Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn một số biện pháp giúp trẻ 3 4 tuổi có thói quen tự phục vụ ở trường mầm non...

Tài liệu Skkn một số biện pháp giúp trẻ 3 4 tuổi có thói quen tự phục vụ ở trường mầm non

.DOC
32
16
60

Mô tả:

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Hiện nay, xu hướng giáo dục mầm non trên thế giới, đặc biệt là Mỹ và Nhật Bản rất quan tâm đến giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Họ cho rằng: thiếu kỹ năng tự phục vụ sẽ dẫn đến hệ lụy trẻ lười biếng, thụ động và khó khăn khi tham gia vào các hoạt động tập thể. Các nhà giáo dục cho rằng: cần giáo dục trẻ kỹ năng tự phục vụ ngay khi trẻ một tuổi, việc nắm bắt các kỹ năng tự phục vụ sẽ giúp trẻ tăng cường tính độc lập và cảm giác về sự thành công, không chỉ có lợi cho sự phát triển của trẻ mà hữu ích cho cả người lớn, cho toàn xã hội. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây việc giáo dục kỹ năng sống - đặc biệt là giáo dục kỹ năng lao động tự phục vụ cho trẻ mầm non được quan tâm. Giáo dục kỹ năng tự phục vụ được đưa vào chương trình giáo dục mầm non đối với trẻ từ 12 tháng tuổi đến 6 tuổi. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành công văn số 463/BGDĐT-GDTX: “Hướng dẫn triển khai thực hiện giáo dục kỹ năng sống tại các cở sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên”. Trong đó hướng dẫn giáo dục kỹ năng sống cho bậc học mầm non đã đề cập đến việc thực hiện giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non. Giáo dục mầm non là ngành học hàng đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân, chiếm vị trí quan trọng. Giáo dục mầm non có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở ban đầu đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách con người. Đây là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất, tất cả mọi việc đều bắt đầu. Trẻ em như tờ giấy trắng uấn nắn thế nào là do người lớn chúng ta. Quá trình phát triển tâm lý của trẻ khác nhau qua từng độ tuổi. Đặc biệt là trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi các cháu thích làm mọi việc mình thích, thích làm những công việc giúp người lớn. Vì vậy vai trò của người lớn chúng ta là rất quan trọng, đặc biệt đối với giáo viên mầm non, cô là người hướng trẻ tới những hành vi đúng, tránh xa hành vi những 0 thói hư tật xấu. Một ngày các cháu đến trường với cô từ sáng đến chiều mọi sinh hoạt học hành ăn ngủ đều do cô giáo hướng dẫn. Một tay cô giáo chăm, một tay cô giáo dạy bảo. Vì vậy cần hình thành cho trẻ tính tự lập ngay từ khi học lớp mẫu giáo. Như chúng ta đã biết: Nếu trẻ biết tự phục vụ, trẻ sẽ thấy quý trọng bản thân, nuôi dưỡng những giá trị sống và là nền tảng hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh vực nền tảng: thể trạng, tâm hồn, trí tuệ và tinh thần; từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ năng sống hòa nhập với môi trường xung quanh. Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã dạy: “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuỳ theo sức của mình”. Quả đúng vậy, chúng ta cần phải rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ và bắt đầu từ việc nhỏ nhất, vừa sức với trẻ, có như vậy trẻ mới biết quý trọng lao động, từ đó có thể giúp trẻ tăng cường tính độc lập, sự tự tin. Đây là cơ hội tốt nhất giúp trẻ nhanh chóng khôn lớn và trưởng thành trong cuộc sống, trẻ sống có trách nhiệm hơn với chính mình, qua đó trẻ còn tạo dựng được tinh thần tập thể, biết quan tâm và giúp đỡ những người xung quanh…. Từ đó chúng ta mới thấy việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ là vô cùng cần thiết. Đó là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ tăng năng lực hội nhập, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin vững vàng trước mọi khó khăn thử thách. Vậy, muốn thực hiện được những nhiệm vụ to lớn đó thì mỗi gia đình, nhà trường, các thầy cô giáo và toàn xã hội chịu trách nhiệm giáo dục trẻ thành những đứa trẻ có những đức tính tốt, biết cách lao động và làm việc để sau này trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy một thực tế: nhiều trẻ đã 3-4 tuổi mà vẫn chưa tự làm được những việc tự phục vụ bản thân như: tự xúc cơm, tự kéo khóa áo, cất đồ dùng cá nhân.... Đó là kết quả của việc cha mẹ đã tự làm thay trẻ mọi việc mà không biết mình đã vô tình tước đi của trẻ cơ hội để trẻ tự lập. Những đứa trẻ được bao bọc quá kỹ sẽ luôn ỷ lại, dựa dẫm, nhút nhát, khả năng giao tiếp kém và không biết cách xử lí những vấn 1 đề không may xảy ra trong cuộc sống thường ngày khi không có người lớn bên cạnh. Vì phần lớn các gia đình đều chỉ có một hoặc hai con nên trẻ được mọi người chiều chuộng, chỉ cần đòi cái gì là sẽ được đáp ứng ngay, cha mẹ thường làm thay trẻ mọi việc nên từ đó khiến trẻ có tính phụ thuộc cao. Các cha mẹ luôn lo lắng những điều không hay sẽ xảy đến với con mình nên sẵn sàng làm thay trẻ mọi chuyện, điều đó làm cho trẻ cứ gặp khó khăn là lại nhờ người lớn giúp, gặp phải vấn đề là thu mình. Nhiều cha mẹ lại có thói quen suy nghĩ và quyết định giúp con mọi thứ và họ cho rằng điều đó tốt cho trẻ. Hay có cha mẹ lại luôn lo lắng khi thấy con mình không chủ động trong học hành, luôn phải giám sát bên cạnh thì con mới làm, còn không sẽ không làm theo những yêu cầu của cha mẹ. Nhiều cha mẹ cũng muốn để con tự lập, nhưng thường không đủ kiên nhẫn để theo đuổi trong quá trình rèn luyện cho con và cuối cùng bỏ cuộc. Có cha mẹ an ủi rằng “việc này khó quá, trẻ con sao làm được” rồi sau đó lại làm hộ con.... Thời gian qua, dư luận phản ánh khá nhiều về thực trạng trẻ thiếu kiến thức về kỹ năng sống mà trong đó cơ bản nhất là kỹ năng tự phục vụ bản thân không có. Đa phần các em sống rất ích kỷ, chỉ biết đến bản thân, chỉ biết hưởng thụ mà không biết cho đi. Ở trường cũng như ở nhà, các em hầu như hoàn toàn thiếu sự sáng tạo, luôn ỷ lại, phụ thuộc vào người lớn; mỗi khi gặp tình huống trong thực tế thì lúng túng không biết xử lý như thế nào. Đây là vấn đề của toàn xã hội, việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ sẽ giúp cho trẻ có những nền tảng vững chắc trong việc tạo dựng tư thế chủ động sáng tạo của một đứa trẻ năng động. Đó cũng là cách giúp trẻ đối đầu và tìm cách vượt qua những áp lực tâm lý về công việc, học tập cũng như các mối quan hệ phức tạp khác trong cuộc sống sau này. Năm nay tôi được phân công trực tiếp giảng dạy trẻ lớp 3-4 tuổi. Ngay từ đầu năm học tôi đã xác định được vai trò và nhiệm vụ của mình sẽ là người hướng lái cho các cháu có một thói quen tốt, một nề nếp tốt. Trong thời gian đầu qua quá trình làm quen, trò chuyện, hoạt động và gần gũi trẻ tôi thấy nhiều trẻ 2 lớp tôi còn nhút nhát, ỉ lại, lười vân động, các cháu chưa có nề nếp, chưa có tính tự lập. Mọi hoạt động của trẻ đều do cô giáo phục vụ hay nhắc trẻ làm thì bạ đâu trẻ cũng để, cũng vứt. Trẻ chưa có tính tự giác, chưa chủ động trong mọi hoạt động, chưa phát huy được tính sáng tạo của mình. Vì vậy tôi thấy rằng cầm hình thành cho trẻ một thói quen, một nề nếp tốt để giúp trẻ sáng tạo và có khả năng tự phục vụ bản thân. Trước những băn khoăn trăn trở đó, tôi đã đặt ra mục tiêu phải đạt được trong năm học này là làm gì, làm sao, làm như thế nào để giúp trẻ lớp mình có những thói quen tự phục vụ tốt khi ở trường mầm non? Điều đó không chỉ có lợi cho sự phát triển của trẻ mà hữu ích cho cả người lớn, cho toàn xã hội. Trăn trở với mục tiêu chung của giáo dục, và đứng trước thực trạng của lớp học, tôi nhận thấy việc giúp trẻ có thói quen tự phục vụ khi ở trường mầm non là rất cấp thiết. Xuất phát từ những lý luận và thực tiễn trên tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Mô ̣t sô biện pháp giúp tre 3-4 tuổi có thói quen tự phục vụ ở trường mầm non năm học 2018 – 2019” để nghiên cứu. 2. Tên sáng kiến “Mô ̣t số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi có thói quen tự phục vụ ở trường mầm non năm học 2018 – 2019” 3. Tác giả sáng kiến - Họ và tên: Trần Thị Phượng - Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường mầm non Kim Long, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. - Số điện thoại: 0983.363.818 - E_mail: [email protected] 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến - Trần Thị Phượng 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 3 Giáo dục kỹ năng sống, giúp trẻ 3-4 tuổi có thói quen tự phục vụ ở trường mầm non. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Tháng 9/2018 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Về nội dung của sáng kiến 7.1.1. Nội dung lý luận của vấn đề nghiên cứu Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, chịu trách nhiệm chăm sóc - giáo dục trẻ từ 0 - 6 tuổi. Đây là giai đoạn đặt nền móng đầu tiên quan trọng của nhân cách con người. Nếu không làm tốt việc chăm sóc - giáo dục trẻ trong những năm này thì việc giáo dục lại hết sức khó khăn, phức tạp. Vì vậy, Nghị quyết TW2, khoá VIII của Đảng cộng sản Việt Nam về Định hướng chiến lược giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã đề ra mục tiêu giáo dục Mầm non phải trang bị cho trẻ những gì tốt nhất kể cả về mặt vật chất và tinh thần một cách toàn diện. Tính tự lập được hình thành rất sớm và là một biểu hiện tâm lí có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành các phẩm chất nhân cách của trẻ. Một số dấu hiệu đáng tin cậy của việc bắt đầu hình thành tính tự lập, đó là nhu cầu tự khẳng định mình xuất hiện. Trẻ muốn tự làm một số công việc trong sinh hoạt hằng ngày. Giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ khi còn bé không những tạo ra cho trẻ khả năng tự lập trong sinh hoạt hằng ngày mà còn là một trong những điều kiện quan trọng để hình thành sự tự tin, năng động, sáng tạo, làm cơ sở hình thành các kỹ năng sống sau này. Thực tế hiện nay cho thấy, đối với gia đình, chủ yếu là cha mẹ còn có nhiều sai lầm về giáo dục nói chung và giáo dục tính tự lập cho trẻ nói riêng. Thứ nhất là nuông chiều con quá mức, khiến trẻ chỉ biết hưởng thụ, sau này dễ trở thành người có tính ích kỉ, vụng về, thiếu tự tin trong cuộc sống. Thứ hai là không tin vào khả năng của trẻ, trẻ muốn làm nhưng thấy trẻ làm lóng ngóng, chậm chạp 4 thì tỏ ra khó chịu, nên người lớn thường “sốt ruột” và làm thay trẻ, dẫn đến trẻ có thái độ thờ ơ dần dần tạo ra sự ỉ lại, lười biếng mất tự tin ở trẻ. Đối với giáo viên, chưa có sự hiểu biết nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi mầm non những kỹ năng sống cơ bản nào, việc hướng dẫn trẻ hoạt động để hình thành tính tự phục vụ cho trẻ còn rất hạn chế. Nguyên nhân là do người giáo viên cho rằng trẻ còn quá nhỏ để rèn tính tự lập, bên cạnh đó điều quan trọng là cô giáo ngại khó, sợ tốn thời gian (vì trẻ thực hiện chậm chạp, lóng ngóng, vụng về..) và có tư tưởng “thà làm cho xong”. Vì vậy để hình thành và phát triển tính tự phục vụ cho trẻ nói chung và trẻ mẫu giáo nhỡ nói riêng giáo viên mầm non cần phối kết hợp với cha mẹ trẻ để có những biện pháp giáo dục phù hợp nhằm phát huy khả năng tự phục vụ, làm cơ sở cho sự hình thành nhân cách cho trẻ sau này. Vậy tự phục vụ là gì? Tự phục vụ là phương tiện không thể thiếu, giúp trẻ tăng năng lực hội nhập, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin vững vàng trước mọi khó khăn thử thách. Tự phục vụ chính là chiếc chìa khóa của sự sống còn, sự phát triển và sự thành công của mỗi con người. Khi nhắc đến dạy kĩ năng tự phục vụ đối với trẻ mầm non, nhiều người cho rằng đó là một cái gì đó rất cao siêu, nhưng thực tế dạy tự phục vụ là dạy những thói quen sinh hoạt rất thường ngày trong giao tiếp và ứng xử của trẻ đối với bản thân và những người xung quanh. 7.1.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu 7.1.2.1. Thuận lợi Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Sở, Phòng giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tương đối đầy đủ. 5 Nhà trường luôn quan tâm, tạo điều kiện cho giáo viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh qua nhiều phong trào hoạt động như: Phổ biến các câu nói hay của Bác cho giáo viên học tập. Động viên giáo viên sưu tầm thêm các bài hát, bài thơ, câu chuyện của Bác để dạy cho trẻ. Bản thân là giáo viên có trình độ chuyên môn trên chuẩn, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, luôn coi học sinh như chính con đẻ của mình. Tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Các đồng chí giáo viên trong tổ luôn có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ. Trẻ cùng một độ tuổi. Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em mình, đã phần nào hiểu hơn về tầm quan trọng của bậc học mầm non nên họ có ý thức cho con đi học đều, đưa đón đúng giờ quy định. 7.1.2.2. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi trên, bản thân tôi thấy vẫn còn một số khó khăn sau: Thời gian cho giáo viên sưu tầm các tư liệu để dạy trẻ học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa được nhiều. Thiết bị, đồ dùng phục vụ cho việc giảng dạy các môn học vẫn còn hạn chế, chưa phong phú. Đây là nội dung giáo dục còn khá mới mẻ trong chương trình giáo dục trong chương trình giáo dục cho trẻ mầm non. Vì vậy, còn ít tài liệu để tham khảo tìm hiểu. Nhiều phụ huynh chưa hiểu và quan tâm đến việc giáo dục rèn luyện kĩ năng tự phục vụ cho trẻ. Nhiều cháu khả năng tự phục vụ còn rất kém, còn rụt rè nhút nhát nên buộc cô giáo phải hết sức gần gũi và nhẹ nhàng mới có thể tiếp cận và hiểu được trẻ. 6 Bên cạnh đó lại có những cháu thích tự làm theo ý mình nên sẽ gây khó khăn cho tôi trong việc rèn nề nếp, thói quen cho các cháu. Trẻ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống phát triển hiện đại như: Internet, tivi, các trò chơi điện tử… Trẻ được sống trong môi trường quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm, không có tính tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với môi trường xung quanh. 7.1.2.3. Thực trạng * Đối với giáo viên Biện pháp giúp trẻ có thói quen tự phục vụ ở trưởng mầm non chưa phù hợp. Chưa có sự hiểu biết nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi mầm non những kỹ năng sống cơ bản nào, chưa đổi mới phương pháp giáo dục, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non. Việc tích hợp nội dung của các lĩnh vực trong mọi hoạt động còn máy móc, còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Chưa lôi cuốn được trẻ vào các hoạt động. Trẻ chưa hứng thú và tập trung trong hoạt động học tập. * Đối với phụ huynh Nhận thức của một số phụ huynh còn hạn chế, có phụ huynh chiều con quá mức thích gì có nấy, cũng có phụ huynh do công việc bộn bề kiếm sống nên giao hẳn việc chăm sóc giáo dục con cái cho ông bà. Một số phụ huynh chưa hiểu tầm quan trọng của việc giúp trẻ có thói quen tự phục vụ cho con em ở lứa tuổi mầm non nên thường khoán trắng cho cô giáo. * Đối với trẻ Có một số trẻ có kĩ năng tự phục vụ rất tốt nhưng lại thiếu tính chủ động, trẻ luôn đợi chờ cô giáo nhắc nhở thì mới chịu làm. 7 Một số trẻ còn hay trông chờ vào cô giáo làm giúp 1 số việc tự phục vụ cho trẻ như: Cô giáo xúc cơm cho thì trẻ mới ăn hay trẻ không chịu cất đồ dùng vào tủ mà phải để cô giáo cất hộ... * Qua nghiên cứu thực trạng về thói quen tự phục vụ của trẻ đầu năm học tôi đã thu được kết quả sau: Biểu 1 (Tháng 9/2018) Đạt Tổng số trẻ: 24 Nội dung khảo sát - Tự rửa mặt đúng cách - Tự mình ăn trong các bữa cơm Tổng số trẻ: 24 Nội dung khảo sát - Tự dọn bát sau khi ăn - Tự cất bàn ghế sau ăn - Tự mình thay quần áo - Gấp chăn gọn gàng và để đúng nơi quy định sau khi ngủ dậy - Cất đồ dùng, đồ chơi đúng vị trí quy định - Trẻ biết rửa tay đúng cách bằng xà phòng Tỉ lệ Chưa đạt Số Tỉ lệ lượng % 1 4,2 3 12,5 Đạt Số Tỉ lệ lượng % 23 95,8 21 87,5 Chưa đạt Số Tỉ lệ lượng 3 3 2 % 12,5 12,5 8,3 lượng 21 21 22 % 87,5 87,5 91,7 2 8,3 22 91,7 5 0 20,8 0 19 24 79,2 100 Số Thời gian đầu khi mới nhận lớp, tôi thấy khả năng tự phục vụ của đa số trẻ còn hạn chế (Biểu 1), bên cạnh đó cũng có một số trẻ có kĩ năng tự phục vụ rất tốt nhưng lại thiếu tính chủ động, trẻ luôn đợi chờ người lớn nhắc nhở thì mới chịu làm, chính những điều đó làm cho lớp học luôn trở nên lộn xộn khiến tôi luôn cảm thấy mệt mỏi và phiền lòng mỗi khi phải đến lớp dạy dỗ và chăm sóc trẻ. Trước những băn khoăn trăn trở đó, tôi đã đặt ra mục tiêu phải đạt được trong năm học này là làm gì, làm sao, làm như thế nào để giúp trẻ lớp mình có những thói quen tự phục vụ tốt khi ở trường mầm non? Điều đó không chỉ có 8 không chỉ có lợi cho sự phát triển của trẻ mà hữu ích cho cả người lớn, cho toàn xã hội. Vậy để có những biện pháp hay, thiết thực nhằm hướng dẫn trẻ có thói quen tự phục vụ ở trường mầm non đạt hiệu quả, tôi sẽ phải làm gì trước tiên? Đầu tiên tôi sẽ tìm hiểu những nguyên nhân đưa đến việc trẻ chưa có khả năng tự phục vụ và ý thức tự phục vụ của trẻ chưa tốt. 7.1.2.4. Nguyên nhân Nguyên nhân thứ nhất: Xuất phát từ phía phụ huynh, do mỗi gia đình Việt Nam ngày nay thường chỉ có một hoặc hai con, tất cả tình cảm cha mẹ dành trọn cho những đứa con yêu qúy của mình. Ngoài ra, có những trẻ là con trai, cháu đích tôn trong gia đình nên được ông bà, cha mẹ chiều chuộng hết mức. Trẻ luôn được đáp ứng ngay mọi yêu cầu, mọi mong muốn của trẻ, ba mẹ và người lớn trong gia đình làm thay trẻ tất cả mọi việc vì họ sợ con vất vả, sợ qúa sức của con, sợ con làm không được theo ý mình, sợ mất thời gian... Điều này lâu dần hình thành ở trẻ tính ỷ lại, luôn dựa dẫm vào người khác, thiếu kiên nhẫn và lười lao động. Ngoài ra còn có vô số các nguyên nhân khác chủ quan hay khách quan đã làm cho trẻ thiếu kĩ năng và thói quen tự phục vụ. Nguyên nhân thứ 2: Xuất phát từ giáo viên, do cô không chịu khó, không kiên trì hướng dẫn cho trẻ những kĩ năng tự phục vụ nên cô hay làm giúp trẻ cho đỡ mất thời gian, đỡ phải bực tức khi cháu làm không được. Việc này lâu dần sẽ khiến cho trẻ có tư tưởng ỷ lại, không chịu làm. Vì trẻ nghĩ: “Mình không làm thì cô cũng làm thôi”. Nguyên nhân thứ ba: Xuất phát từ phía trẻ, có một số cháu có do khả năng tiếp thu chậm hoặc không chịu tập trung khi người lớn hướng dẫn, điều này sẽ khiến cho người lớn dễ trở nên dễ bực mình và có thể la mắng hoặc đánh trẻ. Việc này cứ thế lâu dần hình thành ở trẻ thói quen ỷ lại, sợ làm việc và không có thói quen tự phục vụ bản thân. 7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến 9 Để khắc phục tình trạng trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau, bước đầu đã thu được một số kết quả đáng kể. Song trong quá trình thực hiện vẫn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Kính mong sự giúp đỡ và góp ý chân thành của Hội đồng khoa học Nhà trường, Hội đồng thi đua cấp trên, cùng bạn bè đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện và áp dụng có hiệu quả hơn. 7.2.1. Biện pháp 1: “Cụ thể hóa nô ̣i dung những thói quen tự phục vụ cơ bản cần có ở trẻ 3-4 tuổi” Sau khi nghiên cứu kỹ tâm lý lứa tuổi, nhu cầu, khả năng của trẻ 3-4 tuổi. Tôi lập ra danh sách một số việc mà trẻ lớp tôi có khả năng làm được và cần thiết phải làm được như: - Trẻ biết rửa tay đúng cách bằng xà phòng - Tự rửa mặt đúng cách - Tự mình ăn trong các bữa cơm - Tự dọn bát sau khi ăn - Tự cất bàn ghế sau ăn - Tự mình thay quần áo - Gấp chăn gọn gàng và để đúng nơi quy định sau khi ngủ dậy - Cất đồ dùng, đồ chơi đúng vị trí quy định. Lập ra được các nội dung cần hướng dẫn trẻ, tôi thấy công việc trở nên đơn giản hơn rất nhiều và dễ dàng thực hiện hơn. Cũng vì thế mà thói quen tự phục vụ của trẻ lớp tôi dần được hình thành, trẻ dần đi vào nề nếp và có thói quen, kỹ năng của trẻ tốt hơn khi ở trường. 7.2.2. Biện pháp 2: “Cô làm gương cho trẻ” Hàng ngày trẻ đến lớp phần lớn thời gian trong ngày trẻ được học tập và sinh hoạt cùng cô. Cô giáo vừa là bạn vừa là người mẹ hiền thứ 2 của trẻ cùng chơi, cùng học, chăm chút cho trẻ từ bữa ăn, giấc ngủ. Vì vậy vai trò của cô giáo 10 rất quan trọng trong việc hình thành những thói quen, nề nếp cho trẻ. Cô là tấm gương cho trẻ noi theo. - Ví dụ: + Khi đến lớp cô giáo cất gọn gàng túi sách, mũ, dép và khi trẻ đến thấy cô xếp gọn gàng trẻ sẽ xếp gọn gàng theo cô. + Trong giờ học khi dạy học xong cô cất gọn gàng đồ dùng của cô và nhắc trẻ xếp gọn gàng đồ dùng của trẻ vào đúng nơi quy định. - Trong mọi hoạt động học tập, sinh hoạt cô giáo luôn là tấm gương trong việc giữ gìn sạch sẽ môi trường, lớp học. Không vứt rác bừa bãi, bỏ rác vào đúng nơi quy định. Thường xuyên cùng trẻ vệ sinh trong và ngoài lớp học, lau dọn đồ dùng đồ chơi, nhổ cỏ, nhặt rác quanh lớp học, sân trường. Khi được giúp cô trẻ thấy mình được làm việc có ích, thích được làm việc, từ đó hình thành cho trẻ một thói quen, nề nếp giữ gìn vệ sinh chung. + Ví dụ: Trước giờ ăn cô rửa tay trước khi chia cơm và nhắc trẻ rửa tay sạch sẽ trước khi ăn cơm. ăn cơm xong nhắc trẻ cất ghế, cất bát, lau mặt, uống nước, súc miệng. - Rèn cho trẻ thói quen rửa tay khi tay bẩn, trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh. Hình thành cho trẻ nề nếp gọn gàng, dần dần trẻ có một thói quen tốt làm đâu gọn đấy. 7.2.3. Biện pháp 3: “Tổ chức lồng ghép giáo dục tính tự lập vào các hoạt động” Giờ đón-trả trẻ: Khi trẻ mới đến lớp tôi hướng dẫn trẻ gấp quần áo, mũ, khăn... gọn gàng cất vào balo rồi để vào nơi quy định, khi cần tìm sẽ dễ dàng và nhanh hơn , trước khi ra về trẻ tự kiểm tra lại đồ dùng của mình. Sau khoảng 1 tháng tôi nhắc nhở và ngày nào trẻ cũng được thực hành các thao tác đó nên trẻ cất 11 và lấy đồ dùng rất thành thạo và không cần đến sự giúp đỡ của người lớn nữa. Cô giáo hướng dẫn trẻ cất đồ dùng đúng nơi quy định Trong hoạt động học: tôi chọn một số kỹ năng để hướng dẫn trẻ như: cách rửa tay bằng xà phòng, cách chải tóc, cách cài cúc, cách gấp quần áo. Khi hướng dẫn trẻ một kĩ năng nào đó, tôi hướng dẫn một cách chậm rãi từng thao tác một. Thấy trẻ đã nắm được thao tác này thì tôi mới chuyển sang thao tác khác. 12 Giờ học rửa tay Những buổi cần đến đồ dùng của trẻ, tôi chỉ chuẩn bị đồ dùng đặt sẵn trên bàn hoặc trên tủ giá và yêu cầu trẻ tự lên lấy đồ dùng học tập về vị trí ngồi của mình, kết thúc tiết học cũng vậy trẻ tự thu gom đồ dùng, dụng cụ cất cất gọn gàng ngăn nắp đúng nơi qui định. Được tự lấy đồ dùng học tập như vậy tôi thấy trẻ rất tích cực, hứng thú học và luôn muốn khám phá xem mình được học gì từ đồ dùng đó. Trẻ tự lấy đồ dùng học tập Giờ hoạt động ngoài trời: Tôi tổ chức cho trẻ tham gia một số hoạt động như: Nhặt lá rụng , nhổ cỏ, bắt sâu, tưới nước, nhặt rác bỏ vào thùng. Tôi chia trẻ thành các nhóm nhỏ (mỗi nhóm 5-7 trẻ) và hướng dẫn mỗi nhóm một công việc khác nhau. Khi tháy trẻ gặp khó khăn khi thực hiện những kỹ năng mới tôi tham gia cùng làm với trẻ tôi kết hợp trò chuyện để hiểu vì sao cần chăm sóc cây, con vật, cho trẻ hiểu ý nghĩa tác dụng của việc đang làm giúp trẻ thân thiện 13 với môi trường, có ý thức bảo vệ môi trường, yêu mến cảnh vật thiên nhiên ,yêu lao động... Và khi trẻ tự mình làm hoàn thành tốt nhiệm vụ do cô giao và được khen, trẻ thấytự tin vào bản thân, trẻ trở nên năng động tích cực tham gia các hoạt động của lớp. Các bé nhặt lá rụng giờ hoạt động ngoài trời Giờ hoạt động góc: Tôi gợi ý để trẻ tự chọn góc chơi, vai chơi, hướng dẫn trẻ cách sử dụng đồ chơi, và tạo tình huống cho trẻ tự giải quyết vấn đề, để trẻ tự 14 chơi, tự khám phá, và tìm hiểu, chỉ giúp đỡ khi bé thực sự cần. Khi hết giờ chơi trẻ tự cất đồ chơi vào chỗ quy định. Trẻ cất đồ chơi đúng nơi quy định Hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân: Đây là các hoạt động nhằm hình thành một số nề nếp, ý thức tự phục vụ. Tôi luôn tạo điều kiện để trẻ tự làm, tự trải nghiệm công việc. Tôi hướng dẫn trẻ cách cầm thìa cầm bát, tự xúc ăn, ngoài ra còn nhờ trẻ giúp đỡ cô VD: Lớp tôi có trẻ rất thích giúp cô chia thìa vào từng bát cơm cho các bạn tôi liền nhờ trẻ chia thìa giúp cô vào các bat cơm của các bạn, có khi loay hoay làm rơi hết thìa xuống sàn. Mỗi lần như vậy tôi không tỏ ra khó chịu mà nhẹ nhàng tôi hướng dẫn động viên trẻ của tôi giờ làm rất thành thạo và trẻ nào cũng muốn được giúp cô. Có lần tôi phát hiện Đông rất thích bê cơm vào bàn cho bạn giúp cô giáo, thấy vậy tôi nói với cháu “Con sẽ giúp cô bê cơm về bàn cho các bạn nhé!” Thấy cô giáo nhờ như vậy Đông rất vui và ra làm cùng bạn. Cứ như vậy hằng ngày tôi đều hỏi trẻ ai muốn giúp cô chia thìa, hay chia cơm vào bàn cho các bạn nào? Rất nhiều trẻ xung phong muốn làm giúp cô. Để trẻ nào cũng được làm mỗi ngày tôi nhờ một nhóm trẻ khác nhau giúp mình. Sau khi ăn trẻ 15 nào cũng đã biết xếp bát thìa của mình bỏ vào rổ, nhặt thức ăn rơi vãi thu gom thức ăn thừa sau đó, tôi nhắc trẻ cất ghế, rồi tự đi lau miệng, uống nước. Trẻ chia cơm cho các bạn Khi khát nước trẻ tự lấy ca có hình dán ký hiệu của mình trên giá, rồi rót một lượng nước vừa đủ, uống xong lại úp lên giá. Trẻ tìm cốc đúng ký hiệu để uống nước Tôi tận dụng giờ đi ngủ tập cho trẻ chuẩn bị giường ngủ. Đó có thể là cho trẻ lấy gối của mình sắp xếp vị trí gối nằm ở đâu. Và khi ngủ dâỵ tập cho trẻ thói quen cất gối vào nơi quy định. Có trẻ còn biết giúp cô trải chiếu. 16 Trẻ chuẩn bị giường ngủ Để giúp trẻ thực hiện các thói quen tự phục vụ một cách phấn khởi và nhớ lâu tôi đã kết hợp sử dụng những bài thơ, bài hát ...VD: một số bài khi giáo dục vệ sinh như: Bài thơ: Giờ ăn Giờ ăn cô đã dạy rồi Khi ăn chớ để cơm rơi ra bàn Yên lặng không nói chuyện riêng Không khua thìa bát cô cho cắm cờ Bài thơ: Rửa tay Miếng xà phòng nho nhỏ Em xát lên bàn tay Nước máy đây trong vắt Em rửa đôi bàn tay Khăn mặt đây thơm phức Em lau khô bàn tay Đôi bàn tay be bé Nay rửa sạch xinh xinh Tất cả lớp chúng mình Cùng giơ tay vỗ vỗ. Bài thơ: Rửa mặt Bàn tay nhỏ nhắn Bé cầm chiếc khăn Rửa một bên mặt Rồi đến bên kia Gấp chiếc khăn lại Lau đến mũi miệng 17 Khuôn mặt của bé Xinh xinh lạ kì Là nhờ bé đấy Nhờ biện pháp này mà tôi thấy từng ngày trẻ lớp tôi đi vào nề nếp hơn, ý thức tự giác hơn và chủ động làm các công việc tự phục vụ bản thân hơn. 7.2.4. Biện pháp 4: “Rèn mọi lúc mọi nơi” - Hàng ngày trẻ đến lớp với cô cả ngày cùng học tập sinh hoạt cùng cô. Vì vậy cô giáo phải tạo cho trẻ một môi trường thân thiện, cô vừa là cô vừa là bạn của trẻ. Thông qua các hoạt động hàng ngày, khi đi dạo ngoài trời, ở mọi nơi mọi lúc cô luôn luôn khuyến khích động viên trẻ tích cực tự phục vụ bản thân. - Ngay trong giờ ăn, ngủ, đi vệ sinh cần hình thành cho trẻ thói quen đúng giờ giấc, nề nếp lớp học. Hình thành cho trẻ khả năng tự kiềm chế, thói quen tốt. Trong các giờ hoạt động ngoài trời, vệ sinh cá nhân cô luôn là người hướng dẫn và thực hiện cùng trẻ. Cô vừa hướng dẫn, vừa làm vừa trò chuyện với trẻ tạo cho trẻ môi trường gần gũi, thân mật và từ đó trẻ tự tin, mạnh dạn và hoạt bát hơn. Như Bác Hồ đã nói: “ Tuổi nhỏ làm việc nhỏ tuỳ theo sức của mình ”. Vì vậy tôi luôn khuyến khích động viên trẻ tự hoạt động, tự phục vụ bản thân mình từ những công việc nhỏ nhất. Và từ đó hình thành cho trẻ tính tự lập. + Ví dụ: Cô cùng trẻ nhổ cỏ, chăm sóc cây cảnh, nhặt rác sân trường, lau rửa, sắp xếp giá đồ chơi, gấp chăn, chiếu, tự rửa mặt phơi khăn… 7.2.5. Biện pháp 5: “Cho trẻ đủ thời gian để hoàn thành công việc” Khi trẻ không thể kiểm soát hết mọi thứ mà mình đang thực hiện, trẻ sẽ sáng tạo theo cách riêng của mình, tôi bình tĩnh quan sát xem trẻ làm những gì, thực hiện công việc ra sao chứ không hối thúc hay dùng thời gian để gây áp lực với trẻ. Có thể trẻ sẽ không thể làm tốt mọi việc giống như sự mong đợi, nhưng thay vì trách mắng trẻ tôi động viên khuyến khích trẻ. Nếu trẻ đang mệt mỏi, 18 đau ốm, căng thẳng thì không giới thiệu với trẻ những công việc mới. Tôi có thể tạm thời chia sẻ và làm việc cùng trẻ để trẻ nhanh chóng lấy lại tinh thần. Tôi không phê bình hay la mắng trẻ lười biếng hay hậu đậu..., điều đó giúp trẻ lớp tôi tự tin hơn, gần gũi với cô giáo hơn và thích làm việc cùng cô hơn. 7.2.6. Biện pháp 6: “Quan tâm đến cách thức, thái độ khi hướng dẫn trẻ” Khi hướng dẫn trẻ một kĩ năng nào đó, tôi hướng dẫn một cách chậm rãi từng thao tác một. Khi trẻ đã nắm được thao tác này thì tôi mới chuyển sang thao tác khác. Tập dần từng việc, từ tự ăn, tự mặc quần áo, tự dọn dẹp đồ đạchoặc để trẻ tự do làm điều gì trẻ thích chứ tôi không ép buộc phải tự lập đồng bộ. Tôi cố gắng không tỏ ra sốt ruột khi trẻ thất bại nhiều lần bởi như vậy sẽ gây áp lực và khiến trẻ mất hết tự tin. Tùy vào khả năng của trẻ để rèn giũa, nhanh chậm không quan trọng mà vấn đề là trẻ làm được gì. Tôi cho trẻ được thực hiện thường xuyên, liên tục để trở thành kĩ năng, tạo cho trẻ cảm giác phấn khởi là mình cũng giỏi như bạn. Để bé tự làm rồi quan sát để biết vướng mắc chỗ nào rồi chỉ dẫn bé cách làm đúng. 7.2.7. Biện pháp 7: “Không bao giờ quên khen ngợi trẻ” Tôi thường xuyên động viên, khích lệ cổ vũ trẻ kịp thời, khen trẻ khi trẻ làm được và làm tốt những công việc tự phục vụ. Nêu gương trước cả lớp những bạn năng nổ, tích cực phụ giúp cô. Ví dụ như khi trẻ mang giày trong một khoảng thời gian rất ngắn, nhưng tôi lại phát hiện ra là vì vội quá nên trẻ đã mang giày trái. Trong trường hợp này, tôi khen trẻ là đã biết mang giày một cách nhanh chóng, còn chuyện đi giày trái thì nên để trẻ tự cảm nhận, bởi chẳng có ai cảm thấy thoải mái khi mang ngược giày bao giờ. Và đến khi trẻ phát hiện ra điều bất tiện này thì hãy động viên trẻ rằng lần sau con sẽ biết cách đi đúng giày. 7.2.8. Biện pháp 8: “Giáo viên tích cực tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của bản thân”. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan