ hơn, nghe theo sự hướng dẫn của cô, biết vâng lời cô khi đến lớp. Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân. Những sự khác biệt này bao gồm cả về thể chất, năng lực, trí lực, xu hướng, hứng thú. Và tất cả các trẻ đều có quyền đòi hỏi được quan tâm đáp ứng nhu cầu của bản thân. Bên cạnh đó các nhà giáo dục cũng thấy rằng về bản chất, phạm vi năng lực tiềm tàng của trẻ rộng hơn rất nhiều so với những gì chúng thể hiện ở lớp. Và để có thể làm bộc lộ năng lực tiềm ẩn này, trẻ cần có một môi trường học tập cho phép chúng được học tập mọi lúc, mọi nơi, học theo nhiều cách khác nhau. Để nuôi dưỡng trí thông minh là chăm sóc bảo vệ và kích thích trẻ trong quá trình sinh trưởng. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ có kinh nghiệm học từ những ngày đầu tiên của cuộc đời. Vì vậy sự nuôi dưỡng trí lực của trẻ có thể bắt đầu ngay sau khi trẻ sinh ra. Đó là một quá trình lâu dài đòi hỏi rất nhiều sự âu yếm, kiên trì, hiểu biết về chăm sóc và dạy bảo của cha mẹ, 4 ông bà và cô giáo. Khi trẻ đến lớp, mỗi trẻ là một cơ thể duy nhất, do đó trẻ sẽ hành động trong một môi trường theo cách của mình. Chính vì vậy cô giáo cần tạo cho trẻ có một tâm thế tốt khi đến lớp, một không khí tình cảm yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều này giúp trẻ nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình. Trẻ chỉ có thể phát triển, khoẻ mạnh, thông minh có nề nếp, khi được sống trong môi trường thật sự yêu thương chăm sóc và chú ý khuyến khích giúp đỡ của người lớn. Đúng vậy, trong những năm qua ngành giáo đã có những biện pháp chỉ đạo có hiệu quả tuyên truyền và giáo dục tại các trường Mầm non. Bên cạnh đó việc dạy cho trẻ có những thói quen nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày là một việc làm vô cùng quan trọng trong việc nuôi dạy giáo dục trẻ. Thông qua việc làm này đã góp phần giúp trẻ có một thói quen tốt về nề nếp trong sinh hoạt, đồng thời giúp trẻ phát triển, củng cố những tố chất vận động, sự khéo léo, tính kiên trì, kỷ luật... do đó góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách mới cho trẻ. Nếu trẻ không được rèn luyện nề nếp thì trẻ hay nhỏng nhẻo khóc nhè, khó vui vẻ và thích nghi với trường lớp, ảnh hưởng rất nhiều đến các hoạt động của trẻ, của lớp. Vì vậy cô giáo cần bồi dưỡng thói quen nề nếp tốt trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ từ nhỏ. Mọi hoạt động hàng ngày phải được lập di lặp lại nhiều lần mới thành nề nếp. Tác động của cô giáo luôn thay đổi để phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ, có những lúc cô phải quên mình là người lớn để nhập vai vào thế giới của trẻ, để cùng chơi với trẻ, là người bạn của trẻ. Biết tôn trọng, đồng cảm tạo không khí thoải mái, cuốn hút trẻ, hướng dẫn trẻ làm theo yêu cầu của cô một cách thoải mái, vui vẻ. Từ đó giúp trẻ hiểu biết nhất định, tạo cho trẻ có đầy đủ điều kiện về thể lực, kiến thức đồng thời hình thành và phát triển nhân cách tốt 5 cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững vàng và tự tin hơn. Vì vậy nếu chúng ta biết kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để chăm sóc trẻ thì kết quả tốt hơn. II. Thực trạng * Thuận lợi - Bản thân tôi đã qua nhiều năm chủ nhiệm lớp 18 - 24 tháng tuổi, tôi nắm rõ được tâm sinh lý của trẻ ở độ tuổi này. Được sự quan tâm, giúp đỡ ủng hộ nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường, của tổ chuyên môn, luôn tạo điều kiện về cơ sở vật chất và phương tiện thực hiện các hoạt động cho trẻ - Là một giáo viên, tôi luôn tích cực chịu khó, không ngừng học hỏi, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên thăm lớp dự giờ.Tích cực tham gia các buổi sinh hoạt đầy đủ, các chuyên đề về đổi mới của ngành học mầm non, trong đó có chuyên đề lễ giáo, chuyên đề vệ sinh dinh dưỡng, hướng dẫn làm đồ dùng đồ chơi…Thường xuyên soạn giáo án, tham khảo tài liệu về giáo dục mầm non và tham quan các trường bạn - Môi trường lớp học sạch sẽ, trường tôi nằm giữa trung tâm thành phố nên việc cập nhật thông tin nhanh, với những thông tin đổi mới qua các lớp tập huấn các chuyên đề trong năm học, bên cạnh đó trường đã đạt nhiều thành tích xuất sắc trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ suốt nhiều năm qua. Luôn nhận được sự tin tưởng và quý mến của phụ huynh trong các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. * Khó khăn - Do đặc điểm sinh lý của lứa tuổi này còn quá nhỏ khả năng giáo tiếp về ngôn ngữ của trẻ và giáo viên gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí nhiều trẻ chưa biết nói và nói chưa rõ… - Trẻ đang sống trong môi trường gia đình, được ông bà bố mẹ yêu thương chăm sóc. Lần đầu tới trường thường có thái độ sợ hãi, mọi thứ xung quanh trẻ còn lạ lẫm, tránh né bạn, tính rụt rè, nhút nhát…còn ở nhiều ở trẻ. Đôi lúc không chấp nhận sự giúp đỡ của cô giáo mà còn la khóc, không ăn, không ngủ, không chịu tham gia vào các hoạt động trong ngày… 6 - Việc tổ chức các hoạt động rèn luyện nề nếp, thông qua hoạt động trong ngày tại lớp chưa thực sự đạt hiệu quả cao, trẻ chưa hứng thú tham gia các hoạt động trong ngày, chưa có sự mạnh dạn, tự tin, và một số kỹ năng tự phục vụ đơn giản. Trẻ thực hiện nhiệm vụ chưa thực sự hưởng ứng và xuất phát từ trẻ, mà chủ yếu là từ người lớn làm và giúp trẻ. - Một số phụ huynh nhận thức chưa đồng đều cho là lứa tuổi này trẻ còn nhỏ việc rèn nề nếp cho trẻ trong sinh hoạt hàng ngày chưa thật sự cần thiết. - Qua những thuâ ̣n lợi và khó khăn đã nêu trên, dựa trên cơ sở thực tế bản thân tôi đã khảo sát cháu lớp mình như sau: Bảng khảo sát đầu năm (30 trẻ) ST T Nội dung tham gia hoạt động của trẻ Số trẻ Tỉ lệ 1 2 3 4 5 8/30 9/30 7/30 8/29 14/30 27% 30% 23% 27% 47% Trẻ có thói quen nề nếp chào hỏi Trẻ có nề nếp giờ ăn, ngủ, vệ sinh Trẻ có nề nếp thu dọn đồ dùng đồ chơi Thói quen nề nếp học tập Trẻ vui vẻ, mạnh dạn đến lớp III. Các biện pháp tiến hành Biện pháp 1. Rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày ở mọi lúc mọi nơi giúp trẻ vui vẻ, mạnh dạn hơn Trẻ vui vẻ, mạnh dạn hơn khi được rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày ở mọi lúc mọi nơi. Hàng ngày, các trẻ đến lớp với các nội dung hoạt động: Giờ đón, trả trẻ, giờ ăn, giờ ngủ, vệ sinh, học tập vui chơi,...mọi sinh hoạt đều là những hình thức để trẻ được rèn luyện. Đối với độ tuổi này, để đưa trẻ vào nề nếp và có thói quen đâu phải là chuyện dễ và đơn giản, không chỉ là ngày một 7 ngày hai mà cả một thời gian dài và liên tục. Thực tế trẻ còn rất bé chưa có ý thức được như các anh chị lớn tuổi, điều này cũng là thử thách cho cô giáo. Muốn tạo cho trẻ có được thói quen thường xuyên, sự hứng thú ham muốn đến lớp, cô giáo phải thực sự là người mẹ hiền thứ hai của trẻ, phải luôn nhẹ nhàng, gần gũi, yêu thương trẻ, coi trẻ như con của mình để uốn nắn trẻ. Ngoài ra, thông qua các bài hát, bài thơ, câu chuyện...trò chơi có nội dung nói về nề nếp thói quen, tôi cũng có thể lồng ghép đưa vào mọi lúc, mọi nơi phần nào giúp trẻ liên hệ tới bản thân mà ngoan hơn và biết vâng lời cô giáo hơn từ đó có thói quen nề nếp tốt hơn. 1.1. Chơi tập có chủ định Rèn nền nếp thói quen trong sinh hoạt hàng ngày để trẻ vui vẻ, mạnh dạn khi đến lớp thông qua giờ chơi - tập có chủ định như: Nề nếp thói quen biết tập trung trước cô, về chỗ ngồi học, di chuyển hình thức ngồi, đứng học theo yêu cầu của cô, biết chú ý lắng nghe cô nói và trả lời được những câu hỏi đơn giản của cô. Bài tập 1: NDTT: NN-NH: “Đi nhà trẻ” NDKH: Trò chơi âm nhạc. “Chơi với nhạc cụ” * Mục đích: Trẻ biết về chỗ ngồi và lắng nghe, hưởng ứng khi nghe cô hát, trả lời câu hỏi đơn giản của cô, thích nghe nhạc, thích chơi với nhạc cụ; vui vẻ, thích thú khi đi học. * Chuẩn bị: Đĩa nhạc, đàn ogan, xắc xô, thanh gõ * Tiến hành: - Chơi với nhạc cụ - Cô dùng xắc xô tập trung trẻ. Vừa vỗ vừa hát: “Dung dăng dung dẻ, dắt trẻ đi chơi, đi chơi, đi chơi”. Cô cho trẻ về chỗ ngồi. Cô giơ xắc xô và hỏi trẻ? + Cô có gì đây? + Xắc xô dùng để làm gì? - Cô nói cho trẻ biết: Xắc xô là một loại nhạc cụ khi vỗ phát ra âm thanh, dùng để vỗ đệm cho nhiều bài hát, để chơi rất là vui - Cô cho trẻ lấy xắc xô chơi, cô cho trẻ chơi vỗ mạnh, vỗ nhẹ theo yêu cầu của cô. 8 - Tương tự cô xuất hiện thanh gõ và cho trẻ chơi với thanh gõ. Trong khi trẻ chơi cô hỏi trẻ đang chơi với nhạc cụ gì? Khuyến khích trẻ gõ theo cô. Cô nói: Đi nhà trẻ rất vui, được chơi nhiều đồ chơi. Nhạc sĩ Hoàng Kim Định đã sáng tác bài hát “Đi nhà trẻ”. Các con lắng nghe cô hát nhé * NN-NH: “Đi nhà trẻ” - Cô hát lần một cho trẻ nghe, hỏi trẻ: + Cô vừa hát bài gi? + Tác giả nào? - Ngoài xắc xô và thanh gõ cô còn có một loại nhạc cụ nữa cũng đệm cho nhiều bài hát rất hay. Cô cho trẻ tới đàn ogan, cho trẻ được sờ vào đàn. - Lần hai cô vừa đánh đàn vừa hát cho trẻ nghe kết hợp giới thiệu nội dung và tính chất bài hát. “ Bài hát nói về bé đi nhà trẻ rất là vui, được chơi rất nhiều thứ rồi mới về” Bài hát có giai điệu vui nhộn, dễ thương” - Cô mở băng đĩa và vận động minh họa cho trẻ xem, cô khuyến khích trẻ đứng lên nhún nhảy, đung đưa theo nhạc bài hát. - Cô giáo dục trẻ: Các con đi học rất là vui, được chơi với bạn và nhiều đồ chơi khác nhau, nên các con phải ngoan, biết vâng lời cô giáo, ông bà , ba mẹ. Như vậy hoạt động lao động sư phạm của cô giáo mầm non có định hướng, có mục đích để giáo dục, phát triển trẻ. Tác động sư phạm của cô giáo phải luôn thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ có cảm tình, có hứng thú. Cô giáo nên cân đối thời gian giao tiếp hằng ngày với trẻ, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của trẻ, lắng nghe và thường xuyên góp ý cho trẻ tiến bộ không chỉ trong giờ hoạt động có chủ đích. Trẻ nhỏ chưa có thới quen ngồi học, sự tập trung chưa cao, có thể xẩy ra nhiều tình huống không mong muốn như: “ Cô nói, hát, đọc thơ, kể chuyện cho trẻ nghe nhưng trẻ chú ý đến sự vật khác, hoặc cô bảo trẻ làm cùng cô, thì trẻ không chịu mà làm theo ý trẻ, hoặc chạy ra ngoài, có thể trong giờ học nhớ mẹ nhỏng nhẻo khóc nhè, không chịu hợp tác cùng cô...” Với những tình huống này xẩy ra cô không mắng mỏ, quát nạt trẻ, tránh dùng những từ như “phạt”, “la trẻ”… Bởi vì tính kỉ luật xuất phát từ mong muốn, sự 9 tự giác của trẻ. Hãy tập cho trẻ từ từ có thói quen, nề nếp học tập, biết về chỗ ngồi học, nói với trẻ rằng cô giáo rất yêu thương trẻ. Khi trẻ cư xử sai, cô giáo không thích hành động của trẻ chứ không phải không thích bản thân trẻ. Đừng để trẻ hiểu lầm rằng, cô giáo luôn luôn ghét trẻ, không muốn trẻ làm điều này điều nọ mà phải giải thích tường tận cho trẻ hiểu.Trong hoạt động chơi tập có chủ định được tiến hành vào thời điểm buổi sáng. Cô nên sắp xếp tạo cho trẻ được tham gia chơi, tập có chủ định với các nội dung hoạt động khác nhau, các hoạt động phải có nội dung phát triển phù hợp và gây hứng thú với trẻ, đồ dùng đồ chơi đẹp, từ nhiều nguyên vật liệu để thu hút trẻ tham gia Rèn nền nếp thói quen trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ thông qua hoạt động phát triển vận động thô, vận động tinh: Với những động tác, cách chơi đơn giản đơn giản giúp trẻ phát triển các nhóm cơ. Tập những bài tập vận động cơ bản như: “ Đi trong đường hẹp, đi chạy theo tín hiệu, bước qua vật cản, chơi với bóng, bò chui qua cổng…” Bài tập 2. Đi chạy theo tín hiệu * Mục đích: Trẻ chú ý lắng nghe cô nói, biết đi chạy theo tín hiệu của cô, trẻ biết khi đi chạy giữ thăng bằng, biết phối hợp chân tay nhịp nhàng, không xô đẩy bạn, vui vẻ, tích cực, mạnh dạn tham gia vào hoạt động. * Chuẩn bị: Xắc xô, phòng học thoáng mát * Tiến hành: Cô cho trẻ nghe âm thanh của xắc xô, hỏi trẻ đoán xem đó là tiếng của nhạc cụ gì? Cô giới thiệu trẻ biết trò chơi “Đi, chạy theo tín hiệu” - Cô làm mẫu cho trẻ xem. Khi nghe xắc xô vỗ chậm thì đi, khi nghe xắc xô vỗ nhanh thì chạy. Cô đi, chạy theo tiếng xắc xô vỗ nhanh, vỗ chậm - Cô cho một trẻ thực hiện cho các bạn xem lại, sau đó cô luyện tập với nhiều hình thức tốp, nhóm. Trong khi trẻ luyện tập cô nhắc trẻ tthực hiện đúng động tác đi, chạy, chú ý lắng nghe tín hiệu của cô. Những lần tập sau cô thay đổi cho trẻ nghe âm thanh trống để thực hiện đi, chạy theo tín hiệu - Khi trẻ thực hiện thành thạo cho trẻ chơi thi đua, cô nâng yêu cầu của trò chơi. 10 Như trong giờ hoạt động “Bé chơi với hoa, quả…” Cô tập cho trẻ nói về màu sắc của hoa, quả, vẻ đẹp của bông hoa để thu hút trẻ vào chơi với hoa, quả bằng nhiều hình thức: ( Nhặt hoa, quả, xâu hoa, quả, gắn hoa, quả, xếp hoa, quả…) Bài tập 3. Bé chơi với hoa * Mục đích: + Trẻ biết về chỗ ngồi học và chú ý lắng nghe cô + Biết nhặt hoa, gắn hoa, xâu hoa, xếp hoa + Vui vẻ mạnh dạn tham gia hoạt động * Chuẩn bị: Các loại hoa đủ màu có lỗ, dây xâu, cành cây * Tiến hành: Thu hút trẻ - Cô cho trẻ chơi “Gieo hạt” Cô nói và làm các động tác minh minh họa cho trẻ làm theo. (Gieo hạt, nảy mầm, 1 lá, 2 lá, 1 nụ, 2 nụ, 1 hoa, 2 hoa, gió thổi, cây đung đưa, gió thổi mạnh, hoa rụng, nhiều hoa…) Cho trẻ nhặt hoa rụng - Cô nói về màu sắc của những bông hoa, sau đó hướng dẫn trẻ chia làm nhiều nhóm chơi, nhóm chơi gắn hoa và cành lại với nhau để thành cây hoa, nhóm chơi xâu hoa, nhóm chơi xếp hình hoa… Trong mọi hoạt động nào cô cũng đều tham gia chơi cùng trẻ, là người hướng dẫn, là người bạn học cùng trẻ, tập trẻ thói quen tập trung nghe cô nói, làm theo yêu cầu của cô, quen với những thủ thuật sư phạm của cô. * Với bài tập 1 khảo sát trẻ đạt và chưa đạt - Đạt: Trẻ biết về chỗ ngồi và lắng nghe, hưởng ứng khi nghe cô hát, trả lời câu hỏi đơn giản của cô, thích nghe nhạc, thích chơi với nhạc cụ; vui vẻ, thích thú khi đi học. - Chưa đạt: Trẻ chưa biết về chỗ ngồi học, chưa tập trung lắng nghe cô hát, chưa vui vẻ khi đi học 1.2. Hoạt động ngoài trời Hoạt động ngoài trời là một hoạt động không thể thiếu trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Bởi thông qua đó, trẻ được rèn luyện sự mạnh dạn, tự 11 tin, vui vẻ , tăng cường kỹ năng giao tiếp khi tham gia các hoạt động, vì trẻ được tiếp xúc với nhiều anh chị lớp mẫu giáo, gần gũi với thiên nhiên, hít thở bầu không khí trong lành, đồng thời được vui chơi, khám phá, thoả mãn trí tò mò của trẻ. Một lợi ích quan trọng của hoạt động ngoài trời là tăng cường kĩ năng giao tiếp của trẻ. Trẻ sẽ được tiếp xúc, làm quen, trò chuyện, trao đổi với các bạn trong lớp, từ đó giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Ngoài ra, trẻ sẽ dễ dàng thích nghi, hòa nhập khi đến các môi trường khác. Đặc biệt trong giai đoạn bé đi nhà trẻ là giai đoạn phát triển quan trọng trong cuộc đời của trẻ. Ở giai đoạn này, trẻ hình thành, phát triển giao tiếp xã hội, phát triển về mặt tư duy, trí tuệ, thể chất và nhiều kĩ năng khác. Nếu không được tham gia các hoạt động ngoài trời, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý, tình cảm, kỹ năng giao tiếp của trẻ, có thể khiến trẻ mất tự tin, thiếu sự linh hoạt, khó hòa đồng với bạn bè, với mọi người và thế giới xung quanh. Hoạt động ngoài trời giúp trẻ nhận biết và làm quen với môi trường và cuộc sống xung quanh…Có thể nói, khi trẻ tham gia các hoạt động ngoài trời, khi trẻ đùa nghịch, cười nói, chạy nhảy… thực chất là trẻ đang khám phá, học hỏi và là cơ hội phát triển tốt nhất những cảm xúc tích cực của mình. Bên cạnh đó, các hoạt động này giúp trẻ phát triển về mặt thể chất, vận động, giúp trẻ tiêu hao năng lượng, do đó trẻ sẽ ăn ngon, ngủ ngon hơn, việc chạy nhảy, vui đùa, hít thở không khí trong lành sẽ giúp cho đầu óc thoải mái, sảng khoái hơn, trẻ sẽ tiếp thu các bài học trong lớp một cách dễ dàng hơn. Từ những tiêu chí trên, tôi đã lựa chọn cho trẻ được quan sát, tham quan những đồ chơi trong sân trường, cây xanh, vườn cổ tích, các phòng làm việc, lớp học của các anh chị mẫu giáo…Cô tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi như: “ Tìm về đúng nhà, gà trong vườn rau, bé góp vui…Trò chơi dân gian: Lộn cầu vồng, Nu na nu nống, Kéo cưa lừa xẻ, Chi chi chành chành, Tập tầm vông; Dung dăng 12 dung dẻ; Cưỡi ngựa nhong nhong, Tập tầm vông…” Ở độ tuổi này cô giáo thường tham gia chơi cùng trẻ. Giáo viên cần nắm vững cách chơi, luật chơi, hình thức chơi, đặc điểm của từng trò chơi, có thể sáng tác lời từng trò chơi để thu hút trẻ, từ đó lựa chọn địa điểm cho phù hợp trước khi tổ chức cho trẻ chơi, cần phân nhóm trẻ và quan tâm đến từng cá nhân trẻ cá biệt, trẻ còn nhút nhát, không chịu chơi, hay còn sợ sệt để động viên khuyến khích trẻ tham gia hoạt động cùng các bạn, cùng cô. Bài tập 4. Tổ chức hoạt động ngoài trời Hoạt động có chủ đích: Quan sát đồ chơi trong sân trường * Trò chơi vận động: + Bé góp vui +Tìm về đúng nhà * Mục đích: Nhằm thay đổi trạng thái cho trẻ, tập trẻ làm quen với không khí thiên nhiên, tạo điều kiện để trẻ thỏa mãn nhu cầu vận động, củng cố mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ tên gọi và công dụng của các loại đồ chơi ngoài trời - Trẻ biết quan sát các đồ chơi, mạnh dạn tham gia vào các trò chơi vận động, trò chơi tự do và tạo ra được 1 số sản phẩm đơn giản - Trẻ vui vẻ, mạnh dạn, tích cực tham gia vào hoạt đô ̣ng, không tranh giành đồ chơi với bạn và biết vâng lời cô giáo * Chuẩn bị - Xắc xô, bóng, xốp, chong chóng, xe, thau nước, các loại vòng, tháp … các bình tưới cây - Địa điểm: Sân sạch, thoáng mát để trẻ hoạt động * Tiến hành a) Dặn dò trẻ trước khi ra sân * Hôm nay ra sân chơi, đầu tiên cô và các con sẽ cùng nhau quan sát một số đồ chơi trong sân trường, tiếp theo cô sẽ cho các con cùng chơi 2 TCVĐ: + Bé góp vui + Tìm về đúng nhà 13 - Cuối cùng các con sẽ được chơi tự do với các đồ chơi có sẵn trong sân trường và các đồ chơi cô đã chuẩn bị. Trong khi chơi các con phải vâng lời cô, không xô đẩy, tranh giành với bạn nhé - Cô cho trẻ ra sân chơi. b) Tổ chức cho trẻ hoạt động * Hoạt động có chủ đích - Quan sát bàn ghế Cô cùng trẻ quan sát bàn ghế trong sân trường Cô chỉ vào từng đồ dùng và hỏi trẻ? + Đây là cái gì? + Dùng để làm gì? Cuối cùng cô khái quát: Đây là cái bàn, ghế, được làm bằng đá cứng, bàn dùng để sách vở, đồ ăn, đồ chơi...ghế dùng để ngồi rất là thích * Trò chơi vận động - Bé góp vui +Cách chơi: Cô và trẻ vừa hát vừa làm các động tác minh họa cho lời bài hát để trẻ làm theo: (Bé góp vui xin vỗ đôi tay, xin vỗ đôi tay - vỗ vỗ vỗ. Bé góp vui xin vỗ đôi chân, xin vỗ đôi chân - vỗ vỗ vỗ Bé góp vui xin cười ha ha, xin cười ha ha – ha ha ha... ) + Luâ ̣t chơi: Nếu trẻ nào làm minh họa không đúng với lời hát của cô cho trẻ chơi lại - Tìm về đúng nhà - Cách chơi: Cô vẽ mô hình mô ̣t ngôi nhà, cô và trẻ cùng đi chơi, vừa đi vừa hát: (Đi chơi đi chơi, nào các bạn ơi! Cùng đi chơi nhé, dạo quanh sân trường, trời tối rồi về nhà ngủ). Cô và trẻ chạy nhanh về nhà giả vờ ngủ - Luật chơi : Nếu hát đến câu, "Trời tối rồi về nhà ngủ" mà trẻ nào chưa chạy về nhà ngủ thì trẻ đó cô cho trẻ chơi lại * Chơi tự do 14 - Cô cho trẻ chơi những đồ chơi có trên sân trường, và giới thiệu thêm 1 số đồ chơi cô đã chuẩn bị sẵn (Bóng, xốp, xe, chong chóng, lá, thau nước, cát khô, cát ướt, bình tưới cây, tháp, vòng...) - Trong khi trẻ chơi cô bao quát và tham gia cùng chơi với trẻ, gợi ý, hướng dẫn cho trẻ chơi và tạo ra sản phẩm. * Kết thúc - Cuối giờ cô tập trung trẻ lại tuyên dương và nhận xét * Với bài tập 4 khảo sát trẻ đạt và chưa đạt: - Đạt: Trẻ hứng thú và tích cực tham gia vào các hoạt động, biết quan sát các đồ chơi, mạnh dạn tham gia vào các trò chơi vận động, trò chơi tự do và tạo ra được 1 số sản phẩm đơn giản. Trẻ vui vẻ, mạnh dạn, tích cực tham gia vào hoạt đô ̣ng, không tranh giành đồ chơi với bạn và biết vâng lời cô giáo. - Chưa đạt: Trẻ còn rụt rè chưa chịu ra sân hoạt động cùng cô và các bạn, chưa chịu tham gia vào các hoạt động do cô tổ chức 1.3. Hoạt động góc Trẻ Mầm non nói chung và trẻ 18 - 24 tháng tuổi nói riêng đến lớp trẻ được hoạt động dưới nhiều hình thức: “Học mà chơi, chơi bằng học”, học ở mọi lúc mọi nơi. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng của việc rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày để trẻ vui vẻ và mạnh dạn hơn thì bản thân tôi không ngừng sưu tầm những nguyên vật liệu sẵn có để trang trí lớp, các góc chơi, làm đồ dùng, đồ chơi đảm bảo tính thẩm mĩ, sáng tạo hấp dẫn, đảm bảo tính an toàn, màu sắc rực rỡ thu hút trẻ, gần gũi với môi trường xung quanh trẻ, sử dụng hợp lí, phù hợp với nội dung, với độ tuổi. Đồ dùng, đồ chơi sắp xếp gọn gàng, vừa tầm với trẻ dễ thu hút trẻ vào các hoạt động một cách thoải mái và vui vẻ. Trẻ mới đến lớp đang còn khóc vì nhớ bố, mẹ, nhớ người thân...tôi có thể bế trẻ đến các góc thư viện cho trẻ xem tranh vẽ cảnh cô và các bạn đang xếp nhà cho búp bê. Để trẻ tập trung vào xem tranh mà quên đi nỗi nhớ nhà thì tôi có thể đàm thoại với trẻ, chỉ vào hình ảnh và nói với trẻ: “Ôi ! Tranh đẹp quá, tranh vẽ về ai đây? Còn đây là ai? Cô giáo và các bạn đang làm gì? Con thấy các bạn 15 chơi có vui không? Bây giờ, cô và con qua góc xây dựng cùng chơi xếp nhà cho em búp bê nhé!” Hoặc cô bế trẻ tới góc âm nhạc dỗ trẻ nín bằng cách cho trẻ nghe các âm thanh phát ra từ nhạc cụ, chơi những dụng cụ âm nhạc như: Gáo dừa, xúc xắc, trống, thanh gõ…Từ việc chú trọng đến đồ dùng, đồ chơi trang bị cho trẻ hoạt động trong ngày giúp trẻ hứng thú hơn, tăng phần tích cực, tạo cho trẻ có giờ hoạt động sinh động hơn và hứng thú hơn. Đây cũng là yếu tố góp phần quyết định chất lượng và khả năng tham gia hoạt động của trẻ đạt kết quả cao hơn Muốn giờ hoạt động góc trong ngày đem lại hiệu quả cao, giúp trẻ vui vẻ, tự tin và hứng thú thì cô giáo hãy cho trẻ được quyền lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn góc chơi của mình, chứ không phải cô giáo ép trẻ phải chơi ở góc này, trẻ khác phải chơi ở góc khác. Kỷ luật không phải là trò chơi tranh giành quyền lực nên không cần đặt ra vấn đề thắng hay thua. Cô giáo mong trẻ nghe lời, thực hiện một cách tự giác những kỷ luật đã được đặt ra, thì cũng cần cho trẻ được nói ra những bất đồng hoặc ý kiến riêng của trẻ. Kể cả khi trẻ gây ra lỗi gì đó, hoặc đang chơi ở góc này chạy tới góc khác khi thấy bạn chơi một đồ chơi mới và đẹp. Hãy cho trẻ cơ hội giải thích lý do, việc của cô giáo sau đó là phân tích nhẹ nhàng cho trẻ hiểu để trẻ chấp nhận mà vẫn vui vẻ. Khi trẻ đã lựa chọn cho mình một góc chơi cô vừa hướng dẫn và chơi với trẻ Trẻ rất muốn được tự do hoạt động mà không muốn ai nhắc nhở, nhưng trẻ chơi theo cách riêng của trẻ, có trẻ hiếu động chơi xong là phá hay không đạt đến mục đích chơi. Chính vì vậy để trẻ thực hiện các quy định, nguyên tắc là một điều hết sức khó khăn, đòi hỏi cô giáo phải kiên trì hướng dẫn thật nhẹ nhàng, rõ ràng, cụ thể, không nên nóng vội và đặc việt là phải tham gia chơi cùng trẻ. Ví dụ: Trẻ đang chơi xếp hàng rào cho vườn rau, nhưng có những trẻ cứ muốn đưa hàng rào đi chỗ khác không cho bạn xây. Cô nhập vai chơi cùng trẻ, cô nói: “Các bác xây hàng rào xong chưa?, vườn rau muốn được tươi tốt không bị gà chui vào ăn thì các bác phải xây kín nhé, nếu hở ra là gà chui vào ăn đấy”. Khi đó trẻ sẽ tự thấy cô nói là đúng và mau chóng xây kín hàng rào mà không cần suy nghĩ. 16 Tập và chỉ cho trẻ biết được tên gọi từng góc chơi, mỗi góc có đồ dùng, đồ chơi và cách chơi riêng, từ đó trẻ sẽ tự lựa chọn theo ý thích của trẻ, cô nên khuyến khích trẻ thay đổi các góc chơi để tránh sự nhàm chán, và khi chơi với bạn không tranh dành đồ chơi của bạn, không lấy đồ chơi góc này bỏ vào góc khác... Với trẻ rất muốn được tự do hoạt động mà không muốn ai nhắc nhở, nhưng trẻ chơi theo cách riêng của trẻ, có trẻ hiếu động chơi xong là phá hay không đạt đến mục đích chơi. Chính vì vậy để trẻ thực hiện các quy định, nguyên tắc là một điều hết sức khó khăn, đòi hỏi cô giáo phải kiên trì hướng dẫn thật nhẹ nhàng, rõ ràng, cụ thể, không nên nóng vội và đặc biệt là phải tham gia chơi cùng trẻ. Vậy muốn mọi hoạt động trong ngày đem lại hiệu quả cao, giúp trẻ vui vẻ, tự tin và hứng thú thì giáo viên hãy cho trẻ được quyền lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Bài tập 5. Trẻ hoạt động góc ( Bé làm người lớn) * Mục đích: Rèn trẻ sự mạnh dạn lựa chọn góc chơi, Biết làm theo sự chỉ dẫn của cô, thể hiện được vai chơi của mình, vui vẻ khi chơi với bạn. Trẻ biết chơi cùng bạn, không tranh giành đồ chơi của bạn. Thông qua hoạt động, trẻ biết được một số công việc khác nhau qua các vai chơi. * Chuẩn bị: - Đồ chơi nấu ăn: lò, nồi, chảo, ấm, rổ, sữa, giường, tủ, bàn ghế… - Búp bê các loại - Các loại rau, củ, quả - Cá, tôm, cua bằng nhựa - Các con vật nuôi trong gia đình bằng xốp bitis, bằng giấy * Tiến hành: Cô tiến hành cho trẻ hoạt động sau khi trẻ chọn góc chơi. Nếu trẻ không tự chọn cô gợi ý và hướng dẫn trẻ. - Chơi trò chơi mẹ con, tập làm chị, cô bán hàng 17 - Cô gợi ý để trẻ tự chọn vai chơi và tập cho trẻ cách thức chơi. Trong khi trẻ chơi cô quan sát, gợi ý mở rộng nội dung chơi cho trẻ, giúp trẻ thể hiện mối quan hệ giữa các vai chơi. Ví dụ: Cô đặt câu hỏi: + Mẹ đi chợ mua được một số con vật gì? Cô giả vờ tiếng khóc của em búp bê. Em búp bê đã đói và buồn ngủ rồi, bây giừo cac con hãy cho búp bê uống sữa và ru búp bê ngủ + Con đang làm gì? (Cho búp bê ăn gì) + Cô hướng dẫn cho trẻ bế em búp bê và ru em ngủ, vừa ẩm đung đưa vừa hát “ à ơi, à ơi…). Nếu trẻ chưa thể hiện được vai chơi thì cô gợi ý trẻ thể hiện đúng vai chơi của mình. Cô cùng chơi với trẻ 1.4. Giờ đón, trả trẻ Như chúng ta đã biết: Trẻ ở độ tuổi 18 - 24 tháng chưa rời khỏi bàn tay ấp ủ yêu thương của người mẹ... vì thế trẻ mang đến trường, đến lớp một tâm trạng vừa bỡ ngỡ lạ lẫm, vừa lưu luyến nhớ gia đình. Thậm chí có trẻ còn sợ hãi khóc lóc, la hét, không ăn, không ngủ ... Vì tuổi này trẻ còn rất bé, rất thích được yêu thương vỗ về và sống nhiều về tình cảm. Vì vậy rất cần sự âu yếm, nhẹ nhàng của cô giáo nhất là những ngày đầu trẻ mới nhập lớp, cô phải làm sao để trẻ có thể cảm nhận sự ấm áp khi cô ẫm bế trẻ, được nguồn hạnh phúc, được an toàn, được quan tâm và được yêu mến. Có thể coi là một thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập. Tình cảm của cô đối với trẻ giầu cảm xúc thân thiết, yêu thương như quan hệ mẹ con. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ tạo nên không khí cởi mở, quên mình là người lớn để mình thực sự là người bạn chơi, đồng hành cùng trẻ trong suốt thời gian trẻ ở với cô giáo. Khi trẻ có thói quen, cảm thấy thích thú đi học, cảm tình, có hứng thú với cô. Cô giáo có thể sử dụng nghệ thuật sư phạm của mình để thu hút, lôi cuốn trẻ. Tạo cho trẻ có đầy đủ điều kiện về thể lực, kiến thức 18 đồng thời hình thành và phát triển nhân cách tốt cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững vàng và tự tin hơn. Như thế trẻ dễ nghe theo sự hướng dẫn của cô, biết vâng lời cô một cách thoải mái, vui vẻ hơn khi đến trường, lớp. Để trẻ mới đi học quen được với nề nếp chào hỏi khi đến lớp và khi ra về. Cô phải trao đổi với phụ huynh về lịch sinh hoạt trong một ngày của trẻ ở lớp và yêu cầu phụ huynh cùng phối hợp với cô. Khi trẻ đến lớp, cần nhắc nhở trẻ ạ cô, chào cô, sau đó chào ba mẹ để vào lớp. Nếu trẻ la khóc cô không vội vàng bế trẻ vào ngay mà trò chuyện với trẻ, hoặc chỉ tới một bức tranh hay đồ chơi nào đó giúp thu hút trẻ, để trẻ đỡ khóc hoặc hết khóc cô mới bế trẻ vào tới bức tranh hay đồ chơi đó cho trẻ xem tiếp. Trẻ nín khóc, hay vẻ mặt vui vẻ cô vỗ tay tuyên dương và mời các bạn cùng khen ngợi trẻ. Khi ba mẹ đón cô nhắc nhở trẻ phải biết chào ba mẹ, tạm biệt cô và các bạn để ra về. Bên cạnh đó rèn luyện nề nếp chào hỏi không chỉ thông qua giờ đón, trả trẻ mà còn rèn cho trẻ có thói quen chào hỏi, khi có người lớn, hay bắt cứ người nào khác tới lớp mình. Rèn trẻ thói quen biết chào hỏi còn thông qua các bài hát như: (Đi nhà trẻ, bé ngoan, lời chào buổi sáng; Thông qua bài thơ: Miệng xinh, chào, cô và cháu; Hoặc thông qua câu chuyện: Cháu chào ông ạ!..), qua các bài tập: Cô tận dụng những cơ hội phù hợp để nhắc lại và khen trẻ kịp thời, không những khen những trẻ đi học ngoan, không khóc nhè, mà còn khen trẻ đi học đúng giờ, mặc quần áo, đầu tóc gọn gàng, sạch đẹp. Biết ạ, chào cô, vui vẻ khi đến lớp, không đòi quà… Thông qua các bài hát, bài thơ, câu chuyện và mọi lúc mọi nơi, cũng có thể giúp trẻ có thói quen nề nếp tốt hơn hoặc cô không nên chê trẻ trước tập thể lớp mà nên gần gũi để góp ý nhỏ với trẻ về một số nề nếp chưa tốt, hay trong lớp còn một vài cháu hay nhõng nhẽo không nghe lời cô do sự nuông chiều của ông bà, bố mẹ... tôi dựa vào lúc có điều kiện, trong giờ hoạt 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan