Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn một số biện pháp giúp trẻ lớp 4 – 5 tuổi khám phá khoa học...

Tài liệu Skkn một số biện pháp giúp trẻ lớp 4 – 5 tuổi khám phá khoa học

.DOCX
27
241
65

Mô tả:

Một số biện pháp giúp trẻ lớp 4 – 5 tuổi khám phá khoa học 1. Lời giới thiệu Giáo dục Mầm Non là ngành học mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở ban đầu, đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách con người. Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của mỗi dân tộc, việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ là trách nhiệm của nhà nước, của toàn xã hội và của mỗi gia đình Đây là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất, thời điểm này tất cả mọi việc đều bắt đầu: bắt đầu ăn, bắt đầu nói, bắt đầu nghe, nhìn và... Chính vì vậy trẻ em như tờ giấy trắng mà cha mẹ các con rất kỳ vọng vào sự tô vẽ của thầy cô. Bậc học mầm non là bậc học đầu tiên của trẻ, có thể nói việc hình thành, rèn luyện ở trẻ những nhân cách ban đầu để trẻ trở thành công dân tý hon hoàn thiện như: Cơ thể khỏe mạnh, thông minh nhanh nhẹn, ngoan ngoãn lễ phép, Có những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống.... đó chính là trách nhiệm của giáo viên mầm non. Đối với trẻ nhỏ, mọi sự vật hiện tượng tự nhiên luôn là điều hấp dẫn nhưng cũng thật lạ lẫm khó hiểu mà trẻ tò mò muốn biết, muốn được khám phá trong suốt cuộc đời và C.Mác cho rằng “Tự nhiên là nguồn gốc của các tri thức cụ thể đầu tiên của con người và nó thường để lại cho chúng ta cảm giác sung sướng được lưu giữ suốt đời”. Chính vì vậy “khám phá khoa học” được coi là một nội dung cơ bản trong chương trình giáo dục mầm non có ý nghĩa vô cùng quan trong và cần thiết đối với trẻ, hoạt động này góp phần tích cực trong việc giúp trẻ phát triển toàn diện các lĩnh vực như nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm xã hội, thẩm mỹ và thể lực....Khám phá khoa học giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết về sự vật hiện tượng tự nhiên, đây là cơ sở để trẻ giải quyết những tình huống trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, tham gia vào các hoạt động đa dạng và phong phú khác ở trường mầm non như hoạt động tạo hình, hoạt động làm quen với toán..., đồng thời còn là những kiến thức khoa học sau này ở trường phổ thông. Mặt khác “khám phá khoa học” còn giúp trẻ phát triển các quá trình nhận thức như cảm giác, tri giác, các thao tác tư duy, cũng như góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất của trí tuệ góp phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển các kỹ năng nhận thức. Đặc biệt đối với trẻ 4-5 tuổi “Khám phá khoa học” không chỉ giúp trẻ phát triển các giác quan, kích thích nhu cầu và hứng thú nhận thức, mà còn thoả mãn tính ham hiểu biết, tích cực tìm tòi, khám phá trải nghiệm nhằm phát hiện những cái mới, những cái ẩn dấu bên trong các sự vật hiện tượng, từ đó giúp trẻ hình thành những khái niệm sơ đẳng ban đầu. Do đó, nhiệm vụ của chúng ta là phải hình thành củng cố mở rộng vốn tri thức của trẻ, đồng thời phải rèn luyện và phát triển các năng lực và hành vi ứng xử đúng đắn với môi trường tự nhiên. Góp phần vào việc phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ sau này. Là giáo viên mầm non, nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực khám phá khoa học đối với sự phát triển của trẻ, tôi luôn cố gắng tìm hiểu, ứng dụng những phương pháp, giải pháp mới nhằm giúp trẻ học tốt hơn, và không phụ lòng mong đợi của tôi, những đứa con nhỏ lớp 4 tuổi B của tôi đã từng ngày lớn lên và tỏ ra đặc biệt thích thú khi được tham gia vào các hoạt động khám phá khoa học. Với mong muốn được chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm với bạn bè đồng nghiệp và các bậc phụ huynh, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ lớp 4- 5 tuổi D trường mầm non Đồng Tĩnh khám phá khoa học” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp giúp trẻ lớp 4 – 5 tuổi D trường mầm non Đồng Tĩnh khám phá khoa học” 3. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: - Họ và tên: Trần Thị Hải Oanh. - Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường mầm non Đồng Tĩnh – huyện Tam Dương – tỉnh Vĩnh Phúc. - Số điện thoại: 0964 584 386 - Email: [email protected]. 4. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: - Lĩnh vực khám phá khoa học. 5. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: - Tháng 8/2016 – tháng 15/02/2017. 6. Mô tả bản chất của sáng kiến: 6.1. Về nội dung của sáng kiến: 6.1.1. Cơ sở lí luận: * Những chủ trương về giáo dục: Theo quyết định số 55 của bộ giáo dục và đào tạo qui định mục tiêu, kế hoạch đào tạo của Nhà trẻ - Mẫu giáo Hà Nội năm 1990 trang 6 ghi rõ mục tiêu giáo dục mầm non là: “Hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên của nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam: + Khỏe mạnh – nhanh nhẹn, cơ thể phát triển hài hòa cân đối. + Giàu lòng thương, biết quan tâm, nhường nhịn, giúp đỡ những người gần gũi như: bố mẹ, bạn bè, cô giáo… thật thà, lễ phép, hồn nhiên. + Yêu thích cái đẹp, biết gìn giữ cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp ở xung quanh. + Thông minh, ham hiểu biết, thích tìm tòi khám phá, có một số kỹ năng sơ đẳng như: quan sát, phân tích, tổng hợp…. Cần thiết để vào trường phổ thông, thích đi học”. * Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng giáo dục khám phá khoa học: Nhằm nâng cao hiệu quả khám phá khoa học cho trẻ, giúp trẻ say mê khám phá, phát triển tính sáng tạo và mở rộng kiến thức cho trẻ, phát triển tư duy, ngôn ngữ, củng cố các kĩ năng nhận thức, rèn khả năng tri giác, phân tích, so sánh, tổng hợp, hình thành những xúc cảm, tình cảm tích cực cũng như cung cấp kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi cho trẻ. Giúp giáo viên có kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động khám phá khoa học cho trẻ phù hợp với chương trình giáo dục mầm non. Giúp cho nhà trường đào tạo cho xã hội nguồn nhân lực phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, lao động, góp phần vào sự nghiệp trồng người của đất nước.  6.1.2.Thực trạng: Trường Mầm non Đồng Tĩnh nằm trên địa bàn của xã Đồng Tĩnh – huyện Tam Dương thuộc khu vực miền núi. Cơ sở vật chất cũng như chất lượng của đội ngũ CBGV còn rất nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được nhu cầu của người học. Năm học 2016 - 2017, trường có tổng số CBGV-NV trong trường là: 26 . Tổng số nhóm, lớp: 15 lớp Trong đó tổng số trẻ là: 442 trẻ. Số phòng học: 11 phòng (trong đó có 6 phòng học tạm, học nhờ). * Thuận lợi: - Đội ngũ giáo viên trong trường luôn đoàn kết, thống nhất. - Cho giáo viên đi học nâng cao trình độ chuyên môn. Vào các dịp hè chúng tôi được đi học bồi dưỡng bồi dưỡng chuyên môn của phòng giáo dục và đào tạo. Dự các buổi chuyên đề về hoạt động tạo hình của phòng, của trường, dự giờ đồng nghiệp tạo điều kiện cho tôi được học tập, củng cố kiến thức nghiệp vụ. - Giáo viên có kế hoạch chương trình ngay từ đầu năm. - Soạn bài chi tiết, sắp xếp hợp lý các nội dung cần truyền đạt, phân bố thời gian cho từng phần phù hợp, nghiên cứu bài và phương pháp bộ môn có chuẩn bị đủ và sử dụng cho cô và trẻ trong hoạt động. - Đa số trẻ được ăn ngủ bán trú tại lớp (20/20 cháu). Tỉ lệ chuyên cần đạt 98%. - Bản thân tôi là giáo viên mới vào nghề chưa lâu vì vậy mà tôi đã dày công suy nghĩ về các phương thức và cách thức làm sao dạy trẻ tốt nhất và mang lại sự vui vẻ hòa đồng, tự tin cho trẻ khi ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ. Là một giáo viên nhiệt tình, năng động, sáng tạo trong công tác, tâm huyết với nghề, có lòng yêu thương trẻ, tận tình với công việc. Luôn luôn có ý thức phấn đấu vươn lên, thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, tạp chí, thông tin trên mạng có liên quan đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ để áp dụng vào việc chăm sóc giáo dục trẻ hằng ngày nhất là việc giáo dục phát triển nhận thức cho trẻ. Có ý thức tự nâng cao trình độ chuyên môn, tham gia đầy đủ các lớp tập huấn chuyên môn. Về phía trẻ: với tinh thần ham học hỏi, ở lớp tham gia các hoạt động tích cực, đặc biệt là các hạt động khám phá khoa học, các trò chơi mang tính khám phá, trải nghiệm, các thí nghiệm về những hiện tượng gần gũi xung quanh trẻ... Hầu hết các trẻ đều thể hiện sự ham thích một cách rõ rệt. Đó là điều kiện thuận lợi cho các tiết dạy khám phá khoa học ở trường mầm non. - Năm 2016 – 2017 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công phụ trách lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi D: - Tổng số học sinh trong lớp có 25 cháu: Nam: 16 Nữ : 9 - 100 % số trẻ ăn ở bán trú tại trường. - Phụ huynh luôn quan tâm đến con và các hoạt động ở lớp. * Khó khăn: - Lớp phải học nhờ nhà dân nên gây khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động khám phá. Thiếu cơ sở vật chất, thiếu kinh nghiệm, trẻ còn nhỏ nhận thức còn hạn chế. Các tài liệu tham khảo về khám phá khoa học còn ít. Vốn hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh còn nghèo nàn. Kỹ năng quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp ở trẻ còn chưa đồng đều. Giáo viên còn nhiều hạn chế về phương pháp tổ chức các hoạt động khám phá khoa học đa dạng, phong phú cho trẻ. Không gian trường hẹp nên khó khăn trong việc tổ chức hoạt động. Xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn trên, tôi luôn trăn trở mình phải làm thế nào để giúp trẻ học thật tốt bộ môn khám phá khoa học, tôi đã không ngừng suy nghĩ và sáng tạo, để tìm ra những cách thức, phương pháp giảng dạy và tạo ra môi trường học tập tốt nhất cho trẻ. Bằng tất cả sự nỗ lực, cố gắng đó, tôi cảm thấy một phần nào ý nguyện của mình đã thực hiện được, mai này biết đâu đó những “mầm non” ấy sẽ tiếp tục là những nhà khoa học khám phá ra những điều kì vĩ hơn nữa. Để có biện pháp giáo dục tốt nhất trong quá trình giúp trẻ khám phá khoa học cho trẻ nên tôi đã tiến hành khảo sát trên trẻ ở lớp tôi ở đầu năm học qua những tiêu chí sau: Bảng A: Đánh giá đầu năm học 2016 – 2017 Tổng số trẻ khảo sát: 25 cháu, đạt 100% Nội dung Tốt Khá TB Yếu Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số trẻ trẻ trẻ trẻ Tỉ lệ Trẻ tích cực tham gia khám phá 12 48% 6 24% 4 16% 3 12% Trẻ có khả năng quan sát ghi nhớ 8 32% 8 32% 6 24% 3 12% Trẻ có kỹ năng: Phân tích, so sánh, 7 28% 8 32% 5 20% 5 20% tổng hợp. Kết quả thể hiện ở bảng trên cho thấy kết quả hoạt động khám phá khoa học ở trẻ chưa cao. Với khả năng, kinh nghiệm và sự hiểu biết của bản thân, tôi tin chắc rằng mình sẽ giúp trẻ có được sự yêu thích, tích cực tham gia khám phá, có khả năng quan sát, ghi nhớ và cao hơn nữa là trẻ có kĩ năng phân tích, so sánh, tổng hợp. 6.1.3. Một số biện pháp khám phá khoa học cho trẻ lớp 4 -5 tuổi D. Biện pháp 1: Lập kế hoạch tổ chức cho trẻ khám phá khoa học. Lựa chọn nội dung khám phá - thí nghiệm phù hợp với khả năng của trẻ. Dựa trên kế hoạch năm học của nhà trường xây dựng và căn cứ vào nội dung trong chương trình theo độ tuổi, căn cứ vào thời gian, thời điểm thực hiện bài tập ở vào giai đoạn nào của chương trình năm học, căn cứ vào mức độ phát triển, khả năng thực tế của trẻ, tôi đã xây dựng kế hoạch nội dung khám phá cho trẻ, xác định độ khó của từng bài tập và sắp xếp theo trình tự để đưa vào hướng dẫn trẻ cho phù hợp đi từ dễ đến khó. Nội dung trong chương trình đã được trình phù hợp với từng chủ đề chủ điểm, phù hợp với các hoạt động khác và các sự kiện. Khi lập được kế hoạch tổ chức tôi thấy rất yên tâm và thực hiện rất hiệu quả. Để giúp trẻ khám phá khoa học đạt kết quả tốt thì việc lựa chọn nội dung khám phá cũng như những thí nghiệm phù hợp với khả năng của trẻ là rất cần thiết và quan trọng. Do đó giáo viên cần quan sát và tìm hiểu khả năng của trẻ trong lớp để làm căn cứ xây dựng kế hoạch hoạt động khám phá khoa học cho hợp lý và phù hợp với sự nhận thức của trẻ. Đầu năm tôi chưa chú ý đến việc lựa chọn nội dung – thí nghiệm cho trẻ khám phá. Tôi thường chọn những nội dung khám phá quá cao so với khả năng nhận thức của trẻ như: Hoạt động khám phá về quy trình làm bánh trung thu hay thí nghiệm pha màu nước.....để giao bài tập cho trẻ hoạt dẫn đến đa số trẻ trong lớp tôi không có kỹ năng khám phá, làm cho tiết học đạt kết quả không cao. Đứng trước tình trạng trên tôi đã đặt mục tiêu cho mình khi lập kế hoạch cho trẻ cần có tính hệ thống từ đơn giản đến phức tạp, đồng thời mở ra một hướng khám phá mới cho các hoạt động tiếp theo. Ví dụ: Đầu năm tôi cho trẻ làm thí nghiệm “Bong bóng bay” tôi cho trẻ thổi những quả bóng rồi cho trẻ cùng chơi: Một bạn nói qua quả bóng còn một bạn bạn áp tai vào quả bóng và nghe xem âm thanh bạn nói có gì thay đổi (Hình1). Hay để biết được sự thay đổi của âm thanh, tôi cho trẻ bịt tai lại hỏi trẻ có nghe thấy cô nói không và giọng nói của cô có gì thay đổi không? Hình thức cho trẻ tự nói nên cảm nhận của riêng mình giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn. Hình 1: Trẻ làm thí nghiệm “Bong bóng bay” Khi trẻ đã mạnh dạn hơn rồi tôi cho trẻ tham gia vào các thí nghiệm khó như ở chủ đề bản thân tôi cho trẻ khám phá về các giác quan của trẻ (vị giác). Ví dụ: Khám phá về “vị của nước” tôi chuẩn bị cho mỗi trẻ 3 cốc nước, các đĩa đựng đường, muối, một số viên C sủi. Đầu tiên tôi cho trẻ quan sát và uống ly nước sôi cho trẻ nói lên cảm nhận của mình, có cháu nói nước không có vị gì, có cháu nói nước không có mùi, cháu Cẩm Tú thì bảo nước không có màu gì. Tôi kết luận: Nước không màu, không mùi không vị. Và tôi hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cho một thìa muối (đường, viên C sủi) vào cốc nước, có trẻ nói là nước sẽ bị mặn, có trẻ lại cho rằng nước ngọt, nước có vị chua,.... rồi yêu cầu trẻ cho 1 thìa muối vào ly nước và nếm thử. Lúc này tôi thấy có trẻ thì nhăn mặt lại Tôi hỏi tại sao? rất nhiều ý kiến khác nhau đưa ra: Con thấy hơi mặn, con thấy rất mặn, con thấy chua vì con cho viên C sủi vào....... Cuối cùng tôi đưa ra một kết luận: Nước có thể thay đổi về vị tuỳ theo chúng ta cho thêm đường hoặc muối hay nước cam, chanh... Bên cạnh đó tôi luôn quan sát và tìm hiểu khả năng của từng trẻ trong lớp thông qua quá trình trẻ thực hiện các hoạt động. Từ đó tôi đánh dấu những trẻ cần được đưa những câu hỏi và những trẻ sẽ trả lời những câu hỏi khó hơn hoặc thực hiện những bài tập phức tạp hơn để tránh tình trạng những trẻ nhận thức hạn chế cũng thực hiện những bài tập khó giống như những trẻ có khả năng nhận thức tốt, dẫn đến những trẻ đó thường bị thụ động không mạnh dạn tự tin khi tham gia vào hoạt động khám phá cùng bạn. Như trong chủ đề “Bản thân” cháu Quốc Bảo sự nhận thức còn hạn chế, tôi đưa câu hỏi dễ như tác dụng của các giác quan (Mắt có tác dụng gì?Mũi dùng để làm gì?...) để trẻ trả lời được, từ đó tạo cho trẻ cảm giác thành công trong công việc giúp trẻ bạo dạn và tự tin vào bản thân mình hơn. Còn cháu Huyền Diệu sự nhận thức cũng như tư duy của trẻ phát triển tốt tôi đặt ra những bài tập hay câu hỏi khó như: Tôi hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta bịt mũi lại? hay tại sao con lại nghĩ số người và số khăn mặt lại bằng nhau?... để tránh gây cho trẻ sự nhàm chán trong quá trình khám phá. Nhờ vào việc lựa chọn nội dung khám phá – thí nghiệm cũng như việc đặt câu hỏi phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ mà tôi thấy các hoạt động khám phá tôi đưa ra cho trẻ đều được trẻ hưởng ứng nhiệt tình. Trẻ lớp tôi đã mạnh dạn, tự tin hơn trong việc thảo luận cũng như tìm ra kết quả nhanh nhất để hoàn thành công việc mình đang làm. Biện pháp 2. Dạy trẻ khám phá khoa học trong giờ hoạt động chung: Đầu năm ở các tiết học khám phá tôi tôi vẫn thường ôm đồm nhiều nội dung trong một hoạt động khám phá và tôi vẫn nói nhiều. Điều này làm cho các hoạt động khám phá trở nên nặng nề, quá tải, trẻ không được tham gia các hoạt động khám phá phù hợp với khả năng. Vì vậy không có cơ hội phát triển ở trẻ khả năng nhận thức, khám phá. Hơn nữa tôi chỉ sử dụng tranh ảnh rồi đặt các câu hỏi và trả lời của trẻ, cũng có khi tôi lại là người nói còn trẻ chỉ nghe một cách thụ động, dẫn đến giờ học trở nên nhàm chán, không đạt kết quả cao. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn sử dụng vật thật kích thích các giác quan của trẻ hoạt động, trẻ được trực tiếp quan sát, phân tích so sánh tự mình rút ra một kết luận theo ý hiểu của riêng mình. Điều đó thực sự làm trẻ thích thú và hứng thú tham gia vào hoạt động khám phá. Ví dụ: Ở chủ đề thế giới động vật với bài khám phá khoa học: Một số con vật sống dưới nước (con cá, con tôm, con cua). Tôi cho trẻ cho trẻ trực tiếp quan sát các đặc điểm của con vật theo từng nhóm (Nhóm 1: Quan sát con cua, Nhóm 2: Quan sát con cá, Nhóm 3: Quan sát con tôm. (Hình 2) Hình2: Trẻ đang khám phá các con vật sống dưới nước theo từng nhóm Sau đó tôi cho trẻ tự nhận xét về các đặc điểm của chúng thông qua các câu hỏi: Con đang quan sát con gì? Con thấy con cua có đặc điểm gì? Cháu Ngọc Diệp trả lời: Con thưa cô con cua có 2 cái càng và nhiều chân? Tôi lại hỏi: Bạn nào có ý kiến khác ? Và rất nhiều ý kiến khác nhau mà trẻ đưa ra như: Con cua có mai? hay cháu Minh Huy nói: Con cua dùng chân để bò, cô trẻ hỏi: vì sao con cua lại bò ngang? Câu hỏi ấy khiến nhiều trẻ tò mò muốn biết, lúc này tôi hỏi lại câu hỏi đó cho cả lớp cùng thảo luận. Rất nhiều ý kiến khác nhau được đưa ra: Vì con cua có nhiều chân, vì con cua có 2 càng, vì chân con cua ở 2 bên...Đây là lúc tôi giúp trẻ giải thích để đi đến một kết luận: Vì do cấu tạo của con cua, chân nó nằm ngang ở hai bên nên nó phải bò đi theo hướng ngang sang hai bên. Không chỉ dùng lại ở việc cho trẻ khám phá về đặc điểm của con vật mà tôi còn hỏi trẻ về môi trường sống của chúng. Ví dụ: Con cá sống ở đâu? Tôi luôn đặt ra tình huống để kích thích trẻ tham gia tích cực vào hoạt động khám phá khoa học. Ví dụ: Tôi vớt một con cá đặt lên khay và 1 con cá để trong chậu nước và hỏi trẻ xem có hiện tượng gì xảy ra. Trẻ quan sát và thấy hiện tượng: Con cá ở dưới nước thì bơi được còn con cá ở trên khay thì nhảy và quẫy. Tôi hỏi : Tại sao lại có hiện tượng đó. Cháu Tường Vi trả lời: Con thưa cô: Con cá có vây thì bơi được ở dưới nước còn khi ở trên cạn cá không bơi được nên nó nhảy và quẫy. Sau khi tình huống đã được giải quyết tôi khái quát lại một cách ngắn gọn: Đúng rồi con cá có vây và thở bằng mang nên khi có nước con cá thở được và chúng ta nhìn thấy những bong bóng sủi lên, còn khi ở trên cạn con cá sẽ khó thở và sẽ có hiện tượng cá nhảy và quẫy, nếu để lâu trên cạn con cá sẽ bị chết. Tôi thả ngay cá vào chậu nước tránh để trẻ nhìn thấy cá bị chết. Song với bài dạy trên nếu chúng ta chỉ dừng lại ở việc cho trẻ quan sát thì mục tiêu của bài dạy mà tôi đưa ra cho trẻ là không hiệu quả như mong muốn . Bởi vì hoạt động khám phá đòi hỏi trẻ không chỉ biết quan sát, mô tả lại đặc điểm của chúng mà còn phải biết phân tích so sánh và tôi cho trẻ so sánh giữa các con vật Ví dụ: Con cá và con cua. Đây chính là hình thức để tôi kích thích trẻ tham gia vào quá trình phân tích so sánh giữa 2 đối tượng với hệ thống câu hỏi như: Con cá và con cua có điểm gì giống và khác nhau? Rất nhiều ý kiến khác nhau đã được đưa ra: Con cua có mai và có chân, con cá có vây và có đuôi; con cua biết bò còn con cá biết bơi.....Cuối cùng tôi khẳng định lại cho trẻ nghe về sự giống và khác nhau của con cá và con cua nhằm khắc sâu những kiến thức mà trẻ vừa khám phá. Để biết được trẻ nắm được kiến thức đến đâu trong quá trình khám phá, tôi khuyến khích trẻ mô tả, kể lại những điều trẻ phát hiện được dưới dạng một câu chuyện hoặc bằng hình vẽ và trong nhóm có thể bổ sung cho nhau (Hình 3). Trong quá trình thể hiện lại là trẻ đã đang tổng hợp lại những kiến thức mà trẻ vừa được quan sát, phân tích, so sánh. Trên cơ sở đó tôi phát hiện được khả năng quan sát, phân tích của từng trẻ để củng cố và bổ sung cho trẻ ở những giờ hoạt động khác. Hình 3 : Trẻ vẽ lại các con vật mình vừa quan sát Với hình thức cho trẻ được quan sát phân tích so sánh, giải quyết tình huống và trải nghiệm như trên tôi thấy trẻ lớp tôi sôi nổi hứng thú đưa ra những nhận xét đánh giá khác nhau, giúp cho giờ học đạt kết quả cao. Như vậy trong một giờ học trẻ được tham gia vào các các dạng hoạt động khám phá khác nhau: từ quan sát trải nghiệm, thảo luận trao đổi, nhận xét, so sánh, tổng hợp....Điều đó giúp cho việc tích lũy kinh nghiệm và phát triển kỹ năng của trẻ được hiệu quả mà lại không tạo sự nhàm chán và căng thẳng đối với trẻ. Ngoài tiết học chính về hoạt động khám phá thì các tiết học khác tôi cũng có thể lồng ghép cho trẻ khám phá khoa học như ở hoạt động làm quen với văn học tôi cho trẻ khám phá “Vòng tuần hoàn của nước” thông qua câu chuyện “Giọt nước tí xíu”. Hay ở hoạt động tạo hình cho trẻ pha màu nước, trẻ luôn đặt ra câu hỏi: Tại sao màu này pha với màu kia lại thành màu khác? Lúc này trẻ được pha màu nước để tô vẽ bức tranh đồng thời trẻ đã phát hiện ra: màu vàng pha với màu xanh nước biển ra màu xanh lá cây; màu đỏ với màu vàng thì ra màu cam;......Với hình thức này trẻ sẽ tích lũy được nhiều kinh nghiệm cũng như vốn hiểu biết về thế giới xung quanh sẽ góp phần không nhỏ vào các hoạt động khám phá khoa học đạt kết quả tốt hơn. Được trực tiếp làm các thí nghiệm với các vật mà mình đang học quả là điều thích thú đối với trẻ. Nếu trước đây trên tiết học tôi chỉ dạy những bài khám phá đơn giản, chỉ sử dung tranh ảnh, thì tiết học không đạt kết quả cao. Vì vậy tôi đã mạnh dạn đưa những thí nghiệm nhỏ vào trong tiết dạy. Ví dụ: Thí nghiệm1: Vật chìm vật nổi Tôi chia trẻ thành 2 nhóm và chuẩn bị cho mỗi nhóm một chậu nước, và các đồ vật khác nhau: sỏi, cát, viên bi, lá cây, bóng nhựa, bông hoa,…Đầu tiên tôi yêu cầu trẻ cầm, nắm, sờ các đồ vật tôi đó rồi tôi thảo luận với trẻ những vật nào nổi, vật nào chìm. Cháu Văn Hiếu bảo bông hoa chìm, nhưng cháu Ánh Ngọc lại bảo bông hoa nổi. Sau đó tôi ghi lại các ý kiến của trẻ để xem trẻ nào nói đúng, trẻ nào nói sai. Với tôi câu trả lời của trẻ đúng – sai không quan trọng bằng việc biết được trẻ suy nghĩ và tìm ra kết quả đó bằng cách nào. Để biết được trẻ nào đúng trẻ nào sai, tôi yêu cầu trẻ hãy lấy một số đồ vật thả vào chậu nước (Hình 4) và quan sát xem vật nào nổi vật nào chìm? Tôi hỏi trẻ các con quan sát xem vật nào nổi lên mặt nước, trẻ trả lời : Xốp, lá cây, quả bóng nhựa, miếng gỗ, viên sỏi, hòn bi… Vì sao các vật đó lại nổi được? Rất nhiều ý kiến trả lời khác nhau, có trẻ trả lời là do lá cây nhẹ, lá cây không thấm nước, ….. Vậy các con hãy quan sát xem những vật nào chìm và vì sao? Bạn Đức Minh nói : “Con thưa cô, Con thấy hòn sỏi bị chìm vì hòn sỏi nặng” hay “Con thấy hòn bi cũng chìm vì hòn bi hình tròn và nặng hơn cái lá cây”… Với hình thức này tôi thấy trẻ được trải nghiệm, được thử - sai và cuối cùng tự mình tìm ra được một kết quả nào đó trẻ sẽ cảm thấy sung sướng. Hình 4: Trẻ đang làm thí nghiệm vật chìm vật nổi. Hay với bài dạy về “không khí”, Tôi cho trẻ làm thí nghiệm dưới hình thức tổ chức các trò chơi. Trò chơi 1: “Bịt mũi” tôi và cả lớp cùng làm động tác bịt mũi, miệng mím lại và cho trẻ nói cảm nhận của mình khi bịt mũi, đa số các cháu trả lời: thấy rất khó chịu, không thở được. Vậy làm thế nào để thở được? Cháu Minh Khôi trả lời: Con thưa cô muốn thở được phải bỏ tay ra, tôi nói: Chúng ta thở được là nhờ có không khí và tôi đặc ra vấn đề cho trẻ giải quyết như: Không khí có ở đâu? cháu Như Hoa thì nói con không biết, cháu Phương Anh thì nói không khí ở đây? Tôi hỏi vì sao con biết là ở đây có không khí thì cháu trả lời: Vì con thở được. Để xem bạn nói có đúng không, tôi cho trẻ đứng ở trong lớp, ngoài cửa, ngoài sân và hỏi trẻ có thở được không? Rồi tôi kết luận: Không khí có ở xung quanh chúng ta. Tôi tiếp tục đặt ra tình huống “Chúng ta có nhìn thấy không khí không?” “Có bắt được không khí không?” có cháu nói không bắt được, có cháu nói có bắt được, vậy làm thế nào để bắt được không khí? rất nhiều ý kiến khác nhau đưa ra: Lấy ly, lấy chai, lấy túi nilông.... để bắt không khí. Trò chơi 2: “Vợt không khí” Tôi phát cho mỗi trẻ một túi ni lông và yêu cầu trẻ vợt không khí vào túi rồi buộc lại và quan sát xem có hiện tượng gì xảy ra. Trẻ nói: Túi phồng to giống như quả bóng. Tôi hỏi: Vì sao túi lại phồng?... Tôi giải thích cho trẻ biết “Vì trong túi có không khí”. Để biết điều đó có chính xác không, tôi chia trẻ làm 2 nhóm. Nhóm 1 tôi cho trẻ dùng tăm chọc vào túi ni lông rồi áp vào má (Hình 5), hỏi trẻ cảm thấy thế nào? (mát, có gió...), Nhóm 2 tôi cho trẻ dùng tăm chọc túi nilông và thả xuống chậu nước và thấy hiện tượng gì xảy ra (bong bóng nổi lên) Vì sao? Vì trong túi nilông có không khí....... Cứ như vậy giờ thí nghiệm trở nên sôi động và trẻ rất vui, hứng thú say sưa tìm hiểu để rút ra được kết luận: Không khí có tất cả xung quanh chúng ta, không khí không có màu, không nhìn thấy được, nhờ không khí mà con người mới thở được ..... Hình 5: Trẻ thả túi nilong vào nước. Như vậy là trẻ đã được trực tiếp quan sát, tự mình, trải nghiệm suy đoán, phân tích và tìm ra một kết luận mà mình cho là đúng và khi thí nghiệm thành công, tôi thấy trên khuôn mặt trẻ hiện rõ vẻ thích thú, phấn khởi vô cùng. Với thí nghiệm nhỏ này tôi thấy vui và trẻ lớp tôi đã thực sự chủ động khi làm công việc thí nghiệm, giúp trẻ tự tin, tự lập suy nghĩ , tự tìm ra kết quả nhanh nhất để hoàn thành công việc mình đang làm. Biện pháp 3: Khám phá khoa học ở mọi lúcu mọi nơi: Không chỉ cho trẻ khám phá khoa học vào các giờ hoạt đô ̣ng chung mà tôi còn cho trẻ khám phá khoa học ở mọi lúc mọi nơi, những nội dung tôi cho trẻ khám phá tùy thuộc từng chủ đề Ví dụ: Ở hoạt động ngoài trời với chủ đề “Thế giới thực vật”. Tôi cho trẻ khám phá “sự sinh trưởng của cây”, để trẻ thấy được quá trình lớn lên của cây. Ngay từ đầu chủ đề tôi đã chuẩn bị sẵn những thùng chứa đất tơi xốp: Nhóm thì gieo hạt đỗ, nhóm thì gieo hạt ngô, nhóm thì gieo hạt rau cải.....Tôi yêu cầu trẻ hàng ngày chúng ta chỉ tưới nước cho chậu gieo đỗ và chậu gieo hạt ngô, còn chậu gieo cây rau cải thì không tưới nước để vào gậm cầu thang?. để xem điều gì sẽ xảy ra. Tôi thấy trẻ lớp tôi rất tò mò, muốn biết điều gì sẽ xảy ra với 3 chậu cây vừa gieo hạt. Một tuần sau tôi mang 3 chậu cây ra cho trẻ cùng quan sát, trẻ nào cũng ngạc nhiên hỏi: Tại sao cây đỗ mọc lên mà hạt vẫn ở trên rồi mới mọc ra 2 cái lá còn cây ngô thì lại mọc thẳng lên và ra lá? Hay cháu Đức Minh nói “Tại sao chậu hạt rau cải của mình lại không mọc lên nhỉ?” Những câu hỏi này đã được trẻ thảo luận rất sôi nổi, có cháu bảo vì hàng ngày chậu hạt cải không được tưới nước giống như cây đỗ và cây ngô, có cháu lại bảo: Chắc là ông mặt trời không chiếu ánh sáng cho chậu hạt rau cải,...Như vậy trong quá trình trẻ trải ngiệm quan sát, trẻ không chỉ nhận ra được sự khác nhau giữa cây này và cây khác, mà còn hiểu được cây lớn lên và sống được cần có ánh nắng mặt trời, không khí và sự chăm sóc của con người như tưới nước cho cây......Điều đó chứng tỏ rằng trẻ đã có những kinh nghiệm ban đầu về quá trình sinh trưởng của cây, cây cần gì để duy trì sự sống…. Cũng có khi tôi cho trẻ làm những thí nghiệm nhỏ ở ngoài sân trường như thí nghiệm “Tan hay không tan”. Ở thí nghiệm này tôi chuẩn bị cho trẻ những chiếc cốc đựng nước, các vật: muối, đường, cát, sỏi, vôi.....cũng giống như ở thí nghiệm “vật chìm – vật nổi”, tôi cho trẻ sờ, cầm, nắm và dự đoán xem vật nào tan, vật nào không tan rồi cho trẻ thực hành để biết xem bạn nào nói đúng bạn nào nói sai. Sau khi trẻ trải nghiệm trẻ đã rút ra được kết luận: những vật tan trong nước: Muối, đường,..., còn những vật không tan được trong nước là: Cát, sỏi, .... Để gây sự hứng thú và tò mò của trẻ tôi tập trung trẻ lại và thả một cục vôi xuống nước xem điều gì sẽ xảy ra? đa số trẻ đều nói là dưới nước đang có hiện tượng sủi bọt, tôi cho trẻ sờ xung quanh lọ vôi và hỏi trẻ cảm thấy thế nào, trẻ nói “Con thấy rất nóng”, lúc này tôi mới giáo dục trẻ: khi thả cục vôi xuống dưới nước sẽ có hiện tượng sủi bọt, bên ngoài bình vôi rất nóng vì vậy các con không chơi ở chỗ người ta tôi vôi. Đây là hình thức tôi giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết về bản chất của các sự vật hiện tượng, đồng thời giúp trẻ giải quyết những tình huống diễn ra trong cuộc sống hàng ngày một cách tự tin và biết tránh xa những nơi gây nguy hiểm cho bản thân. Bên cạnh đó, hoạt động góc cũng góp phần không nhỏ vào việc tích luỹ cho trẻ những kiến thức đơn giản, thực tế. Các giờ hoạt động chiều tôi cho trẻ khám phá khoa học thông qua những thí nghiệm đơn giản Ví dụ: Chỉ bằng 2 cốc nước tôi có thể thu hút trẻ và giúp trẻ khám phá 1 số hiện tượng đơn giản về nước thông qua 1 số thí nghiệm như “Nước nóng – nước lạnh – nước bốc hơi”, Thí nghiệm “Nhanh – chậm”, “Đổi màu”, hay thí nghiệm về “sự cần thiết của không khí”. Tôi dùng 2 cây nến đang cháy và 1 chiếc cốc (Hình 6). Tôi hỏi điều gì sẽ xảy ra khi cô úp chiếc cốc này vào cây nến để cho trẻ được phán đoán, có trẻ nói: Nến cháy to hơn, có cháu lại bảo nến tắt, có cháu lại bảo nến cháy nhỏ hơn... Sau đó tôi làm cho trẻ xem. Lúc này tôi mới đưa câu hỏi. Taị sao cây nến lại tắt để trẻ trả lời, rồi tôi đi đến kết luận: Vì khi chiếc cốc úp vào bên trong đó kín không còn không khí nữa nên cây nến không cháy được còn cây nến bên cạnh vẫn cháy bình thường Hình 6: Hình ảnh cô làm thí nghiệm với 2 cây nến. Hay trong giờ đón - trả trẻ tôi tổ chức trò chơi vừa dạy cho trẻ những kinh nghiệm nhỏ vừa tạo được hứng thú cho trẻ. Ví dụ: Trò chơi “Gọi điện thoại”, cho trẻ gọi điện thoại cho bạn bằng ống bơ sữa bò và hỏi trẻ khi được nghe qua ống bơ các con cảm nhận thế nào để trẻ đưa ra những câu hỏi thắc mắc nhằm kích thích tính tò mò, ham hiểu biết nhằm phát triển tư duy của trẻ. Biện pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết dạy khám phá khoa học: Như chúng ta đã biết, không phải ở tiết học nào cũng có thể cho trẻ trải nghiệm bằng vật thật mà có những tiết phải sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin như một số bài dạy trong chủ đề Thế giới động vật với bài khám phá “Sự ra đời của gà con”, “vòng tuần hoàn của Bướm”.... Với những tiết dạy trên tôi phải cho trẻ khám phá thông qua những hình ảnh sinh động tôi copy trên mạng để giúp trẻ hiểu rõ hơn về vòng tuần hoàn của Bướm: Từ con tằm -> nhộng -> bướm -> đẻ trứng -> tằm -> nhộng -> bướm,.... Qua việc sử dụng powerpoint tôi thấy trẻ thích thú say sưa khám phá giúp giờ học đạt kết quả tốt hơn. Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, sự phát triển của hệ thống mạng cùng với những tiện ích, ứng dụng phong phú đã tạo nên một cuộc cách mạng trong mọi người, mọi ngành và đặc biệt là giáo dục. Chính vì vậy ngay từ cấp học mầm non trẻ đã được làm quen với công nghệ thông tin như một phần của hoạt động giáo dục không thể thiếu. Không chỉ với người lớn mà đối với trẻ em mầm non thì công nghệ thông tin luôn mang lại nhiều điều kì thú và hữu ích trong việc tiếp thu kinh nghiệm sống. Hơn nữa trong việc giáo dục, truyền đạt kiến thức cho trẻ không phải sự vật hiện tượng nào cũng có sẵn để trẻ được trực tiếp tri giác, nhất là với hoạt động khám phá khoa học như tìm hiểu động vật sống dưới biển, quan sát máy bay, các hiện tượng tự nhiên,.. hay chúng ta không thể có thời gian để chứng kiến những hiện tượng trong tự nhiên xảy ra như tìm hiểu về cách sinh sản của một số loại vật nuôi, …chính vì vậy để trẻ được tìm hiểu thế giới xung quanh một cách bao quát nhất thì ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết học là một việc cần thiết. Khi sử dụng công nghệ thông tin như các bài powerpoint vào các tiết học khám phá khoa học. Tôi nhận thấy trẻ tỏ ra rất hào hứng, thích thú và cũng giúp trẻ nhận biết sự vật- hiện tượng một cách rõ ràng hơn. Ví dụ: Khám phá động vật sống trong rừng. Vì điều kiện khó khăn và thiếu thốn nên nhà trường không thể đưa trẻ đến vườn bách thú để trẻ quan sát thực tế các con vật đó. Tôi cho trẻ xem hình ảnh các loài động vật rừng trên Powerpoint .Từ đó mà trẻ sẽ biết một số đặc điểm cơ bản: tiếng kêu, cấu tạo bên ngoài, thức ăn, vận động, cách kiếm ăn của chúng... Hình 7: Trẻ khám phá các loài động vật sống trong rừng Biện pháp 5: Phối hợp với với phụ huynh. Để nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học của trẻ trong trường mầm non, ngay từ đầu năm học tôi đã chủ động ghi lại các số điện thoại của phụ huynh, gặp
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan