Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn một số biện pháp dạy học tích hợp liên môn trong môn sinh học thcs...

Tài liệu Skkn một số biện pháp dạy học tích hợp liên môn trong môn sinh học thcs

.PDF
26
116
74

Mô tả:

I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1. Lý do chọn đề tài: Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” của Bộ Giáo dục và Đào tạo gồm có 5 phần và 8 phụ lục. Trong đó, có phụ lục 5: “Tích hợp và phân hóa trong giáo dục phổ thông” phần nào thể hiện: Dạy học tích hợp và phân hóa là xu thế tất yếu. Sau khi Quốc hội thông qua Đề án đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông, Bộ GD-ĐT tiếp tục chỉ đạo các cơ sở giáo dục tăng cường bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên sẵn sàng đáp ứng mục tiêu đổi mới, trong đó tăng cường năng lực dạy học theo hướng “tích hợp, liên môn” là một trong những vấn đề cần ưu tiên. Trong những năm vừa qua, ngành Giáo dục đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ để tạo tiền đề cho công cuộc đổi mới. Nhiều mô hình dạy học được áp dụng rộng rãi. Nhiều cuộc thi với tính chất “tích hợp, liên môn” được tổ chức thường niên. Tiêu biểu như cuộc thi “Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn dành cho học sinh trung học” và “Dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn” dành cho giáo viên. Điều đó chứng tỏ “tích hợp, liên môn” đang được triển khai rộng rãi và là xu hướng tất yếu của giáo dục hiện đại. Vậy, “dạy học tích hợp liên môn” là gì? Có ý nghĩa thế nào đối với đổi mới dạy và học? Tại sao “tích hợp, liên môn” là tất yếu?... Đó là những câu hỏi mà không phải bất cứ giáo viên nào cũng trả lời được. Thực tế cho thấy, mặc dù đã áp dụng nhiều lần trong giảng dạy, tuy nhiên đa số giáo viên vẫn “rối như tơ vò” khi dạy “tích hợp, liên môn”. Nhầm lẫn giữa “tích hợp, liên môn” với “tích hợp đa môn” dẫn đến việc dạy học tích hợp không đạt hiệu quả. Ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy và kết quả học tập của học sinh. Đồng thời nảy sinh tâm lý chán nản, chậm thay đổi tư duy muốn “dậm chân tại chỗ” trước công cuộc đổi mới. 1 Nhằm giúp giáo viên hiểu rõ và có cái nhìn đúng đắn về “dạy học tích hợp, liên môn” đồng thời áp dụng vào thực tiễn giảng dạy có hiệu quả, góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Là một giáo viên dạy môn Sinh học, tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học tích hợp, liên môn trong môn Sinh học” đề cập đến những hiểu biết của bản thân về dạy học tích hợp và kinh nghiệm vận dụng vào thực tiễn giảng dạy môn Sinh học. I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: - Giúp giáo viên hiểu rõ bản chất, tính tích cực và tất yếu của dạy học tích hợp, liên môn. - Đề ra một số kinh nghiệm, gợi ý để giáo viên áp dụng tốt dạy học tích hợp, liên môn trong bộ môn Sinh học THCS theo hướng đổi mới. Đồng thời có thể áp dụng cho nhiều môn học khác nhau. - Áp dụng vào thực tiễn giảng dạy nhằm giúp học sinh chủ động, sáng tạo, phát huy tối đa năng lực học tập của học sinh, biết vận dụng kiến thức được học giải quyết các tình huống thực tiễn, để từ đó hình thành sự say mê, hứng thú với bộ môn. Hình thành những kĩ năng sống cơ bản, có phẩm chất, đạo đức phù hợp với con người trong xã hội hiện đại. I.3. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh các khối lớp 6, 7, 8, 9 tại Trường THCS Lê Lợi – Ea H’leo – ĐắkLắk. I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Trong đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. của Bộ Giáo dục và Đào tạo gồm có 5 phần và 8 phụ lục. Trong đó, phụ lục 5: “Tích hợp và phân hóa trong giáo dục phổ thông” nêu rõ quan niệm về dạy học tích hợp như sau: “Tích hợp là một hoạt động mà ở đó cần phải kết hợp, liên hệ, huy động các yếu tố, nội dung gần và giống nhau, có liên quan với nhau của nhiều lĩnh vực để giải quyết, làm sáng tỏ vấn đề và cùng một lúc đạt được nhiều mục tiêu khác nhau”. 2 Dạy học tích hợp là định hướng về nội dung và phương pháp dạy học, trong đó giáo viên tổ chức, hướng dẫn để học sinh biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập; thông qua đó hình thành những kiến thức, kĩ năng mới; phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và trong thực tiễn cuộc sống. Có các dạng dạy học tích hợp sau: a) Tích hợp trong một môn học: cố gắng gắn kết, đảm bảo tính đồng bộ giữa các nội dung có liên quan của các phân môn trong một môn học; hoặc lồng ghép các vấn đề cần thiết nhưng không thành môn học (như các nội dung về môi trường, năng lượng, biến đổi khí hậu, kĩ năng sống, dân số, sức khỏe sinh sản,…) vào nội dung của mỗi môn học tùy theo đặc trưng của từng môn. b) Tích hợp nhiều lĩnh vực thành một môn học với 02 mức độ: Tích hợp cao là tích hợp các kiến thức liên quan tới lĩnh vực khoa học tự nhiên như lý, hóa, sinh thành môn khoa học tự nhiên và các kiến thức về khoa học xã hội như sử, địa, đạo đức, giáo dục công dân thành thành môn Tìm hiểu xã hội hoặc Khoa học xã hội. Mức độ Tích hợp thấp là vẫn giữ các môn riêng, nhưng lựa chọn và sắp xếp các nội dung, chủ đề/ đề tài gần nhau của các môn học này để làm sáng tỏ cho nhau; đồng thời thiết kế các chủ đề dạy học mang tính liên môn. Trong đó mức độ tích hợp cao của phương pháp dạy “tích hợp nhiều lĩnh vực thành một môn học” chưa có chương trình SGK phù hợp để thực hiện Do đó, trong khuôn khổ đề tài và thực tế giảng dạy tại trường cũng như trình độ chuyên môn của bản thân cũng như đặc thù môn học, tôi xin đề cập tới dạng dạy học “tích hợp trong một môn học” và “tích hợp nhiều lĩnh vực thành một môn học” ở “mức độ thấp” áp dụng ở bộ môn Sinh học THCS. I.5. Phương pháp nghiên cứu: 3 - Tìm tòi, nghiên cứu về “dạy học tích hợp, liên môn” từ các thông tin, tài liệu chính thức của Bộ GD&ĐT cũng như các thông tin giải đáp thắc mắc về vấn đề “dạy học tích hợp, liên môn” - Áp dụng các nội dung đổi mới phương pháp dạy học đã được tập huấn, tìm hiểu. - Vận dụng các kĩ thuật dạy học tích cực phù hợp với dạy học tích hợp, liên môn. - Tìm tòi, nghiên cứu các bài viết, tài liệu hướng dẫn, phim minh họa các tiết dạy học tích hợp có hiệu quả - Tham khảo, nghiên cứu các tiến hành dạy học tích hợp của đồng nghiệp và các diễn đàn học tập. II. PHẦN NỘI DUNG II.1. Cơ sở lý luận: Kiến thức của nhân loại chính là hiểu biết của con người về bản thân và thế giới khách quan thông qua quá trình trải nghiệm. Sách là công cụ để con người ghi chép và biểu thị kiến thức mọi mặt của đời sống xã hội. Trải qua lịch sử lâu dài, kho tàng kiến thức của loài người ngày càng trở nên đồ sộ. Những thế hệ đi sau để không tụt hậu, mai một so với thế hệ trước thì cần thông qua giáo dục, học tập mà tiếp cận tri thức nhân loại. Để thuận tiện cho việc truyền đạt kiến thức, và thực chất mỗi con người có một năng lực, sở trường khác, hứng thú khác nhau. Đây là cơ sở để hình thành các môn học khác nhau. Biết được kiến thức thì chưa đủ, kiến thức học được phải được người học ứng dụng, trải nghiệm thực tế thì mới đạt được mục tiêu giáo dục. Muốn làm được điều này, người học phải có và hình thành những kĩ năng sống nhất định. Thực tiễn cho thấy, một vấn đề nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống thông thường liên quan đến rất nhiều lĩnh vực khác nhau, để ứng dụng kiến thức vào giải quyết, trải nghiệm thực tế, đòi hỏi người học phải vận dụng kiến thức học được của nhiều môn học khác nhau. 4 Sinh học là một môn khoa học tự nhiên, gắn liền với thực tiễn cuộc sống. Kiến thức Sinh học liên quan đến sự sống của các sinh vật và gần gũi với con người. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, nghiên cứu và phát triển công nghệ sinh học luôn là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của các quốc gia. Bởi có tầm quan trọng như trên và đặc thù của bộ môn mà kiến thức Sinh học liên quan đến rất nhiều bộ môn khác nhau như: Toán, Lý, Hóa, Sử, Địa, GDCD…, đồng thời được ứng dụng rất nhiều để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. Do đó, để dạy học Sinh học có hiệu quả, đáp ứng được mục tiêu môn học thì cách thức tốt nhất là dạy học “tích hợp, liên môn” Bên cạnh đó, thực tế dạy học hiện nay cho thấy: Các môn học luôn có mối liên hệ với nhau. Tuy nhiên, nhiều nội dung kiến thức còn lặp lại ở các môn học khác nhau, điều này gây nhàm chán cho người học. Đồng thời, dù theo phương pháp dạy học truyền thống hay phương pháp dạy học tích cực thì người giáo viên đã và đang luôn luôn “tích hợp” trong quá trình giảng dạy. Nhưng do chưa có cơ sở lý luận vững chắc và hiểu biết đúng đắn về “tích hợp, liên môn” mà nhiều giáo viên còn mơ hồ về khái niệm “tích hợp” dẫn đến việc ôm đồm, lạm dụng, nhầm lẫn giữa “tích hợp, liên môn” với “tích hợp đa môn”. Ví dụ khi thực hiện bài giảng về chủ đề ảnh hưởng của thuốc lá đối với hệ hô hấp, giáo viên cho rằng đã vận dụng được gần cả chục môn. Chẳng hạn khi đưa ra số liệu thì nói đã tích hợp được môn toán, trình chiếu bài giảng trên máy tính là tích hợp tin học, dùng các từ khóa tiếng Anh là tích hợp ngoại ngữ, thông tin cảnh báo là tích hợp giáo dục công dân… Điều này khiến hiệu quả dạy học đạt được không cao, giáo viên vì “tham” tích hợp quá nhiều môn dẫn đến kiến thức dàn trải, mơ hồ, khó hiểu và không đảm bảo thời lượng tiết dạy. Dẫn đến việc học sinh vừa không nắm được kiến thức trọng tâm của bài học, vừa ít có cơ hội trải nghiệm, kiểm chứng hết những kiến thức được “tích hợp”. Lao động Việt Nam trải qua đào tạo rất giỏi về kiến thức chuyên môn nhưng lại “mù tịt” về thực nghiệm, kém về hợp tác, giao tiếp và làm việc theo nhóm phần nào cho thấy cách giáo dục của chúng ta hiện nay chỉ chú trọng lý 5 thuyết, chưa có sự định hướng, giáo dục đúng đắn để giúp người học hình thành kĩ năng sống, biết ứng dụng kiến thức học được vào thực tiễn. Để đào tạo được những con người XHCN có đầy đủ kiến thức, kĩ năng “đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” thì dạy học “tích hợp, liên môn” là tất yếu. II.2. Thực trạng: a. Thuận lợi – khó khăn: * Thuận lợi: - Được sự giúp đỡ, tạo điều kiện từ phía Ban giám hiệu nhà trường, từ đồng nghiệp và học sinh. - Kiến thức bộ môn Sinh học liên quan đến nhiều môn học khác nhau và gắn liền với thực tiễn cuộc sống, thuận lợi cho việc dạy học “tích hợp, liên môn” - Bản thân luôn có tinh thần học hỏi, cố gắng tìm tòi, nghiên cứu cơ sở lý luận, học tập các nội dung đổi mới PPDH, các kĩ thuật dạy học tích cực. - Phòng GD&ĐT thường xuyên tổ chức các cuộc thi, các nội dung dạy học theo hướng “tích hợp, liên môn”. Thành lập các cụm chuyên môn, cụm tổ bộ môn, có sự chỉ đạo sát sao tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên giao lưu, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm trong công tác giảng dạy. - Tổ chuyên môn trong trường là tổ “liên môn” gồm nhiều môn học khác nhau có nội dung kiến thức liên quan là một thuận lợi để bản thân có thể học hỏi, trao đổi, thảo luận về các nội dung kiến thức trong chương trình. * Khó khăn: - Việc thực hiện “dạy học tích hợp, liên môn” vẫn là một đề tài khá mới mẻ, đa số giáo viên chưa có sự thống nhất về các nội dung và phương pháp tích hợp. - Trình độ nhận thức của học sinh còn khá thấp so với một số khu vực khác trong Huyện, học sinh dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao, một bộ phận học sinh có học lực yếu đồng thời ý thức học tập chưa cao. Chưa có sự cố gắng tiến 6 bộ trong học tập, kiến thức cơ bản chưa nắm vững, “học một môn còn chưa xong” dẫn đến việc tích hợp và vận dụng kiến thức nhiều môn học đạt kết quả chưa mong muốn. b. Thành công – hạn chế: * Thành công: Đã ứng dụng thành công việc dạy học “tích hợp, liên môn” qua một số bài học trong môn Sinh học ở một số khối lớp, thu được những kết quả tích cực: Học sinh nắm vững kiến thức, biết vận dụng kiến thức các môn học để giải quyết vấn đề thực tiễn, hình thành các kĩ năng sống cơ bản, có thái độ yêu thích, hứng thú với bộ môn, chất lượng giáo dục được cải thiện. * Hạn chế: Đề tài chỉ nghiên cứu và áp dụng trên một số tiết dạy với một vài chủ đề. Nhiều chủ đề, bài học chưa thống nhất được nội dung và phương pháp tích hợp. c. Mặt mạnh – mặt yếu: * Mặt mạnh: Đề tài có tính thực tiễn cao, dễ thực hiện, có thể giải quyết được một phần về cơ sở lý luận cho một bộ phận giáo viên. Giúp hoạt động dạy và học gắn liền với thực tiễn cuộc sống. Giáo dục cho học sinh nhiều nội dung cần thiết gắn liền với nội dung môn học, mang lại những kết quả tích cực. * Mặt yếu: Việc ứng dụng đề tài chưa rộng rãi, còn bó hẹp ở phạm vi bản thân. d. Các nguyên nhân – các yếu tố tác động: * Nguyên nhân khách quan: - Giáo viên chưa được trang bị một cách hệ thống, bài bản về dạy học “tích hợp, liên môn”. Việc thực hiện chủ yếu dựa trên hiểu biết, tìm tòi, nghiên cứu của bản thân, chưa có hướng dẫn chi tiết, và nội dung tích hợp cụ thể cho các chủ đề của môn học. - Chương trình SGK hiện hành chưa được bố trí thật sự phù hợp cho dạy học “tích hợp, liên môn”. Nhiều nội dung kiến thức của các môn học khác như Vật lý, Hóa học cần thiết được vận dụng để giải quyết mục tiêu bài học nhưng học sinh lại chưa được học, dẫn đến việc chồng chéo giữa các môn học, làm 7 giảm thời lượng học sinh trải nghiệm, vận dụng kiến thức vì mất thêm thời gian cung cấp thông tin cho học sinh. - Việc kiểm tra, đánh giá đặc biệt là việc ra đề trong các kỳ thi hiện nay còn mang nặng tính lý thuyết đơn môn, các câu hỏi thực tiễn đòi hỏi học sinh vận dụng kiến thức nhiều môn khác nhau để giải quyết chưa nhiều. Nội dung kiểm tra thực hành còn ít. - Nhiều kiến thức trong chương trình SGK còn mang nặng tính hàn lâm, học sinh khó kiểm nghiệm trong thực tế, nội dung kiến thức còn dàn trải, nặng nề. * Nguyên nhân chủ quan: - Hiểu biết về bản chất, tính tích cực, tất yếu của dạy học “tích hợp, liên môn” của một bộ phận giáo viên còn hạn chế. - Một bộ phận giáo viên chậm đổi mới, tư duy chưa thay đổi và chưa có sự đầu tư, nghiên cứu xác định đúng đắn các nội dung tích hợp. - Nhiều học sinh quen cách “học thuộc, học vẹt”, thuộc lòng lý thuyết nhưng không hiểu nên không vận dụng để giải quyết được các vấn đề đặt ra trong mục tiêu bài học. e. Phân tích, đánh giá các vấn đề mà thực trạng đề tài đã đặt ra: Việt Nam là một quốc gia có nguồn lao động dồi dào, số lượng người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao. Hiện nay, dân số Việt Nam đang ở thời kỳ “dân số vàng” (Người trong độ tuổi lao động nhiều gấp đôi người ngoài độ tuổi lao động), giá thành lao động, nhân công tương đối rẻ. Với những lý do trên. Việt Nam là mảnh đất màu mỡ cho các nhà đầu tư. Cơ cấu “dân số vàng” chỉ kéo dài tối đa 40 năm. Đất nước trong thời kỳ “dân số vàng” chính là cơ hội để xây dựng và phát triển đất nước. Nhiều nước châu Á đã “hóa rồng” trong thời kỳ “dân số vàng” của họ. Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều chuyên gia. Mặc dù đang trong thời kỳ “dân số vàng” nhưng tiềm năng lao động của nước ta lại “chưa vàng”. Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng trên là do lao động Việt Nam thiếu kĩ năng. Để minh chứng cho vấn đề trên, xin phép trích dẫn “Báo cáo phát triển 8 Việt Nam 2014” do Ngân hàng Thế giới công bố với tựa đề "Phát triển kỹ năng: Xây dựng lực lượng lao động cho một nền kinh tế thị trường hiện đại ở Việt 9 Nam" 10 11 Hình ảnh thống kê trên cho thấy, lao động Việt Nam hoàn toàn có đủ kiến thức lý thuyết, tuy nhiên lại thiếu kĩ năng. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, một nguyên nhân quan trọng là do người lao động chưa được hướng dẫn, học tập, trải nghiệm thực tế để hình thành và phát triển kĩ năng, bắt đầu ngay từ những cấp học đầu tiên. Để khắc phục thực trạng trên, cần có những thay đổi, đổi mới trong phương pháp giáo dục ở các cấp học, trong đó phương pháp dạy học theo hướng “tích hợp, liên môn” giúp học sinh được giáo dục các kĩ năng sống, vận dụng kiến thức học được giải quyết các vấn đề thực tiễn qua các hoạt động trải nghiệm là một đòi hỏi tất yếu. Tuy nhiên, nhận thức được là một chuyện, còn thực hiện lại là một quá trình lâu dài và phức tạp, thực tế hiện nay cho thấy: Mặc dù đã được triển khai qua vài năm với nhiều hình thức và cuộc thi khác nhau, lượng giáo viên và học sinh tham gia cũng rất đông. Thế nhưng nhiều giáo viên và học sinh vẫn đang “rối như tơ vò” quanh chủ đề “tích hợp, liên môn”. Theo kết quả báo cáo “Đề tài nghiên cứu Xây dựng một số chủ đề tích hợp trong dạy học kiến thức khoa học tự nhiên - chương trình THCS” của nghiên cứu sinh Trương Thị Thanh Mai, giảng viên trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng thực hiện ở Đà Nẵng thì: “có 9% giáo viên chưa biết nhiều về dạy học tích hợp, chủ yếu giáo viên mới ra trường. Nhưng có 40% giáo viên nhầm lẫn khái niệm tích hợp liên môn với tích hợp đa môn. Hơn 46% cho rằng để hiểu nhiều hơn về tích hợp, phải tìm hiểu thêm từ nhiều nguồn thông tin khác nhau”. Hay như đại diện sở GD&ĐT TP Hồ Chí Minh cũng đưa ra nhận xét về việc thực hiện dạy học tích hợp: “Chúng tôi cũng đã phổ biến đến các cụm chuyên môn, trường THPT, các phòng giáo dục. Nhưng thật tình để giáo viên hiểu được cũng còn nhiều khó khăn”. Điều này dẫn đến việc thực hiện “tích hợp, liên môn” trong dạy học chưa có sự đồng bộ. Ngoài ra, chương trình SGK hiện hành chưa thích hợp để dạy học “tích hợp, liên môn” có hệ thống và hiệu quả. Một số nội dung kiến thức lặp lại giữa các môn học khác nhau, một số kiến thức thuộc bộ môn này học sinh chưa được học nhưng lại cần thiết để vận dụng, giải quyết mục tiêu bài học ở bộ môn khác. 12 Bên cạnh đó, bản thân học sinh vốn thiếu hụt về kĩ năng, lại chưa hình thành sự hào hứng, tích cực cần thiết để vận dụng kiến thức nhiều môn học khác nhau. Tâm lý “học thuộc”, “học vì kiểm tra”, “vì điểm số” tồn tại, ăn sâu trong một bộ phận không nhỏ học sinh và phụ huynh. Như vậy, có thể thấy rằng để dạy học “tích hợp, liên môn” đạt hiệu quả, còn nhiều điều cần giải quyết. II.3. Giải pháp, biện pháp: a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp: - Nhận thức rõ được ưu, khuyết điểm của dạy học “tích hợp, liên môn” - Áp dụng PPDH “tích hợp, liên môn” trong bộ môn sinh học THCS. - Đưa ra những kinh nghiệm, ý tưởng và cách thức tiến hành để dạy học “tích hợp, liên môn” đạt hiệu quả. - Vận dụng có hiệu quả dạy học “tích hợp, liên môn” trong giảng dạy và kiểm tra đánh giá. - Thông qua dạy học “tích hợp, liên môn”, hình thành cho học sinh các kĩ năng sống, giáo dục ý thức, biết vận dụng kiến thức học được vào thực tiễn cuộc sống. - Nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: Để có thể áp dụng dạy học “tích hợp, liên môn” đạt hiệu quả trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần: b.1. Hiểu rõ khái niệm dạy học “tích hợp, liên môn”: Như đã trình bày ở trên, sở dĩ dạy học “tích hợp, liên môn” gặp nhiều khó khăn có một phần nguyên nhân từ chính giáo viên giảng dạy chưa hiểu rõ “tích hợp, liên môn” là gì? Nhầm lẫn giữa “tích hợp, liên môn” với “tích hợp đa môn” khiến việc áp dụng không có hiệu quả. Không ít giáo viên cho rằng: “Tích hợp, liên môn” là dạy cho học sinh kiến thức của các môn học khác nhau. Bởi vậy mà có giáo viên “tích hợp” gần cả chục môn học khác nhau trong một tiết học: Đưa ra các số liệu thống kê là tích hợp Toán học; tạo bài giảng trình chiếu là tích hợp Tin học; trình bày các slide là tích hợp Ngữ văn; sử dụng một số từ 13 ngữ chuyên môn bằng tiếng Anh là tích hợp Ngoại ngữ; viết phương trình hóa học là tích hợp Hóa học; đưa vào bài giảng một số hiện tượng vật lý có liên quan là tích hợp Vật lý, đưa là các thông tin cảnh báo là tích hợp Giáo dục công dân… Do đó, để có thể dạy học “tích hợp, liên môn”. Giáo viên cần hiểu rõ khái niệm “tích hợp, liên môn” là gì. Để có một sự nhìn nhận đúng đắn về “tích hợp, liên môn”. Xin trích dẫn nguyên văn một phần bài báo đăng bài viết của phó Vụ trưởng vụ Giáo dục trung học (Bộ GD&ĐT) Nguyễn Xuân Thành gửi tới báo điện tử VietNamNet ngày 08/12/2014 với tiêu đề “Phó Vụ trưởng gỡ rối dạy học tích hợp, liên môn”, trả lời câu hỏi của giáo viên: “Dạy học tích hợp, liên môn xuất phát từ yêu cầu của mục tiêu dạy học phát triển năng lực học sinh, đòi hỏi phải tăng cường yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Khi giải quyết một vấn đề trong thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên và xã hội, đòi hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp, liên quan đến nhiều môn học. Vì vậy, dạy học cần phải tăng cường theo hướng tích hợp, liên môn như bạn hỏi. Dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học các môn học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông... Còn dạy học liên môn là phải xác định các nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học để dạy học, tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau. Đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thể bố trí dạy trong chương trình của môn đó và không dạy lại ở các môn khác. 14 Trường hợp nội dung kiến thức có tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành các chủ đề liên môn để tổ chức dạy học riêng vào một thời điểm phù hợp, song song với quá trình dạy học các bộ môn liên quan”. Như vậy, dạy học “tích hợp, liên môn” không phải là dạy cho học sinh kiến thức nhiều môn học khác nhau trong một bài học, mà là đưa những nội dung giáo dục có liên quan gắn liền với thực tiễn cuộc sống vào trong quá trình dạy học. Chủ động hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức nhiều môn học khác nhau để giải quyết các tình huống mà đạt mục tiêu bài học. b.2. Xác định rõ ưu, nhược điểm của dạy học “tích hợp, liên môn” từ đó vận dụng một cách hiệu quả, hợp lý, phù hợp với các chủ đề dạy học: Cũng trong bài viết của phó Vụ trưởng vụ Giáo dục trung học (Bộ GD&ĐT) Nguyễn Xuân Thành gửi tới báo điện tử VietNamNet ngày 08/12/2014 với tiêu đề “Phó Vụ trưởng gỡ rối dạy học tích hợp, liên môn”, nêu rõ ưu, nhược của PPDH này: - Ưu điểm với học sinh: “Trước hết, các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn đối với học sinh, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn”. - Ưu điểm với giáo viên: “dạy học theo các chủ đề liên môn không những giảm tải cho giáo viên trong việc dạy các kiến thức liên môn trong môn học của mình mà còn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo viên, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên bộ môn hiện nay thành đội ngũ giáo viên có đủ năng lực dạy học kiến thức liên môn, tích hợp. Thế hệ giáo viên 15 tương lai sẽ được đào tạo về dạy học tích hợp, liên môn ngay trong quá trình đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm”. - Nhược điểm: + Đối với học sinh: Đây là một phương pháp dạy học tích cực, học sinh hàng ngày vẫn phải học kiến thức tổng hợp của nhiều môn học khác nhau. Nên hầu như không có khó khăn gì cho học sinh trong quá trình học tập. Có thể có một chút khó khăn với học sinh yếu nhiều môn, khó có thể vận dụng kiến thức các môn học khác khi mà các em nắm kiến thức chưa vững. Tuy nhiên với học sinh yếu nhiều môn, có thể khắc phục được khi giáo viên kết hợp dạy học “tích hợp, liên môn” với “dạy học phân hóa”. + Đối với giáo viên: Khó khăn lớn nhất với giáo viên là phải tìm hiểu và am hiểu kiến thức nhiều môn học khác nhau. Tuy nhiên, ở bộ môn Sinh học THCS thì vấn đề này có thể khắc phục dễ dàng vì các lý do sau: Bộ môn Sinh học vốn có kiến thức liên quan đến nhiều môn học khác, trong quá trình được đào tạo ở các trường Sư phạm, giáo viên Sinh học vẫn phải học kiến thức các môn học khác như: Toán, Lý, Hóa, Tâm lý, Giáo dục học... nên việc tìm hiểu các kiến thức môn học liên quan không phải quá khó khăn Kiến thức các môn học khác ở cấp THCS là kiến thức cơ bản, không quá phức tạp để giáo viên có thể nghiên cứu, tìm hiểu. Tổ chuyên môn là tổ “liên môn”, thuận tiện cho việc trao đổi học hỏi kinh nghiệm, kiến thức liên quan ở các môn học khác nhau. b.3. Xác định các chủ đề, nội dung tích hợp; các kiến thức liên môn học sinh có thể sử dụng: Không phải bất cứ bài học, chủ đề nào cũng phù hợp để dạy học “tích hợp, liên môn”. Thông thường, dạy học tích hợp nên thực hiện theo từng chủ đề. Các nội dung tích hợp cần được xác định và xuyên suốt các bài học trong chủ đề. Đồng thời cần nắm rõ những nội dung học sinh cần vận dụng kiến thức liên môn để có thể hiểu rõ vấn đề, từ đó đạt được mục tiêu của nội dung tích hợp. 16 Với thực tế giảng dạy của bản thân, xin đưa ra một số chủ đề dạy học tích hợp trong bộ môn Sinh học và các kiến thức liên môn học sinh có thể vận dụng trong chủ đề đó. Ví dụ 1: Chủ đề: Di truyền học người, Sinh học 9 Chủ đề bao gồm 3 bài học, từ bài 28 đến bài 30 (SGK Sinh học 9). Thực hiện trong 3 tiết học. - Các nội dung giáo dục cần thiết có thể tích hợp: + Bảo vệ môi trường, chống gây ô nhiễm. + Bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh. + Giáo dục dân số. + Giáo dục pháp luật Các nội dung giáo dục trên được tích hợp chủ yếu trong 2 bài học: bài 29: Bệnh và tật di truyền ở người; bài 30: Di truyền học với con người. - Các kiến thức liên môn học sinh có thể sử dụng để đạt được mục tiêu giáo dục: + Môn Giáo dục công dân: Vận dụng hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình, Pháp lệnh dân số và chính sách Kế hoạch hóa gia đình được học trong bộ môn để hiểu rõ, giải thích được các quy định, từ đó đạt được mục tiêu giáo dục dân số. + Môn Lịch sử: Vận dụng hiểu biết về các cuộc chiến tranh, các vũ khí, chất độc hóa học được sử dụng để hiểu và giải thích được nguyên nhân làm phát sinh các bệnh và tật di truyền, từ đó đạt được mục tiêu giáo dục yêu hòa bình, chống chiến tranh, có ý thức bảo vệ môi trường và giáo dục pháp luật. Ví dụ 2: Chủ đề: Bảo vệ môi trường, Sinh học 9 Chủ đề bao gồm 5 bài học, từ bài 58 đến bài 62 (SGk Sinh học 9) được thực hiện trong 4 tiết học: - Các nội dung giáo dục cần thiết có thể tích hợp: + Bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm + Giáo dục pháp luật + Sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả 17 + Bảo vệ đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên. Các nội dung trên có thể tích hợp trong hầu hết các bài học có trong chủ đề. - Các kiến thức liên môn học sinh có thể vận dụng: + Môn Lịch sử: Vận dụng kiến thức được học để hiểu rõ các giai đoạn phát triển trong lịch sử loài người. + Môn Địa lí: Vận dụng các kiến thức của bộ môn về các dạng tài nguyên thiên nhiên, các hệ sinh thái ở các khu vực địa lí khác nhau, chu trình tuần hoàn của tài nguyên nước…. để hiểu được các nội dung kiến thức, đồng thời giáo dục, hình thành ý thức sử dụng hợp lý, tiết kiệm các loại tài nguyên; Bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm đất, nước… + Môn Giáo dục công dân: Vận dụng kiến thức bộ môn, hiểu biết về các hành vi vi phạm pháp luật và hậu quả. Từ đó hình thành ý thức nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Ví dụ 3: Chủ đề Hô hấp, Sinh học 8 Chủ đề bao gồm 4 bài học: Từ bài 20 đến bài 23 (SGK Sinh học 8), được thực hiện trong 4 tiết học. - Các nội dung giáo dục cần thiết có thể tích hợp: + Bảo vệ môi trường + Giáo dục rèn luyện thân thể, tập thể dục thể thao + Giáo dục đạo đức: Không sử dụng các chất độc hại cho hệ hô hấp - Các kiến thức liên môn học sinh có thể vận dụng: + Môn Thể dục: Vận dụng hiểu biết, khả năng về các bộ môn thể dục thể thao, ra quyết định chọn bộ môn thích hợp để tập luyện nhằm tăng dung tích sống, rèn luyện hệ hô hấp và cơ thể. + Môn Vật lý: Vận dụng kiến thức bộ môn để giải thích các hiện tượng như: Cơ chế khuếch tán của sự trao đổi khí ở phổi và tế bào, hiện tượng không khí thở ra bão hòa hơi nước. + Môn Hóa học: Hiểu biết về các chất khí: O2, CO2, CO, SOx… b.4. Tổ chức các hoạt động dạy học tích cực, tự lực, sáng tạo: 18 Để đạt được mục tiêu của “dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh”, trong dạy học “tích hợp, liên môn” cần tổ chức, xây dựng các hoạt động học tập phù hợp. Các hoạt động này có thể được thực hiện trong lớp, ngoài lớp, trong trường, ngoài trường, ở nhà và cộng đồng. Ưu tiên các hoạt động thực hành, trải nghiệm và vận dụng kiến thức được học để giải quyết vấn đề. Các hoạt động học tập được sử dụng linh hoạt, phù hợp với điều kiện từng khu vực, từng trường. Không nên rập khuôn máy móc: Hoạt động này phải tổ chức như thế này, không được như thế kia… Ví dụ: Để giáo dục chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình trong chủ đề: Di truyến học người, Sinh học 9 có thể tổ chức các hoạt động học tập như: - Tại lớp: Hiện nay, việc thực hiện các hoạt động học tập tại lớp vẫn là hình thức tổ chức dạy học chủ yếu. Do đó, tại lớp giáo viên có thể tiến hành theo một số hoạt động sau: + Cung cấp các hình ảnh thực tế, các số liệu cụ thể về hậu quả tàn khốc của chiến tranh, ảnh hưởng của chiến tranh đối với con người; Cung cấp các đoạn video, phóng sự về nạn nhân chất độc màu da cam và hậu quả di truyền mà họ phải gánh chịu. + Chia mỗi lớp thành 3-4 nhóm, mỗi nhóm tự tiến hành việc nghiên cứu, thu thập các minh chứng về hậu quả tàn khốc của chiến tranh để lại, đặc biệt là ở Việt Nam, sau đó các nhóm tiến hành thuyết trình bằng powerpoin (đã được học trong môn Tin học) trước cả lớp. Trong quá trình một nhóm trình bày, các nhóm khác có thể tiến hành nếu câu hỏi “chất vấn” những vấn đề nhóm thuyết trình đưa ra mà mình chưa hiểu. Tương tự như vậy với các nhóm còn lại. Giáo viên đóng vai trò hướng dẫn các hoạt động và bổ sung kịp thời các kiến thức cần thiết cho học sinh trong quá trình học sinh thực hiện. - Ngoài nhà trường: Có thể phối hợp với Đoàn Thanh niên, Liên Đội thăm hỏi gia đình có công với cách mạng, gia đình có người là nạn nhân chất độc màu da cam hoặc mắc cách bệnh tật di truyền để học sinh có cơ hội trải nghiệm thực tế về nỗi mất mát, hậu quả của chiến tranh và hậu quả di truyền để lại. 19 b.5. Đưa các tình huống, câu hỏi thực tiễn vào các nội dung kiểm tra yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết và kết hợp đánh giá việc tiếp thu các nội dung giáo dục, hình thành kĩ năng sống của học sinh: Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng của quá trình dạy học. Qua đó, giáo viên kiểm chứng được kết quả giảng dạy của mình thông qua kiến thức kĩ năng mà học sinh hình thành; kiểm chứng được phương pháp giảng dạy của bản thân đã giúp học sinh đạt được mục tiêu bài học, mục tiêu giáo dục hay chưa. Từ đó rút kinh nghiệm và có những điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn giảng dạy. Nên sử dụng những câu hỏi phù hợp với nội dung chủ đề, nội dung giáo dục và gắn liền với cuộc sống cũng như quá trình học tập. Ví dụ: Sau khi thực hiện chủ đề: Di truyền học người, Sinh học 9 có thể kiểm tra, đánh giá học sinh bằng các câu hỏi như: - Qua buổi thăm hỏi gia đình ông Nguyễn Văn A, dựa vào các kiến thức đã được học, em hãy cho biết: + Gia đình ông A bị mắc bệnh và tật di truyền nào? Hậu quả của bệnh và tật di truyền đó? + Nguyên nhân nào khiến gia đình ông A bị mắc các bệnh và tật di truyền đó? + Để không còn những gia đình mắc các bệnh và tật di truyền như gia đình ông A, chúng ta cần có những hành động gì? Hoặc đối với chủ đề: Bảo vệ môi trường, sinh học 9 có thể kiểm tra, đánh giá thông qua tình huống: - Trên đường đi học về, bạn B gặp một người dân C đem rác thải sinh hoạt, túi nilon đổ xuống sông (suối). Dựa trên các kiến thức đã được học, em hãy cho biết: + Rác thải sinh hoạt, túi nilon gây tác hại gì đối với môi trường? + Hành vi của C có đúng với luật bảo vệ môi trường không? Vì sao? + Nếu là bạn B, em sẽ làm gì? 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan