SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“Một số biên phápgiúp học sinh lớp 6 làm tốt văn miêu tả”
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong chương trình Trung học Cơ sở môn Ngữ văn là một trong những môn
Khoa học Xã hội có vai trò rất quan trọng. Môn học này tác động rất sâu sắc đến đời
sống tình cảm, tâm hồn của mỗi con người. Nó hướng con người đến đỉnh cao của
chân, thiện, mỹ; đại thi hào văn Nga: Mắc xim Gocki từng viết: “Văn học giúp con
người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân và làm nảy nở con
người khát vọng hướng đến chân lý”. Văn học “chắp đôi cánh” để các em đến với
mọi thời đại văn minh, để vươn tới tương lai với ước mơ, hoài bão, lý tưởng cao đẹp.
Nhưng từ lâu môn Ngữ văn khiến học sinh có suy nghĩ đó là môn học không dễ đạt
điểm cao, phần tiếng việt khô khan, phần văn dài dòng nên ngại học, ngại viết. Vì thế
đối với với mỗi thầy cô giáo dạy môn ngữ văn, THCS nói chung, và môn ngữ văn 6
nói riêng, ngoài việc cung cấp kiến thức nội dung bài học theo SGK, chuẩn kiến thức
kỹ năng, tài liệu học…còn phải không ngừng tìm tòi, đổi mới sáng tạo phương pháp
giảng dạy để tạo hứng thú cho các em. Song một nhiệm vụ cũng không kém phần
quan trọng nữa là giáo viên dạy ngữ văn ở THCS là: làm thế nào giúp học sinh rèn
luyện tốt kĩ năng làm văn nhất là văn miêu tả.
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy môn Ngữ văn 6 và qua thời gian bồi dưỡng
học sinh giỏi tại trường, tôi thấy học sinh giỏi môn ngữ văn là chỉ có thể đếm trên đầu
ngón tay. Khi chấm bài tập làm văn đa số các em biến bài văn miêu tả thành văn kể
dài dòng, khô khan, vốn từ nghèo nàn. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy
học tập làm văn nhất là văn miêu tả cho học sinh lớp 6? Để tìm câu trả lời cho câu hỏi
này là cả quá trình. Với vai trò là một người giáo viên đứng lớp trực tiếp giảng dạy
các em, tôi đã tìm tòi phân tích thực trạng và lựa chọn: “Một số phương pháp giúp
học sinh lớp 6 làm tốt văn tả”.
II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học đã, đang và sẽ là một trong những yêu
cầu cấp bách của sự nghiệp đổi mới do Đảng, Nhà nước và các cấp ngành Giáo dục
đề ra. Mục tiêu của công cuộc đổi mới phương pháp dạy và học là nhằm đưa ra
những yêu cầu đào tạo con người cho phù hợp với xu hướng chung của thời đại. Mọi
vật đều vận động theo xu hướng thay đổi và không ngừng phát triển. Chính vì vậy,
việc đổi mới công tác giáo dục không chỉ dừng lại ở sự thay đổi cấu trúc nội dung
chương trình SGK mà chúng ta – những người thầy, người cô phải thay đổi cả về
hình thức tổ chức, phương pháp giảng dạy ở tất cả các bộ môn, phân môn nữa. Một
trong những thay đổi đó là đòi hỏi mỗi chúng ta phải thay đổi cả về phương pháp
giảng dạy trên lớp, phương pháp ôn tập cho phù hợp để đạt được hiệu quả giáo dục
cao hơn.
Chương trình Ngữ văn THCS nói chung và chương trình phân môn Tập làm văn
nói riêng là một vòng tròn đồng tâm. Trong đó chương trình Ngữ văn 6 là điều kiện,
tiền đề cho các em học sinh hình thành hệ thống các kiến thức cũng như các kĩ năng,
để các em học tốt hơn ở các lớp trên.Nhất là phân môn tập làm văn luôn chiếm vị trí
quan trọng quyết định đến bài làm của các em học sinh có thể đạt từ yếu lên trung
bình, từ trung bình lên khá và từ khá lên giỏi .
Nh×n nhËn vÊn ®Ò mét c¸ch cô thÓ h¬n chóng ta thÊy r»ng, ch¬ng tr×nh Ng÷
v¨n líp 6 là sự tiếp nối phát triển thể loại văn miêu tả mà các em đã học trong ch¬ng
tr×nh tiÓu häc (lớp 4: miêu tả đồ vật, loài vật, cây cối, phong cảnh; lớp 5: tả cảnh
sinh hoạt), trong quan hệ tương ứng với những gì đã được học về tự sự ở kì I và trong
quan hệ nối tiếp với nội dung miêu tả lớp 9 sẽ được học sau này .Tuy nhiên chương
trình Ngữ văn lớp 6 đòi hỏi các em phải có cách viết trau chuốt hơn, già dặn và sinh
động, hấp dẫn hơn. ĐiÒu ®ã kh«ng thÓ ®i ngay tõ lý thuyÕt sang thùc hµnh ®îc,
bëi t duy cña løa tuæi c¸c em häc sinh líp 6 cßn lµ t duy cô thÓ, c¶m nhËn cßn ®¬n
gi¶n, vèn tõ, vèn hiÓu biÕt phÇn nhiÒu cßn nghÌo nµn…do vËy mµ c¸c em cha cã
nhiÒu vèn tõ, tÝnh h×nh ¶nh, s¸ng t¹o nghÖ thuËt trong viÕt v¨n…Vì thế giáo viên
dạy môn ngữ văn ở cấp THCS cần hình thành và có biện pháp tích cực giúp các em
làm tốt môn tập làm văn nhất là văn miêu tả
2. Thực trạng
Năm học (2014 – 2015), tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn lớp 6A với
30 học sinh. Hầu hết 30 học sinh của lớp 6A tôi phụ trách còn rất nhiều nhược điểm
khi làm bài Tập làm văn nhất là văn miêu tả. Bài viết của các em còn mắc nhiều lỗi
chính tả, chưa xác định được trọng tâm đề bài, có những em thường liệt kê, kể lể dài
dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng. Nhiều em chưa biết dừng lại để tả kĩ một vài chi
tiết cụ thể nổi bật.Thậm chí còn xảy ra tình trạng bịa đặt trong bài làm khiến hình ảnh
miêu tả thiếu chân thực và hết sức vô lí, chẳng hạn như “Đêm cuối tháng cả bầu trời
vằng vặc ánh trăng, chi chít muôn ngàn sao lấp lánh”(“Đêm cuối tháng” thì làm gì có
trăng). Thực trạng học sinh còn nhiều suy nghĩ sai lạc như vậy, đã làm cho tiết Tập
làm văn trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên THCS.
Tõ nh÷ng c¬ së trªn,t«i thiÕt nghÜ: Qu¸ tr×nh rÌn kÜ n¨ng lµm v¨n miªu t¶ cho
häc sinh líp 6 lµ mét viÖc lµm thiÕt thùc. Vì vậy với vai trò, nhiệm vụ của một giáo
viên đang đứng trên bục giảng, tôi mạnh dạn đề ra và vận dụng một số biện pháp để
giúp học sinh học tốt văn miêu tả như sau:
3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề
Xuất phát từ nhận thức vấn đề như trên, trong quá trình giảng dạy phân môn tập làm
văn lớp 6 ở trường THCS tôi đã tiến hành như sau:
Dạy tốt các giờ tập làm văn theo kế hoạch giảng dạy bộ môn dã được ban giám
hiệu kí duyệt.
Khi dạy ôn tập làm văn miêu tả tôi chia theo từng dạng bài, nhóm bài và phân
mảng nội dung kiến thức cụ thể
Rèn các phương pháp, kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh
– Sau dây là một số biện pháp giúp các em học sinh lớp 6 làm tốt văn miêu tả
3.1. Giáo viên phải nắm vững nội dung, chương trình và phương pháp dạy Tập
làm văn:
Dạy như thế nào để học sinh học tốt và nắm vững phương pháp làm văn miêu tả, viết
được những bài văn hay, hấp dẫn sinh động?Đòi hỏi giáo viên giảng dạy môn Ngữ
văn phải nắm vững nội dung chương trình, đồng thời biết chọn và vận dụng phương
pháp phù hợp để truyền thụ kiến thức cho học sinh. Biết được học sinh cần gì, chưa
biết những gì để xác định đúng mục tiêu bài dạy, xác lập được mối quan hệ giữa kiến
thức bài dạy với kiến thức cũ và kiến thức sẽ cung cấp tiếp theo. Cụ thể, giáo viên
cần nắm vững những vấn đề sau :
1. Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 6: Các em bắt đầu làm văn miêu tả
từ học kì II với số tiết Tập làm văn miêu tả 16 tiết. Mục tiêu là trang bị kiến
thức và rèn luyện kĩ năng làm văn, góp phần cùng với các môn học khác làm
giàu vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình
thành nhân cách cho học sinh.
2. Biện pháp dạy học từng kiểu bài:
Trong phần dạy bài mới, giáo viên phải nắm vững trình tự dạy đối với hai loại bài
Tập làm văn: loại bài dạy lý thuyết và loại bài dạy thực hành.
Với bài dạy lý thuyết
Các bài học về văn miêu tả trong sách giáo khoa đều được tiến hành theo mô hình
chung là: Tìm ngữ liệu mẫu -> rút ra kết luận. ->Khắc sâu kiến thức luyện tập củng
cố
Các ngữ liệu mẫu thường được lấy từ các văn bản miêu tả được học đồng thời ở phần
văn. Vì thế khi dạy từng loại bài, giáo viên cần chú ý đến các đối tượng học sinh của
lớp: có nội dung cho học sinh khá, giỏi; có nội dung cho học sinh trung bình, yếu,…
Với loại bài thực hành
Phần thực hành về văn miêu tả gồm viết và trả bài văn miêu tả; luyện nói về
quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả
Với văn miêu tả tôi hướng dẫn các em thực hành tạo lập ba kiểu bài cơ bản sau:
– Tả cảnh ( Tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh sinh hoạt)
– Tả người (Tả chân dung, tả người trong tư thế hoạt động)
– Miêu tả sáng tạo
Ví dụ:
Muốn dạy học sinh làm văn miêu tả đạt yêu cầu thì giáo viên cần biết thế nào là văn
miêu tả, đặc điểm thể loại văn miêu tả, biết yếu tố nào là quan trọng và cần thiết để
giúp học sinh làm được bài văn miêu tả sinh động thông qua quan sát đối tượng miêu
tả (Nội dung này nằm trong bước chuẩn bị bài mới của giáo viên).
3.2. Giáo viên cần giúp học sinh biết cách xác định đúng yêu cầu của đề bài để
xây dựng định hướng làm bài
Xác định yêu cầu đề bài trước khi làm là một trong những kĩ năng rất quan trọng.Nó
giúp các em định hướng đúng đối tượng miêu tả,nội dung và phạm vi bài làm để
tránh được hiện tượng lạc đề xảy ra
*Ví dụ
Đề bài: “Em hãy tả lại quang cảnh sân trường em trước giờ vào lớp
Gv phải hình thành các bước tìm hiểu đề cho học sinh theo thứ tự lần lượt: Mét lµ
thÓ lo¹i; hai lµ néi dung cÇn lµm lµ g× ?; ba lµ ph¹m vi đề bài.
+Thể loại: Miêu tả
+ Nội dung: Cảnh sân trường em trước giờ vào lớp
+ Phạm vi: Trước giờ vào lớp
Giáo viên phải chỉ cho học sinh thấy được đây là một đề văn tổng hợp: VËy thÕ nµo
lµ c¶nh tæng hîp? – Gi¸o viªn chØ râ cho häc sinh thÊy x¸c ®Þnh c¶nh tæng hîp nhê
nh÷ng tõ ng÷ nµo.
Gv giải thích cho học sinh đề tả cảnh tổng hợp nghĩa là: c¶nh gåm nhiÒu c¶nh nhá,
c¶nh lÎ. Nh÷ng c¶nh nhá, cña quª h¬ng,miền quê, hay trường học thêng lµ c¸nh ®ång,
dßng s«ng, con ®êng lµng,sân trường…sau ®ã gióp häc sinh h×nh dung ®îc cô thÓ
vÒ c¶nh miªu t¶ ë thêi gian nµo (mïa nµo) ë kh«ng gian nµo ( c¶nh ®ã nh thÕ nµo)
… ViÖc x¸c ®Þnh ®îc ®óng yªu cÇu cña ®Ò nh ë vÝ dô trªn sÏ gióp c¸c em rÊt
nhiÒu trong viÖc ®Þnh h×nh ®îc ®èi tîng miªu t¶.
3.3. Rèn kĩ năng quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả
1. a. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh
– Đối tượng của bài văn miêu tả là sự vật, thiên nhiên, là con người, cuộc sống con
người. Có thể coi đó là một thế giới phong phú và đa dạng phức tạp đang diễn rất hay
đổi theo từng ngày từng giờ. Tuy vậy không phải tự nhiên mà ta hiểu ngay và nắm
vững đặc điểm của từng sự vật , sự việc, con người để miêu tả đúng bản chất của nó.
Chính vì thế mỗi giáo viên dạy môn Ngữ văn cần phải hình thành ngay từ đầu kĩ năng
quan sát và ghi chép.
– Đối với các em học sinh, khi làm văn miêu tả kĩ năng quan sát và ghi chép cũng
rất cần thiết,tuy nhiên các em không thể có được các kĩ năng đó và sử dung thành
thạo được, tất cả mới chỉ là tập dượt: tập quan sát , tập ghi chép, tập phát hiện ra đặc
điểm nổi bật của các sự vật, hiện tượng. Từ đó có vốn sống phong phú để làm tốt bài
văn miêu tả.
– Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để giúp
người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy, tức là lấy câu văn để biểu
hiện các đặc tính, bản chất của sự vật, giúp người đọc như được chứng kiến tận mắt
sự vật miêu tả. Nên khi dạy văn miêu tả, tôi hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả
theo các trình tự hợp lý như sau:
*Tả theo trình tự không gian:
Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ ngoài vào
trong, từ trái qua phải,… (hoặc ngược lại).
Ví dụ 1: Trong văn bản“ Sông nước Cà Mau”- Ngữ văn 6 tập II, nhà văn Đoàn Giỏi
miêu tả toàn cảnh Cà Mau theo trình tự từ xa đến gần:
“Càng đổ gần về hướng mũi Cà Mau thì sông ngòi, kênh rạch càng bủa giăng chi
chít như mạng nhện. Trên thì trời xanh dưới thì nước xanh, chung quanh mình cũng
chỉ toàn một sắc xanh cây lá. Tiếng rì rào bất tận của những khu rừng xanh bốn mùa,
cùng tiếng sóng rì rào từ biển Đông và vịnh Thái Lan ngày đêm không ngớt vọng về
trong hơi gió muối -thứ âm thanh đơn điệu triền miên ấy ru ngủ thính giác, càng làm
mòn mỏi và đuối dần đi tác dụng phân biệt của thị giác con người trước cái quang
cảnh chỉ lặng lẽ một màu xanh đơn điệu”.
Ví dụ 2: Cũng trong văn bản “ Sông nước Cà Mau”- Ngữ văn 6 tập II, nhà văn
Đoàn Giỏi đã miêu tả cảnh dòng sông và rừng đước Năm Căn theo trình tự từ xa đến
gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể:
“Thuyền chúng tôi chèo thoát qua kênh Bọ Mắt, đổ ra con sông Cửa Lớn, xuôi về
Năm Căn. Dòng sông Năm Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như
thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những
đầu sóng trắng.Thuyền xuôi giữa dòng con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên
bờ, rừng được dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận. Cây đước mọc dài
theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn bằng tăm tắp, lớp này chồng lên lớp kia ôm lấy
dòng sông, đắp từng bậc màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ… lòa nhòa
ẩn hiện trong sương mù và khói sóng ban mai”.
*Tả theo trình tự thời gian
Ví dụ : “Biển đẹp”- Vũ Tú Nam
“Buổi sớm nắng sáng. Những cánh buồm nâu trên biển được nắng chiếu vào hồng rực
lên như đàn bướm múa lượn giữa trời xanh. Lại đến một buổi chiều gió mùa đông bắc
vừa dừng. Biển lặng, đỏ, đầy như mâm bánh đúc, loáng thoáng những con thuyền
như những hạt lạc ai đem rắc lên trên.Rồi một ngày mưa rào. Mưa dăng dăng bốn
phía. Có quãng nắng xuyên xuống biển óng ánh đủ màu:xanh lá mạ,tím phớt,hồng
xanh biếc…Có quãng thâm sì, nặng trịch. Những cánh buồm ra khỏi cơn mưa, ướt
đẫm, thẫm lại, khỏe nhẹ bồi hồi, như ngực áo bác nông dân cày xong ruộng về bị
ướt”
* Tả theo trình tự tâm lí:
Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây cảm xúc
mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả sau. Khi
miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ nên tả những
điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau của đối tượng.
Ví dụ : Nhà văn Đoàn Giỏi miêu tả chợ Năm Căn theo mạch cảm xúc riêng của
mình, qua đó thể hiện niềm tự hào của tác giả về vùng đất trù phú, giàu có nơi tận
cùng phía Nam Tổ quốc:
“Nhưng Năm Căn còn có cái bề thế của một trấn “anh chị rừng xanh” đứng
kiêu hãnh phô phang sự trù phú của nó trên vùng đất cuối cùng của Tổ quốc. Những
bến vận hà nhộn nhịp dọc dài theo sông; những lò than hầm gỗ đước sản xuất loại
than củi nổi tiếng nhất của miền Nam; những ngôi nhà bè ban đêm ánh đèn măngsông chiếu rực trên mặt nước như những khu phố nổi, và nơi đây người ta có thể cập
thuyền lại, bước sang gọi một món xào, món nấu Trung Quốc hoặc một đĩa thịt rừng
nướng ướp kiểu địa phương kèm theo vài cút rượu, ngoài ra còn có thể mua từ cây
kim cuộn chỉ, những vật dụng cần thiết, một bộ quần áo may sẵn hay một món nữ
trang đắt giá chẳng hạn, mà không cần phải bước ra khỏi thuyền. Những người con
gái Hoa kiều bán hàng xởi lởi, những người Chà Châu Giang bán vải, những bà cụ
già người Miên bán rượu, với đủ các giọng nói líu lô, đủ kiểu ăn vận sặc sỡ, đã điểm
tô cho Năm Căn một màu sắc độc đáo, hơn tất cả các xóm chợ vùng rừng Cà Mau”
* Ngoài các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho học sinh
kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,…) để quan sát,
cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
1. Kĩ năng tưởng tượng
Tưởng tượng có vai trò rất lớn trong văn miêu tả.Nó không chỉ là yếu tố tạo nên sự
phong phú trong cho các hình ảnh trong bức tranh miêu tả mà con giúp cho người
làm văn tả tìm được những từ ngữ và các biện pháp nghệ thuật phù hợp để bài văn
hay hơn, sinh động hơn.
*Ví dụ: Trong văn bản “ Cỏ non” của Hồ Phương, Văn học 6 tập 1
“Con Nâu đứng lại. Cả đàn dừng theo. Tiếng gặm cỏ bắt đầu trào lên nhưng một
nong tằm ăn rỗi khổng lồ. Con Ba Bớp vẫn phàm ăn tục uống nhất, cứ thúc mãi mõm
xuống, ủi cả đất lên mà gặm. Bọt mép nó trào ra, nom đến là ngon lành. Con Hoa ở
gần đó cũng hùng hục ăn không kém, mặc dù ả có bộ mã tiểu thư rất yểu điệu “cái rá
cắn làm đôi”. Gã công tử bột vẫn sán ở bên cạnh ả, mồm vừa gau gáu gặm cỏ, mắt
vừa liếc sang lem lém.Mẹ con chị Vàng ăn ở riêng một chỗ cùng con Cún. Cu Tũn dở
hơi chốc chốc lại chạy tới ăn tranh cỏ của mẹ. Chị Vàng lại dịu dàng nhường cho nó
và đi kiếm một búi khác.”
=> Tác giả đã kết hợp một cách tài tình giữa hình ảnh tả thực với hình ảnh sáng tạo
nhờ trí tưởng tượng.Chính vì trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà văn khi nghe
tiếng đàn bò gặm cỏ đã liên tưởng đến “một nong tằm ăn rỗi khổng lồ”.Và cũng nhờ
trí tưởng tượng phong phú mà tác giả đã phát hiện ra tính cách của con bò qua cách
gặm cỏ của chúng: Con ba bớp thì “ngổ ngáo”, “phàm ăn tục uống”; con Hoa vốn
“tiểu thư yểu điệu”, cu Tũn như một chú bé dở hơi,tinh nghịch ,nũng nịu ; chị Vàng
đúng là người mẹ dịu hiền, nhường nhịn…Nghệ thuật so sánh kết hợp với nhân hóa
đã làm cho hình ảnh đàn bò gặm cỏ hiện lên thật sống động.
1. Kĩ năng so sánh
So sánh là hệ quả của quá trình liên tưởng và tưởng tượng. Khi quan sát một đối
tượng nào đó, hình ảnh của đối tượng ấy (từ màu sắc tới hình dáng, từ kích thước tới
trạng thái) thường gợi cho người quan sát nghĩ đến hình ảnh tương đồng nào đó.
Chính sự so sánh liên tưởng này giúp cho trang văn miêu tả của các em hay hơn, đẹp
hơn, hấp dẫn hơn.
Vì vậy, tôi đã hướng dẫn cho các em một số cách so sánh như sau:
– Có thể so sánh người với người: “Với ngương mặt phúc hậu và mái tóc bạc trắng,
trông bà hệt như bà tiên trong truyện cổ tích”; “Nhìn nó chăm chỉ làm việc giúp bà,
ai cũng tấm tắc: Hệt như cô Tấm trong chuyện cổ tích xưa”…
– Có thể so sánh người với các con vật (hình dáng, tính cách): “Lão ta quá ranh
mãnh, xảo quyệt, y như một con cáo già”; “Trông anh ta như một con gấu”; “cậu ấy
nhanh như một con sóc”…
– Có thể so sánh người với cây cối: “Chấm cứ như một cây xương rồng” (cái sân
gạch – Đào Vũ); “Cô bé cứ như một cây lúa non, lặng lẽ lớn lên từ bùn đất”…
– Có thể so sánh người với các hiện tượng thiên nhiên: “Giọng lão ta lúc nào cũng
gầm vang như sấm” “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”…
– Có thể so sánh vật với vật, cảnh với cảnh: “cây gạo như treo rung rinh hàng ngàn
nồi cơm gạo mới”( Vũ Tú Nam); “Vầng trăng non giữa bầu trời đầy sao hệt như một
cái liềm vào ai bỏ quên giưa cánh đồng lúa chín” (Theo Vích – to Huy gô); “ Măng
chồi lên nhon hoắt như một mũi gai khổng lồ xuyên qua đất lũy mà trỗi dậy” (Ngô
Văn Phú)…
– Có thể so sánh vật với con người: Cây bàng già sừng sững, uy nghi như một người
lính gác canh giữ cho khu vườn được bình yên”; “ cây bưởi như một người mẹ đang
cần mẫn cõng trên mình lũ con đầu tròn trọc lóc”; “Chim già đãy, đầu hói như những
ông thầy tu mặc áo xám” (Đoàn Giỏi)
Nếu xét về cách thức so sánh thì có những hiện tượng so sánh sau:
– So sánh theo hướng thu nhỏ lại: “ Trái đất như một giọt nước màu xanh lơ lửng
giữa không trung” ; “xa xa, những cánh buồm nâu như những cánh bướm rập rờn trên
mặt biển”…
– So sánh theo hướng phóng đại lên: “Rệp bò lổm ngổm hư xe cóc – muỗi lượn
nghênh ngang tụa máy bay” (Hồ chí Minh) ; “chiếc lá tre thả xuống dòng nước,
chòng chành, xoay xoay, rồi trôi đi như một con thuyền, chở theo ước mơ của chúng
tôi”…
– So sánh theo hướng cụ thể hóa: “ Từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như
thổi” (truyền thuyết Thánh Gióng); “Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn
trĩnh phúc hậu như long đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn” (Nguyễn Tuân)
– So sánh theo hướng trừu tượng hóa: “ Nước biển chiều nay xanh như một trang sử
của loài người, lúc con người phải viết vào than tre” (Nguyễn Tuân)…
Tuy nhiên khi sử dụng kĩ năng so sánh, cần lưu lưu ý là phải biết sáng tạo, biết tìm
điểm mới, điểm riêng. Không nên lặp đi lặp lại những hình ảnh so sánh đã quá cũ,
quá sáo mòn theo kiểu: “Miệng cười tươi như hoa”, “Những hạt sương long lanh như
những hạt ngọc đính trên cành hoa hồng” ; “ Cánh đồng lúa chin trông như tấm thảm
vàng trải rộng đến chân trời”
1. Kĩ năng nhận xét trong văn miêu tả
Viết văn miêu tả, bao giờ người viết cũng để lại dấu ấn chủ quan của mình.
Dấu ấn chủ quan ấy chính là sự cảm nhận riêng của mỗi người, là cách biều lộ thái
độ, tình cảm riêng của mỗi người đối với đối tượng được miêu tả. Một nhà văn Pháp
viết: “ Một trăm cây bạch dương giống nhau cả trăm, một trăm ánh lửa giống nhau cả
trăm. Mới nhìn tưởng thế, nhưng nhìn kĩ thì chân cây bạch dương nào cũng khác
nhau, ngọn lửa nào cũng khác nhau. Trong đời ta gặp bao nhiêu người, phải thấy ra
mỗi người mỗi khác nhau, không ai giống ai” (Dẫn theo Tô Hoài – Một số kinh
nghiệm viết văn miêu tả).
Không phải chỉ các nhà văn, mà ngay cả học sinh khi làm văn miêu tả cũng nên ý
thức rõ điều này. Giáo viên còn phải mở rộng thêm nữa, rằng thiên nhiên con người
xung quanh chúng ta luôn trong trạng thái vận động và thay đổi không ngừng- thật vô
cùng thú vị và hấp dẫn. Đâu phải chỉ có ngọn lửa này ngọn lửa khác ngọn lửa kia,
thân cây bạch dương này khác thân cây bạch dương kia mà ngay cùng một sự vật,
hiện tượng ấy cũng từng phút, từng giờ thay đổi liên tục. Cũng một con đường từ
nhà đến trường , nhưng sáng hôm nay ta thấy nó như thế này, sáng mai đã có thể đổi
khác . Cũng một cây bàng , chiều hôm trước còn trơ trụi lá cành, mà chỉ sau mấy
hôm đã đâm trồi nảy lộc, tràn đầy sức sống. Cũng một môt bãi biển , nhưng khi ta
buồn sẽ ta sẽ cảm nhậc nó khác khi ta đang vui… Có thể nói rằng , đối tượng miêu tả
sẽ xuất hiện và đi vào bài văn tùy thuộc vào điểm nhìn, thái độ, tâm trạng tình huống
giao tiếp của người viết. Đây chính là cơ sở tạo nên dấu ấn chủ quan của người
viết.Nó đòi hỏi người viết trong bài viết của mình có những lời nhận xét, những suy
nghĩ, những cảm nhận riêng về đối tượng. Vần đề là phải dùng cách nhận xét như thế
nào để tạo sự hấp dẫn cho bài văn miêu tả ? Trước hết có thể nhận xét trực tiếp bằng
những lời bình, những câu cảm thán, những hình ảnh so sánh: “Chà! chà !Béo ơi là
béo !”, “Gớm !Béo đâu có béo lạ béo lùng thế !”( Nguyễn Công Hoan ); “ Những
bông hoa rơi từ trên cao , đài hoa nặng chúi xuống những cánh hoa đỏ rực quay tít
như chong chóng , nom thật đẹp (Vũ Tú Nam ); “ A cháng đẹp người thật … Nhưng
phải nhìn Hạng A Cháng cày mới thấy vẻ đẹp của anh “ (Ma Văn Kháng)…
Và cũng có thể bộc lộ một cách kín đáo qua việc lựa chọn hình ảnh miêu tả. Đây là
thái độ mỉa mai, giễu cợt của nhà văn Nguyễn Công Hoan khi miêu tả hình ảnh một
“bà chủ “ :” Vậy thì bà nằm đó . Như thoạt trông , đố ai dám bảo là một người. Nếu
người ta chư nom rõ cái măt phị , cái cổ rụt , cái nung núc và bốn chân tay ngắn chùn
chùn , thì phải bảo là một đống hai ba cái chăn bông cuôn lại với nhau , sắp đem cất
đi “. Còn đây là thái độ ngạc nhiên thích thú của nhà văn Vũ Tú Nam khi quan sát và
miêu tả hình ảnh những trái mướp lớn nhanh như thổi : “ Rồi quả thi nhau chòi ra…
bằng ngón tay … bằng con chuột .Rồi bằng con cá chuối to”…
* Ví dụ : Trong văn bản “Cô Tô” –SGK ngữ văn 6 ,nhà văn Nguyễn Tuân khi miêu
tả vẻ đẹp trong sáng,tràn đầy sức sống toàn cảnh Cô Tô một ngày sau bão,đã thể
hiện được cảm nhận riêng của mình về một vùng đất ông từng qua:
“Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo, sáng sủa .Từ khi có vịnh
Bắc Bộ và từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu hiệu sự sống con người thì , sau mỗi
lần dông bão , bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy . Cây trên núi đảo lại
thêm xanh mượt , nước biển lại lam biếc đặm đà hơn hết cả mọi khi ,và cát lại vàng
giòn hơn nữa .Và nếu cá có vắng tăm biệt tích trong ngày động bão thì nay lưới càng
thêm nặng mẻ cá giã đôi .Chúng tôi leo dốc lên đồn Cô Tô hỏi thăm sức khỏe anh em
bộ binh và hải quân cùng đóng sát nhau trong cái đồn khố xanh cũ ấy.
Trèo lên nóc đồn, nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng , quay gót
180 độ mà ngắm cả toàn cảnh Cô Tô. Nhìn rõ cả Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam, mà
càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo
mùa sóng ở đây”.
3.4. Giúp học sinh nắm đặc điểm của từng kiểu bài miêu tả:
Giáo viên giúp học sinh biết dùng lời văn cùng trí tưởng tượng phong phú hợp với
yêu cầu về nội dung và thể loại cho trước, khi luyện tập. Giáo viên cũng cần lưu ý
nhắc nhở các em nắm vững các đặc điểm của mỗi thể loại, mỗi dạng bài và xác định
đối tượng miêu tả. Trong mỗi bài văn phải thể hiện cái mới cái hay, cái riêng và cảm
xúc của mình.
a.Kiểu văn tả đồ vật, loài vật, cây cối.
Đối tượng ở kiểu bài này rất cụ thể và thường là những vật quen thuộc trong cuộc
sống hàng ngày của chúng ta. Nhưng kiểu bài này lại khó ở chỗ đối tượng miêu tả ,
nhiều khi cấu tạo lại đơn giản nên khó phát triển ý, bài viết ngắn cụt lủn, hời hợt. Vì
thế ,mỗi giáo viên khi dạy dạng bài này cần lưu ý cho các em học sinh những yêu cầu
sau để bài làm tốt hơn
– Thứ nhất: Khi làm kiểu bài này cần miêu tả từ bao quát đến cụ thể, từ giới thiệu
chung đến miêu tả chi tiết. Riêng tả loài vật cây cối có thể theo quá trình trưởng
thành của đối tượng với các giai đoạn cụ thể
– Thứ hai: Đối tượng miêu tả của bài này là những đồ dùng, vật dụng, những hình
ảnh quen thuộc trong đời sống hàng ngày. Do đó khi miêu tả phải chú ý đến ý nghĩa
công dụng của chúng với con người. Đặc biệt trong quá trình miêu tả có thể xen kẽ
một vài kỉ niệm thể hiện sự gắn bó giữa người tả với đối tượng được tả.
– Thứ ba: Cần biết điều chỉnh một cách hợp lý giữa các hình ảnh tả thực với liên
tưởng .Nếu tả thực quá nhiều thì hình ảnh miêu tả trở nên trần trụi. Còn nếu liên
tưởng quá nhiều thì tính chân thực sẽ giảm đi . Riêng với đồ dùng vật dụng không
phải lúc nào cũng tả cái mới.Có thể tả những đồ dùng cũ đan xen các kỉ niệm thì bài
viết sẽ sâu sắc hơn.
Ví dụ: Tả lại một loài cây mà em yêu quý nhất trong sân trường.
+Thể loại: Miêu tả
+ Nội dung: Tả lại một loài cây mà em yêu quý nhất
+ Phạm vi: Trong sân trường
Ví dụ:
Ngôi trường thân yêu của tôi có rất nhiều loại cây cho bóng mát. Nhưng có lẽ
không cây nào có bóng che rợp mát bằng cây bàng. Nó đứng sừng sững giữa sân
trường này không biết từ bao giờ chỉ biết từ khi tôi đặt chân đến trường đã thấy bàng
rồi.
Cây bàng đứng sừng sững giữa sân trường này không biết từ bao giờ chỉ biết từ khi
tôi đặt chân đến trường đã thấy bàng rồi.Nhìn từ xa, cây bàng như một chiếc ô khổng
lồ nhiều tầng xoè tán chùm bóng mát cả một khoảng sân trường rộng cho chúng tôi
vui chơi giải trí sau mỗi giờ học căng thẳng. Lại gần cây bàng tròn, thẳng mầu nâu
sẫm như dãi giầu qua nhiều năm tháng. Cây bàng là một loại cây rất nhậy cảm với sự
thay đổi của bốn mùa. Nhìn lá bàng người ta có thể nhận biết chính xác các mùa
trong năm.Vào mùa thu, khi tiết trời se lạnh những chiếc lá bàng to như hai bàn tay
người lớn vốn mầu xanh đâm chuyển sang mầu vàng gạch quăn dần mép lá rồi vồng
lên như hình mo cau. Lúc này nó đó biến sang mầu đỏ tía và khi những chị gió thu
tinh nghịch thổi đến nó vội vã bứt ra khỏi cành chao liệng giữa không trung y hệt
những cánh tay vẫy chào tạm biệt nơi đã sinh ra mình. Nhìn những chiếc lá bàng nằm
trải dài trên sân trường trông mới tuyệt làm sao!Cứ thế, những chiếc lá bàng chuyển
dần mầu sắc cho đến khi những cơn gió lạnh buốt từ phương Bắc tràn về thì cây bàng
không còn một chiếc lá nào nữa. Còn lại những cành trơ trụi trông có vẻ khẳng khiu
gông mình chịu đựng cái rét lạnh buốt của mùa đông nhưng trong những cành khẳng
khiu ấy vẫn trần trề nhựa sống.Rồi tiết trời như ấm lại, xuân đã về. Chỉ một tuần thôi
thì những trồi non xanh li ti đã điểm hết những cành to, cành nhỏ. Thoáng cái đã thấy
mầu xanh non bao phủ lấy toàn thân cây và chuyển dần sang mầu xanh đậm. Những
chiếc lá của tầng thấp, tầng cao phát triển nhanh đến kì lạ. Từ bé bằng bàn tay trẻ nhỏ
mà nay đã phè phè như cái quạt mo.Cho đến khi mùa hạ về, lá vàng rợp mát cả một
khoảng sân và đây là thời điểm mà tụi nhỏ chúng tôi tụm năm tụm bẩy vui đùa nhảy
nhót hết sức thỏa mái vào những giờ chơi dưới gốc bàng mát rượi thân yêu này. Bàng
còn là nơi gọi chim về tụ hội ca hát nhảy múa trong vòm lá. Càng tô điểm cho cây vẻ
đẹp mĩ miều.Tụi nhỏ chúng tôi yêu cây bàng này lắm bởi nó đã gắn bó với ngôi
trường tôi. Nó còn là nơi chứng kiến bao kỉ niệm vui buồn của chúng tôi.
Dù mai này có phải xa mái trường, xa cây bàng yêu dấu này thì hình ảnh về cây
bàng mãi mãi in đậm trong tâm trí tôi.
1. Kiểu văn tả cảnh
Đối tượng miêu tả bao gồm cảnh thiên nhiên và cảnh sing hoạt. Có thể coi đây là
những bức tranh bằng ngôn ngữ, dừng lại một khung cảnh nào đó, một hoạt động nào
đó, một hoạt động nào đó của thiên nhiên của con người (Một phiên chợ tết, một bến
đò hoặc ga tàu đông khách, một cuộc thi thả diều, một cánh rừng,một dòng sông, một
làng quê,yên tĩnh,…). Nội dung của kiểu bài này không nghèo nàn, thậm chí rất
phong phú nhưng do kinh nghiệm quan sát của học sinh còn yếu, kiến thức nghèo
nàn, trình độ sắp xếp ý còn hạn chế nên bài làm thường có bố cục lộn xộn, thiếu cân
đối.
Khi làm kiểu bài này giáo viên cần lưu ý một số vấn đề sau
– Đối với văn tả cảnh thiên nhiên, người viết có thể chọn một trong số các trình tự
tả : theo trình tự thời gian, không gian, số lượng cảnh,…Bức tranh thiên nhiên không
bao giờ ở dạng tĩnh mà luôn có sự thay đổi, vì vậy khi tả phải làm nổi bật được sự
thay đổi này (Mùa này khác mùa kia, buổi này khác buổi kia, thời điểm này khác thời
điểm kia…)
– Ngoài việc tả bao quát toàn cảnh, người tả cần tìm được một số hình ảnh tiêu
biểu để tập trung tả chi tiết, cụ thể. Đặc biệt là khi tả cảnh thiên thiên nào thì cũng
phải đặt nó trong một không gian, thời gian cụ thể, và phải có mối quan hệ mật thiết
với các hiện tượng tự nhiên,như gió, nắng… Các biện pháp nghệ thuật, so sánh, nhân
hóa nên được vận dụng nhiều để góp phần làm cho bài văn tả sinh động hơn.
– Đối với văn tả cảnh sinh hoạt thì cần chú trọng chọn tả theo trình tự thời gian
và trình tự hoạt động của các đối tượng. Ngoài việc tả chung, nhìn bao quát toàn cảnh
và liệt kê các hoạt động, người viết phải tập trung vào một số cảnh chính, tiêu biểu.
ưu tiên dùng nhiều những từ láy tượng hình,tượng thanh, nghệ thuật so dài, câu đặc
biệt hay câu bình thường, câu đảo ngữ hay câu đảo lược… Đặc biệt cần chú ý làm nổi
bật mối quan hệ tình cảm giữa các đối tượng xuất hiện trong bức tranh này. Nếu cần
thiết vẫn có thể đưa một số mẩu đối thoại, một số câu văn tự sự, một số câu văn nêu
nhận xét cảm nghĩ vào văn tả cảnh sinh hoạt
Ví dụ : Một số câu trong bài văn tả cảnh: “Chiều tối” của Phạm Đức:
“Nắng bắt đầu rút lên những chòm cây cao, rồi nhạt dần và như hoà lẫn với ánh sáng
trắng nhợt cuối cùng.”
=>Ta thấy câu văn miêu tả sự chuyển hoá của ánh sáng từ “nhạt dần” rồi “hoà lẫn”
với “ánh sáng trắng nhợt”.
Tác giả cũng đã dùng thị giác để quan sát sự biến đổi của ánh sáng và bóng tối, đã
dùng thính giác để nghe tiếng dế và dùng khứu giác để cảm nhận hương vườn và
cũng đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá làm cho câu văn sinh động một cách rất tinh tế,
khi viết:
“Bóng tối như bức màn mỏng, như thứ bụi xốp, mờ đen phủ dần lên mọi vật.”
“Một vài tiếng dế gáy sớm, vẻ thăm dò, chờ đợi.”
“ Trong im ắng, hương vườn thơm thoảng bắt đầu rón rén bước ra và tung tăng trong
ngọn gió nhẹ, nhảy trên cỏ, trườn theo những thân cành.”
1. Kiểu văn tả người
Khi miêu tả người, yếu tố quan sát lại càng quan trọng. Nhìn chung, mọi người đều
có những đặc điểm giống nhau nhưng lại hoàn toàn khác nhau ở những đặc điểm
riêng, chỉ người đó mới có. Nhiệm vụ của giáo viên khi hướng dẫn học sinh “miêu tả
người” là giúp cho các em thấy rằng phải miêu tả ngắn gọn mà chân thực, sinh động
về hình ảnh và hoạt động của người mình tả.
Ví dụ: Trong bài “Vượt thác” (sách giáo khoa ngữ văn 6 tập II) nhà văn Võ Quảng
đã miêu tả về Dượng Hương Thư như sau:
“ Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm
răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào như một hiệp sĩ
của Trường Sơn hùng vĩ. Dượng Hương Thư vượt thác khác hẳn dượng Hương Thư ở
nhà, nói năng nhỏ nhẻ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ.”
=>Ta thấy tác giả quan sát rất kĩ và miêu tả sinh động làm nổi bật hình ảnh Dượng
Hương Thư khi vượt thác rất khéo léo, dũng cảm và dạn dày kinh nghiệm. Về cơ bản,
để làm được bài văn tả người thành công, giáo viên cần giúp học sinh đảm bảo các
yêu cầu sau các yêu cầu sau:
– Xác định đối tượng cần miêu tả: Thầy cô giáo, bạn bè hay người thân,… tả chân
dung hay tả người trong tư thế hoạt động
– Quan sát đối tượng miêu tả và lựa chọn các chi tiết tiêu biểu: Chân dung nhân
vật(khuôn mặt, mái tóc, nước da,…); tính cách nhân vật(qua ngôn ngữ , tính cách,
hành động, cử chỉ của nhân vật)
– Trình bày các chi tiết đã lựa chọn theo một trình tự hợp lý sao cho phù hợp với mục
đích miêu tả và làm nổi bật được đối tượng miêu tả
– Cảm nhận của người viết về nhân vật mà mình miêu tả
(Lưu ý khi ra đề tả người cần chú ý đến đối tượng tả có trong vốn sống của các em và
nên ra những dạng đề mở. Bên cạnh những cụ thể như: hãy tả lại bà ngoại, ông nội
của em, nên có những đề bài mở hơn tự do hơn như:tả lại một người mà em yêu
thương nhất trong gia đình). Sự lựa chọn này sẽ giúp các em bày tỏ cảm xúc tình cảm
một cách chân thực nhất.
3.5 Rèn luyện về cách diễn đặt trong văn miêu tả
a, Cách dùng từ ngữ, hình ảnh
Việc lựa chon từ ngữ trong văn miêu tả là yêu cầu quang trọng, đòi hỏi phải được đặt
ra một cách nghiêm túc. Muốn làm tốt yêu cầu này thì người viết văn miêu tả trước
hết phải có một vốn từ phong phú. Vấn đề tích lũy vốn từ cần được tiến hành thường
xuyên và dưới nhiều hình thức: thông qua các giờ học văn – Tiếng việt trong nhà
trường ; thông qua giao tiếp hàng ngày, thông qua quá trình đọc sách , đọc tài liệu
tham khảo liên quan tới văn miêu tả… Tất nhiên, có vốn từ phong phú chưa hẳn là đã
thành công mà điều quan trọng là người viết bài phải có sự lựa chọn tinh tường, sao
cho giữ một hệ thống các đồng nghĩa, gần nghĩa, có thể lẩy ra một vài từ phù
hợp,chính xác nhất.Điều cần chú ý là phải luôn có thói quen tìm được từ gợi hình,
biểu cảm và phải chọn từ ngữ phù hợp với đối tượng,với văn cảnh. Muốn làm nổi bật
hình ảnh của đối tượng thì chú ý nhiều tới hệ thống từ tượng hình(Tả màu sắc,hình
dạng,trạng thái…) ; muốn làm nổi bật không khí của cảnh thì dùng hệ thống của từ
tượng thanh(mô phỏng các tiếng động). Bài văn miêu tả thiếu đi các từ ngữ có sức tạo
hình, gợi cảm thì chắc chắn sẽ không thể hay. Nhưng cũng cần kiến thức được rằng
nếu dùng các từ ngữ hình ảnh tùy tiện hoặc khuôn sáo, bắt chước một cách lộ liễu thì
cách miêu tả cũng không có sức thuyết phục.
Vì thế khi dạy văn miêu tả cần rèn luyện cho các em cách sử dụng từ ngữ, lựa chọn
hình ảnh sao cho phù hợp
Ví như:
– Tả cảnh sóng biển có nhiều từ ngữ gợi hình, gợi thanh : cuồn cuộn, nhấp nhô , lăn
lăn , rì rầm , rì rào , lô nhô , ì oạp …Nhưng không phải tả sóng lúc nào cũng dùng
được các từ ấy.Ta phỉ xác định các từ ngữ phù hợp trong tưmngf hoàn cảnh. Ví dụ
như sóng biển lúc trời động thì phải dùng từ cuồn cuộn; tả tiếng song biển vỗ vào bờ
đá thì phải dùng từ ì oạp; tả tiếng song biển vọng lại trong đêm mà nghe xa thì phải
dùng tù từ rì rầm…
– Tả cây cối cũng có nhiều từ ngữ chỉ màu xanh khác nhau: xanh um, xanh rì, xanh
non, xanh mơn mởn; xanh tươi, xanh tốt, xanh rờn… nhưng khi đi vào thực tế, mỗi
loại cây đều có một màu xanh riêng, không thể lẫn lộn: cây rau cải trong vường hay
cây lúa đang thì con gái thì phải là xanh mơn mởn, xanh rờn; cây cối trong rừng rậm
rạp thì phải là xanh rì,xanh tốt, xanh um…
– Ngay cả âm thanh tiếng mưa rào cũng có sự phân biệt rất rõ: mưa giáo đầu thì lẹt
đẹt, mưa trên mái tôn thì rào rào, mưa đạp vào phên lứa thì đồm độ; mưa đập vào tàu
lá chuối thì lung bùng; mưa từ mái tranh giọt đổ xuống sân thì ồ ồ…
– Còn từ ngữ tả dáng đi của con người cũng vô cùng phong phú, đa dạng: em bé tập
đi thì lẫm chẫm, cậu bé tinh nghịch thì có dáng đi nhún nhảy, vừa đi vừa nhảy chân
sáo; cụ già thì lom khom; người đang đau chân thì đi khập khà khập khiễng; có cô gái
trẻ thì yểu điệu thướt tha; người vất vả thì dáng đi hấp tấp,lật đật, sấp ngửa, chân nam
đá chân xiêu…
– Bên cạnh việc lựa chọn từ ngữ, vấn đề tạo hình ảnh trong văn miêu tả cũng không
kém phần quan trọng: Có thể thấy câu văn miêu tả giàu hình ảnh bao nhiêu thì sức
gợi cảm của nó sẽ lớn bấy nhiêu. Việc tạo hình ảnh cho câu văn miêu tả có thể thực
hiện bằng nhiều cách: hoặc bằng từ ngữ tượng hình, tượng thanh (gấu bố, gấu mẹ,
gấu con cùng béo núc ních, bước đi lặc lè, lặc lè); hoặc bằng nghệ thuật so sánh, ẩn
dụ, nhân hóa (“Lá mía sắc như lưỡi gươm, xanh đậm”, “lũ trẻ đứa nào đứa nấy da cứ
đen bóng như bôi nhọ mỡ ”, “ Dòng sông thay chiếc áo màu xanh hằng ngày bằng dải
lụa đào”)
b, Cách đặt câu, dựng đoạn trong văn miêu tả
*Cách đặt câu trong văn
Cũng như văn tự sự, cách đặt câu trong văn miêu tả đòi hỏi người viết phải linh hoạt
và công phu. Có thể là câu dài với đầy đủ các thành phần chính phụ, có nhiều tầng ý
nối tiếp nhau. Cũng có thể là những câu ngắn ( câu đặc biệt hoặc câu tỉnh lược). Vấn
đề đặt ra ở đây là phải biết chọn kiểu câu phù hợp với hoàn cảnh, với tình huống, nội
dung miêu tả, và cả với cảm xúc của người miêu tả nữa.
Sau đây tôi xin giới thiệu một số trường hợp lựa chọn kiểu câu thường gặp như sau:
- Xem thêm -