Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Skkn sử dụng di sản trong dạy học tích cực bộ môn lịch sử ở trường trung học cơ ...

Tài liệu Skkn sử dụng di sản trong dạy học tích cực bộ môn lịch sử ở trường trung học cơ sở

.PDF
34
2168
66

Mô tả:

PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Bắt đầu từ nửa sau thế kỉ XX, quá trình phát triển của nhân loại đã chuyển biến theo hướng mới, tạo cơ hội cho các quốc gia đang phát triển nhất là các quốc gia châu Á đã có những bước phát triển mang tính nhảy vọt, trong đó có Việt Nam. Để vững bước trong quá trình hội nhập với kinh tế, phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững của Đảng và nhà nước thì yếu tố tiên quyết là yếu tố về con người. Nhằm phát triển tiềm năng của đất nước, phục vụ những mục tiêu trước mắt và lâu dài, đòi hỏi đất nước ta phải có những người lao động vừa giỏi về chuyên môn, vững vàng về đạo đức, văn minh trong lỗi sống. Nhiệm vụ này thuộc về nền giáo dục của nước nhà. Vậy có thể nói, công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi giáo dục cơ sở phải đào tạo những con người phát triển toàn diện, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi môn học ở nhà trường với đặc trưng của mình đều phải góp phần đào tạo thế hệ trẻ, trong đó có Lịch sử. Những kiến thức lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc từ cổ đến kim đều có tác động không chỉ đến trí tuệ mà cả trái tim học sinh. Nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử trong quá khứ sẽ khơi dạy trong học sinh những tư tưởng tình cảm đúng đắn, mà những tư tưởng tình cảm này là hành trang tối cần thiết cho thế hệ trẻ trong điều kiện mở cửa, hội nhập với thế giới. Song muốn phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử trong việc giáo dục học sinh cần nâng cao hiệu quả dạy học, trong đó mục đích là nâng cao hiệu quả bài học kinh nghiệm. Một trong những phương pháp khoa học để giảng dạy tốt môn Lịch sử ở trường Trung học cơ sở là biết khai thác triệt để, hiệu quả các di sản lịch sử. Di sản văn hóa có vai trò thực sự to lớn trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Trong dạy học, biết sử dụng di sản văn hóa để hướng đến những giá trị về chân - thiện - mỹ thì bài giảng của người thầy mang sức sống văn hiến và có thêm độ dày của lịch sử. Di sản văn hóa Việt Nam là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lâu bền về lịch sử, khoa học và được lưu truyền vĩnh cửu từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có thể coi di sản văn hóa là một thứ của cải vô cùng quý báu mà ông cha ta đã để lại cho con cháu muôn đời sau. Vì vậy việc nghiên cứu cách thức sử dụng di sản trong dạy học tích cực ở bộ môn Lịch sử, trường Trung học Cơ sở là rất cần thiết và có ý nghĩa khoa học. Mặt khác việc dạy và học môn Lịch sử tại trường Trung học Cơ sở bằng cách sử dụng di sản văn hóa đang là vấn đề được Bộ giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du Lịch hết sức quan tâm, đẩy mạnh. Do vậy những kết quả thu được trong việc nghiên cứu đề tài này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc xây 1 dựng cơ sở dữ liệu cho công tác quản lý chất lượng dạy và học, hoàn thiện hơn nữa về phương pháp giảng dạy sáng tạo môn Lịch sử sau này. Bên cạnh đó, xuất phát từ thực trạng việc học tập Lịch sử hiện nay trong trường phổ thông: đa phần các em coi Lịch sử là môn học phụ, học chống đối, không thích học, chán học, sợ học…. Một số giáo viên chưa hiểu hết và coi trọng vai trò giảng dạy Lịch sử thông qua các di sản. Với lý do trên, tôi đã chọn đề tài: Sử dụng di sản trong dạy học tích cực bộ môn Lịch sử ở trường trung học cơ sở. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Trên cơ sở tìm hiểu lí luận và khảo sát thực tiễn về sử dụng di sản trong dạy cho học sinh trường trung học cơ sở (THCS) thông qua bộ môn Lịch sử, tôi đưa ra một số sáng kiến, kinh nghiệm về vấn đề: Sử dụng di sản trong dạy học tích cực ở bộ môn Lịch sử, trường trung học cơ sở, nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học Lịch sử cho học sinh ở trường THCS. III. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI, KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU - Đối tượng: Học sinh trường THCS Trưng Vương – Hoàn Kiếm – Hà Nội - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu đề xuất giải pháp: Sử dụng di sản trong dạy học tích cực ở bộ môn Lịch sử, trường trung học cơ sở - Kế hoạch nghiên cứu: + Xây dựng kế hoạch và thực nghiệm: năm học 2013 – 2014 + Tiến hành đại trà: năm học 2014 -2015 2 PHẦN II - NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận 1.1. Tổng quan về Di sản 1.1.1.Khái niệm về Di sản Di sản văn hóa Việt Nam bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể (bao gồm di sản văn hóa và di sản thiên nhiên) là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. 1.1.2. Đặc điểm của di sản văn hóa Việt Nam Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn hóa của cộng đồng các dân tộc anh em, trải qua một quá trình lịch sử lâu đời, được trao truyền , kế thừa và tái sáng tạo từ nhiều thế hệ cho tới ngày nay. Di sản văn hóa Việt Nam là bức tranh đa dạng văn hóa, là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị sáng tạo từ việc học hỏi, giao lưu và kế thừa từ các nền văn hóa và văn minh của nhân loại. Những giá trị đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn hóa và văn minh của nhân loại với nền văn hóa bản địa lâu đời của các dân tộc Việt Nam. Di sản văn hóa Việt Nam, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể có sức sống mạnh mẽ, đang được bảo tồn và phát huy trong đời sống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa thông qua Luật di sản văn hóa được Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua năm 2001 và được sửa đổi năm 2009. 1.1.3. Phân loại di sản Di sản văn hóa Việt Nam bao gồm hai loại: di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. * Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Di sản văn hóa vật thể bao gồm: - Di tích lịch sử - văn hóa: là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. 3 - Danh lam thắng cảnh: còn gọi là di sản thiên nhiên là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử thẩm mỹ, khoa học. - Di vật: là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. - Cổ vật: là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên. - Bảo vật quốc gia: là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học. *.Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác. Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: - Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam. - Ngữ văn dân gian, bao gồm sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu đố, truyện cổ tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt khác được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết. - Nghệ thuật trình diễn dân gian, bao gồm âm nhạc, múa hát, sân khấu và các hình thức trình diễn dân gian khác. - Tập quán xã hội, bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và các phong tục khác. - Lễ hội truyền thống - Nghề thủ công truyền thống - Trí thức dân gian 1.1.4. Ý nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học, giáo dục cơ sở Di sản văn hóa là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Di sản văn hóa, dù dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể đều có thể sử dụng trong quá trình giáo dục, dạy học dưới hình thức tạo môi trường, tạo công cụ hoặc là nguồn cung cấp chất liệu để xây dựng nội dung dạy học. Sử dụng di sản trong dạy học giúp cho quá trình học tập của học sinh trở nên hấp dẫn hơn, học sinh hứng thú với học tập và hiểu bài sâu sắc hơn, phát triển tư duy độc lập sáng tạo, giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh. Ý nghĩa, vai trò của các di sản văn hóa có thế được phân tích dưới các góc độ sau: - Góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn hoạt động nhận thức cho học sinh: các di sản văn hóa, dù là thật hay ảo (thể hiện qua tranh, ảnh, phim,...) sử dụng trong 4 dạy học, giáo dục đều góp phần nâng cao tính trực quan giúp người học mở rộng khả năng tiếp cận với đối tượng, hiện tượng liên quan đến bài học tồn tại trong di sản. Tiếp cận với di sản, học sinh sử dụng hệ thống tín hiệu thứ nhất (sử dụng các giác quan như mắt – nhìn, tai – nghe, mũi – ngửi, ta – sờ,... ) để nghe được, thấy được, cảm nhận được và qua đó tiếp thu được những kiến thức cần thiết từ di sản… ngoài ra các giá trị có trong di sản còn được giáo viên khai thác bằng cách đặt các câu hỏi mang tính chất định hướng hoặc gợi ý cho học sinh tìm hiểu chúng, qua đó di sản được sử dụng như là phương tiện điều khiển quá trình nhận thức của học sinh. Những gợi ý đó giúp cho cho hoạt động thăm quan di sản trở nên có ý nghĩa hơn và làm cho bài học lịch sử trở nên sống động hơn. - Giúp học sinh phát triển kỹ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức: Di sản văn hóa là phương tiện quan trọng giúp học sinh rèn một số kỹ năng học tập như kỹ năng quan sát, thu thập, xử lý thông tin, thảo luận nhóm, qua đó tự chiếm lĩnh kiến thức cần thiết thu được trong quá trình tiếp cận với di sản, kỹ năng vận dụng kiến thức đã học để giải thích những hiện tượng, sự vật có trong các di sản văn hóa. - Kích thích sự hứng thú nhận thức của học sinh: Hứng thú nhận thức là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến cường độ và hiệu quả của quá trình học tập. Trong giai đoạn nhận thức cảm tính, sự tri giác của đối tượng, hiện tượng là điều kiện để phát sinh cảm giác, tạo nên biểu tượng về chúng và sau đó, nhờ nhận thức lí tính hình thành nên khái niệm hoàn chỉnh về đối tượng, hiện tượng nghiên cứu. Trong quá trinh tiếp cận với di sản văn hóa theo sự hướng dẫn của giáo viên, các hiện tượng sự vật, các giá trị ẩn chứa trong di sản sẽ được các em tìm hiểu, khám phá và trải nghiệm. Những điều tưởng như quen thuộc sẽ trở nên hấp dẫn hơn, sống động hơn và học sinh sẽ có hứng thú với chúng, từ đó các em có được động cơ học tập đúng đắn, trở nên tích cực và phấn đấu tiếp nhận kiến thức mới cũng như có thái độ và hành vi thân thiện, bảo vệ di sản tốt hơn. - Phát triển trí tuệ của học sinh: trong quá trình học tập, trí tuệ của học sinh phát triển nhờ sự tích cực hóa các mặt khác nhau của hoạt động tư duy, nhờ việc tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển khác nhau của hoạt động tâm lý: tri giác, biểu tượng, trí nhớ... Cho học sinh tiếp cận di sản đúng mục đích, đúng lúc với các phương pháp dạy học phù hợp, với sự hướng dẫn chi tiết mang tính định hướng, kích thích tư duy, giáo viên sẽ giúp học sinh phát triển khả năng quan sát, khả năng xử lý thông tin, khả năng phân tích, tổng hợp và so sánh, qua đó phát triển trí tuệ của các em. - Giáo dục nhân cách học sinh: Di sản văn hóa là một trong những phương tiện dạy học đa dạng, sống động nhất. Ẩn chứa trong di sản là những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác nên nó có khả năng tác động mạnh tới tình cảm, đạo đức tới việc hình thành nhân cách của học sinh. Khai thác được những giá trị ẩn chứa trong các di sản, chuyển giao cho học sinh để các em cũng nhận thức được những giá trị đó, giáo viên giúp hình thành ở học sinh một hệ thống các quan điểm, các khái niệm về nhận thức thế giới xung quanh, giúp các em nhận thức được bản chất và có cơ sở giải thích 5 một cách khoa học các sự vật, hiện tượng liên quan đến di sản. Tiến hành nghiên cứu di sản một cách nghiêm túc, kỹ lưỡng cũng chính là rèn cho các em tác phong làm việc nghiêm túc, khoa học. - Góp phần phát triển một số kĩ năng sống ở học sinh: Để tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả, học sinh rất cần có những kĩ năng sống cơ bản. Kĩ năng sống được hiểu là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Dạy học với di sản tạo điều kiện phát triển một số kĩ năng sống như: + Kĩ năng giao tiếp: trong quá trình học tập với di sản, học sinh được rèn luyện cách trình bày, diễn đạt suy nghĩ, quan điểm, nhu cầu, mong muốn, cảm xúc của bản thân dưới hình thức nói, viết một cách phù hợp với đối tượng, hoàn cảnh và văn hóa giao tiếp, đồng thời biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. Kĩ năng này giúp học sinh có mối quan hệ tích cực với người khác, đồng thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn bè mới. Làm việc với di sản, học sinh có được môi trường giao tiếp cởi mở với bạn bè không chỉ trong phạm vi lớp học, đôi khi với nhiều đối tượng khác mà các em gặp gỡ. Giáo viên lưu ý cách thức giao tiếp phù hợp cũng chính là góp phần phát triển ở các em một loại kĩ năng sống cần thiết. + Kĩ năng nghe tích cực: Người có kĩ năng lắng nghe tích cực biết thể hiện sự tập trung chú ý và thể hiện sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác ( bằng các cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nét mặt, nụ cười), biết cho ý kiến phản hồi mà không vội đánh giá, đồng thời đối đáp hợp lý trong quá trình giao tiếp. Giáo viên lưu ý học sinh chú ý lắng nghe người giới thiệu về di sản, đưa ra những câu hỏi tìm hiểu sâu về di sản cũng chính là hướng dẫn các em thực hành kĩ năng lắng nghe tích cực. + Kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tướng: là khả năng có thể diễn đạt ý kiến, quan điểm, suy nghĩ, cảm xúc, nhu cầu của bản thân, thông qua các hình thức nói, viết và cả ngôn ngữ cơ thể (cử chỉ, anh mắt, nét mặt, nụ cười...) một cách phù hợp với đối tượng giao tiếp, hoàn cảnh, văn hóa giao tiếp và trình bày đúng với nội dung, chủ đề đang được quan tâm. Thông tin đưa ra đầy đủ, chính xác được sắp xếp một cách hợp lí, logic và phù hợp với nhu cầu, trình độ của đối tượng giao tiếp. Cách trình bày ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu và hấp dẫn đối tượng giao tiếp. Cho học sinh tiếp cận với di sản, giáo viên cần phải lưu ý yêu cầu học sinh tìm hiểu sự vật hiện tượng liên quan đến di sản một cách chi tiết, cụ thể và tạo điều kiện để học sinh trình bày lại được những thông tin thu thập được đồng thời bộc lộ cả suy nghĩ của cá nhân học sinh về những gì các em trình bày. + Kĩ năng hợp tác: hợp tác là chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung. Học tập với di sản, đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ của nhóm học sinh. Trong quá trình làm việc, học sinh biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm để hoàn thành nhiệm vụ giáo viên giao, biết lắng nghe, tôn trọng, xem xét các ý kiến, quan điểm của mọi người trong nhóm, 6 đồng thời biết hỗ trợ các thành viên khác trong quá trình hoạt động, tôn trọng những quyết định chung, những điều đã cam kết. + Kĩ năng tư duy phê phán: là khả năng phân tích một cách khách quan và toàn diện các vấn đề, sự vật, hiện tượng... xảy ra. Khi làm việc với di sản, học sinh không chỉ thu thập thông tin rồi mô tả các hiện tượng sự vật được các em tìm hiểu mà còn phải biết phân tích chúng một cách có phê phán. Khi sắp xếp các thông tin thu thập được theo từng nội dung, các em phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập được, đặc biệt là các thông tin trái chiều, xác định bản chất vấn đề, tình huống, sự vật, hiện tượng... đưa ra những nhận định về những mặt tích cực, hạn chế của vấn đề, tình huống, sự vật, hiện tượng... Những động tác đó giúp học sinh phát triển kĩ năng tư duy phê phán. + Kĩ năng nhận trách nhiệm: đó là khả năng con người tự tin, chủ động nhận nhiệm vụ phù hợp với khả năng của bản thân, nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ và ý thức cùng chia sẻ công việc với các thành viên khác trong nhóm. Khi đảm nhận trách nhiệm, cần dựa trên những điểm mạnh, tiềm năng của bản thân, đồng thời tìm kiếm thêm sự giúp đỡ cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ. Việc giáo viên giao nhiệm vụ rõ ràng, học sinh tiếp nhận nhiệm vụ và trao đổi nhóm, phân công nhau và thực thi nhiệm vụ được giao một cách có ý thức, nhiệt tình và có kết quả. Quá trình đó giúp cho kĩ năng đảm nhận trách nhiệm của học sinh được rèn luyện. + Kĩ năng đặt mục tiêu: là khả năng con người biết đề ra mục tiêu cho bản thân trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện được mục tiêu đó. Trong cả quá trình tiếp cận di sản, giáo viên đã cùng học sinh xác định mục tiêu chung. Ở từng hoạt động cụ thể, học sinh cần biết mình phải đạt được cái gì sau buổi tìm hiểu về di sản va biết phải làm gì để đạt được mục tiêu đó. Kĩ năng đặt mục tiêu giúp học sinh hoạt động có mục đích, có kễ hoạch và có khả năng thực hiện được mục tiêu do chính mình xác định. + Kĩ năng quản lí thời gian: đó là khả năng con người biết sắp xếp các công việc theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công việc chính, trọng tâm trong một thời gian nhất định. Các buổi dạy học với di sản bao giờ cũng bị giời hạn bởi thời gian, dù có vận dụng phương pháp dạy học theo dự án, nghĩa là học sinh có vài ngày, đôi khi vài tuần để chuẩn bị, song thời gian vật chất dành cho việc này thực ra rất hạn chế. Điều đó đòi hỏi học sinh phải biết cách lên kế hoạch, sắp xếp thời gian và tuân thủ đúng kế hoạch đã định mời có thể thực hiện đầy đủ các công việc và cuối cùng là có sản phẩm theo dự kiến. Nếu biết tự thực hiện các bước trong cả quá trình, học sinh sẽ tránh được căng thẳng do áp lực công việc gây nên. Quản lý thời gian tốt góp phần rất quan trọng vào sự thành công của cá nhân và của nhóm. + Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin: có thể thu được những thông tin cần thiết một cách đầy đủ, khách quan, chính xác và kịp thời. Trước khi làm việc với di sản, học sinh đã cũng giáo viên xác định rõ chủ đề mà mình cần tìm kiếm thông tin, học sinh được thông báo về những loại thông tin cần được tìm kiếm, nguồn/các địa chỉ tin cậy có thể cung cấp những loại thông tin đó. Học sinh biết 7 cách chuẩn bị công cụ để thu thập thông tin, cách tiến hành thu thập thông tin theo kế hoạch đã xây dựng, cách sắp xếp thông tin thu thập được theo từng nội dung một cách hệ thống, sau đó phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập được, xem xét một cách toàn diện, thấu đáo, sâu sắc và có hệ thống các thông tinđó và cuối cùng là viết báo cáo. Các công việc nêu trên được học sinh tuần tự thực hiện. Cách tổ chức như vậy sẽ giúp các em rèn được kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin trong quá trình làm việc với di sản. 1.2. Tổng quan về Dạy và Học tích cực 1.2.1. Khái niệm Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh có nghĩa là phải thay đổi cách dạy và cách học. Chuyển cách dạy thụ động, truyền thụ một chiều “đọc- chép”, giáo viên làm trung tâm sang cách dạy lấy học sinh làm trung tâm hay còn được gọi là dạy và học tích cực. Trong cách dạy này học sinh là chủ thể hoạt động, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự tương tác tích cực giữa người dạy và người học. 1.2.2. Ý nghĩa của dạy và học tích cực Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh đã được đặt ra trong ngành giáo dục Việt Nam từ những năm 1960. Ở thời điểm này, các trường sư phạm đã có khẩu hiệu: “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Trong cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai, năm 1980, phát huy tính tích cực đã là một trong các phương hướng cải cách, nhằm đào tạo những người lao động sáng tạo, làm chủ đất nước. Từ đó, trong nhà trường xuất hiện ngày càng nhiều tiết dạy tốt của các giáo viên giỏi, theo hướng tổ chức cho học sinh hoạt động, tự lực chiếm lĩnh tri thức mới. Tuy vậy, phương pháp dạy học ở trường Trung học cơ sở và phương pháp đào tạo giáo viên ở trường sư phạm phổ biến vẫn là cách dạy thông báo kiến thức “đọc - chép” hay còn được gọi là truyền thụ một chiều. Phương pháp dạy học này dẫn đến sự thụ động của người học, nặng về ghi nhớ lý thuyết, thiếu kỹ năng thực hành áp dụng… Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự thách thức của quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu đòi hỏi phải có nguồn nhân lực, người lao động có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của xã hội trong giai đoạn mới. Người lao động phải có khả năng thích ứng, khả năng thu nhận và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tri thức của nhân loại vào điều kiện hoàn cảnh thực tế, tạo ra những sản phẩm đáp ứng yêu cầu của xã hội. Để có nguồn nhân lực trên, yêu cầu đặt ra là phải đổi mới giáo dục, trong đó có đổi mới mục tiêu giáo dục, đổi mới nội dung giáo dục và phương pháp dạy và học. Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị Quyết Trung ương 4 khóa VII (1-1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12- 1996) và được thể chế hóa trong Luật Giáo dục sửa đổi ban hành ngày 27/6/2005, điều 2.4, đã ghi “ Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; Bồi dưỡng cho người học 8 năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh có nghĩa là phải thay đổi cách dạy và cách học. Chuyển cách dạy thụ động, truyền thụ một chiều “đọc- chép”, giáo viên làm trung tâm sang cách dạy lấy học sinh làm trung tâm hay còn được gọi là dạy và học tích cực. Trong cách dạy này học sinh là chủ thể hoạt động, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự tương tác tích cực giữa người dạy và người học. Dạy và học tích cực là điều kiện tốt khuyến khích sự tham gia chủ động, sáng tạo và ngày càng độc lập của học sinh vào quá trình học tập. Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người. Con người sản xuất ra của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại, phát triển của xã hội, sáng tạo ra nền văn hoá mỗi thời đại. Tính tích cực của con người biểu hiện trong các hoạt động. Học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi đi học. Tính tích cực trong hoạt động học tập là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Lĩnh hội những tri thức của loài người đồng thời tìm kiếm “khám phá” ra những hiểu biết mới cho bản thân. Qua đó sẽ thông hiểu, ghi nhớ những gì đã nắm được qua hoạt động chủ động, nỗ lực của chính mình. Tính tích cực nhận thức trong học tập liên quan với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lí tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh ra nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo và ngược lại. Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái, chủ động, tự giác tham gia các hoạt động học tập, thích tìm tòi khám phá những điều chưa biết dựa trên những cái đã biết. Sáng tạo vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống . 1.3. Các hình thức tổ chức dạy học với di sản 1.3.1. Khai thác, sử dụng tài liệu về di sản để tiến hành bài học ở trường phổ thông Tài liệu về di sản đóng vai trị là một nguồn kiến thức góp phần bổ sung, cụ thể hoá, làm phong phú hơn nội dung bài học do quy định số trang có hạn, sách giáo khoa không đề cập tới. Nó làm cho những kiến thức trong bài học không chỉ đơn thuần là con số, các sự kiện khô khan mà sinh động hơn, có hồn hơn, giúp cho học sinh tái hiện được kiến thức và hiểu bài nhanh, nhớ lâu hơn. Tuy nhiên, để khai thác các tài liệu về di sản phục vụ bài học thì giáo viên phải tuân thủ những yêu cầu sau: - Giáo viên phải tiến hành chọn lọc kỹ và xác minh tính chân thực của các tài liệu về di sản. - Chọn lọc những tài liệu điển hình nhất, sắp xếp các tài liệu đó thành hệ thống phù hợp với tiến trình bài học kết hợp với các phương tiện trực quan, 9 phương tiện kỹ thuật hiện đại làm cho bài học sinh động hơn. Đồng thời, tuỳ theo mục đích, nội dung bài học mà giáo viên khai thác những tài liệu khác nhau Có thể tiến hành khai thác tài liệu về di sản bằng cách: Nhà trường tạo mọi điều kiện tốt nhất, đặc biệt là hỗ trợ về vật chất cho giáo viên bộ môn đến các nơi có di sản sưu tầm tài liệu phục vụ cho việc dạy học. Trước khi đến tìm hiểu, sưu tầm tài liệu ở nơi có di sản giáo viên phải nghiên cứu kỹ SGK và lập một bản danh sách các di sản cần thiết phải sử dụng trong việc dạy học bộ môn của mình. Còn khi trực tiếp đến nơi có di sản thì điều đầu tiên là giáo viên phải tìm hiểu bao quát quá trình hình thành và xây dựng của khu có di sản. Sau đó đi tham quan toàn bộ để xác định những tài liệu nào (tranh ảnh, hiện vật, những mẩu chuyện) phù hợp với nội dung giảng dạy. Hoặc giáo viên có thể liên hệ, trao đổi với cán bộ quản lý di sản để nhờ họ giúp đỡ tìm hiểu sâu hơn, có hiệu quả hơn về sự hình thành, tồn tại và nội dung của di sản. Mỗi giáo viên những bộ môn có ưu thế trong việc sử dụng di sản vào dạy học phải luôn có ý thức sưu tầm tư liệu để phục vụ bài giảng. Nhà trường và giáo viên nên phát động học sinh tham gia sưu tầm tài liệu, tranh ảnh hoặc vật về di sản phục vụ cho hoạt động dạy học. Công việc này có thể phát động trong các đợt thi đua chào mừng những ngày lễ lớn, thông qua đây mà tạo hứng thú học tập và bước đầu tập dượt nghiên cứu khoa học cho học sinh. Sau khi đã sưu tầm được tài liệu về di sản, giáo viên phải tiến hành phân loại cho phù hợp với nội dung từng bài học cụ thể và sắp xếp thành hồ sơ dạy học. Khi tiến hành soạn giáo án, giáo viên phải chọn những tài liệu điển hình nhất, cần thiết nhất để đưa vào bài giảng. Tránh tình trạng đưa quá nhiều tài liệu, không phân biệt đâu là tài liệu cần thiết, điển hình, sử dụng không đúng lúc, đúng chỗ, làm loãng nội dung cơ bản của bài học. Những tài liệu về di sản được sử dụng trong hình thức này như là các phương tiện trực quan, nguồn kiến thưc, do đó cần kết hợp chặt chẽ với trình bày miệng và các phương pháp khác. Song phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng học sinh. Ví như, giáo viên có thể sử dụng ảnh chụp về di sản kết hợp với việc miêu tả khái quát có phân tích những kiến thức liên quan hoặc giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh về di sản kết hợp với những mẩu chuyện để cụ thể hoá kiến thức hay kết hợp sử dụng tranh ảnh về di sản với trao đổi đàm thoại nhằm giúp học sinh hiểu sâu sắc những kiến thức cơ bản của bài học. 1.3.2. Tiến hành bài học tạo nơi có di sản. Bài học tại thực địa. Bài học tại thực địa có ý nghĩa rất lớn đối với học sinh về cả ba mặt kiến thức: tư tưởng, tình cảm và kỹ năng. Bởi vì thực địa – nơi có di sản là những dấu vết, mảnh vụn của quá khứ còn sót lại nên khi tiến hành bài học nội khó tại đây tức là học sinh đã được quan sát các dấu vết, mảnh vụn của quá khứ để bổ sung, cụ thể hoá những kiến thức các em đang nghiên cứu. Nó giúp các em phát triển trí tưởng tượng, đa dạng hoá hoạt động nhận thức, gây hứng thú học tập bộ môn. Tiến hành học tại thực địa là phương thức thực hiện dạy học gắn với đời sống có 10 tác dụng nâng cao hiểu biết về kiến thức môn học, về văn hoá – giáo dục, lòng yêu quê hương, đất nước, óc thẩm mĩ cho các em. Bài học tại di sản cũng phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của một bài học nội khóa đồng thời cũng phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu của bài học tại thực địa. Ví dụ như khi dạy bài Cổ Loa và lực lượng quốc phòng-Lịch sử 6, giáo viên có thể tiến hành giảng dạy tại thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội. Bài Thời nguyên thủy trên đất nước ta-Lịch sử 6, tiến hành tại Bảo tàng Quốc gia. 1.3.2.1. Để tiến hành bài học tại thực địa cần bảo đảm một số yêu cầu sau: * Công tác chuẩn bị cho việc tiến hành bài học tại nơi có di sản phải được thực hiện chu đáo, kỹ lưỡng. Công tác chuẩn bị là yếu tố quyết định cho mọi sự thành hay bại, kể cả trong hoạt động dạy học. Tiến hành bài học tại thực địa là một hình thức tổ chức dạy học bên ngoài lớp học, quá trình dạy học liên quan đến nhiều yếu tố, điều kiện khác nhau nên phải được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng cả đối với giáo viên và học sinh. Một là, chọn vấn đề, địa điểm phù hợp với mục tiêu, nội dung, số tiết học và điều kiện tiến hành. Nếu ở địa phương trường đúng hoặc các vùng lân cận có di sản liên quan đến những sự kiện lớn được ghi trong chương trình môn học thì cố gắng tiến hành bài học tại di sản, còn ở những địa phương không có di sản liên quan đến kiến thức trong chương trình thì tổ chức dạy học tại di sản những bài học về địa phương (lịch sử địa phương, địa lý địa phương, âm nhạc dân gian ở địa phương…). Hai là, phải lập kế hoạch cụ thể về công tác chuẩn bị và tiến hành bài học, đi khảo sát thực địa, liên hệ với các cơ quan quản lý di sản. Sau khi đã lựa chọn được vấn đề dạy học và di sản phù hợp, giáo viên phải xây dựng được kế hoạch chuẩn bị và tiến hành bài học tại nơi có di sản một cách chi tiết cho từng nội dung công việc, thời gian thực hiện, lực lượng phối hợp, phương tiện thiết bị hỗ trợ. Kế hoạch tiến hành bài học tại di sản phải báo cáo với tổ chuyên môn, lãnh đạo nhà trường để được duyệt thực hiện và có kế hoạch hỗ trợ. Tiếp đó, giáo viên tiến hành khảo sát thực địa, tìm hiểu kỹ lưỡng các đặc điểm về vị trí địa lí, địa hình địa vật tự nhiên, các hiện vật, chứng tích… có liên quan đến nội dung bài học. Đây là cơ sở quan trọng để giáo viên chuẩn bị nội dung bài giảng và tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh một cách cụ thể nhất. Sau khi đã khảo sát thực địa, giáo viên liên hệ với cơ quan, đơn vị quản lý di sản (thường là các Bảo tàng địa phương hoặc ngành Văn hoá, thể thao và du lịch các cấp) để đăng kí sử dụng di sản, nhờ giúp đỡ (phương tiện kĩ thuật, hướng dẫn viên, bảo vệ), thống nhất kế hoạch, thời gian tiến hành bài học để phối hợp thực hiện. Đặc biệt, nếu dự định bài học (hoặc một vấn đề nào đó của bài học) do người phụ trách di sản, hướng dẫn viên hay nhân chứng lịch sử thực hiện thì giáo viên cần đặt ra mục tiêu, yêu cầu và nội dung cơ bản để họ chuẩn bị trước. Ngoài ra, khi làm việc với các cơ quan quản lý di sản, giáo viên cần chú ý khai thác, tìm hiểu các nguồn tài liệu về di sản và các nội dung bài học có liên quan đến di sản bao gồm tài liệu hiện vật gốc, sa bàn, mô hình phục chế, phim ảnh, các công trình nghiên cứu, bài viết chuyên đề. Đây sẽ là nguồn tài liệu về địa phương phong phú, có 11 giá trị để giáo viên bổ sung vào bài giảng hoặc thiết kế bài giảng về địa phương. Ba là, giáo viên phải chuẩn bị trước cho học sinh về tư tưởng và kiến thức chuyên môn như nêu mục đích, yêu cầu của bài học và nội dung kiến thức cơ bản cần tìm hiểu trước ở nhà, thông báo sơ qua về địa điểm có di sản, sự kiện, nội dung kiến thức liên quan đến di sản, yêu cầu các em sưu tầm thêm tài liệu có liên quan; chuẩn bị đồ dùng trực quan, phương tiện dạy học cần thiết; phổ biến nội qui học tập tại thực địa. Ngoài ra, giáo viên còn phải nhắc nhở học sinh về việc đảm bảo phương tiện đi lại, an toàn giao thông (nếu học sinh tự đến địa điểm tiến hành bài học), giờ giấc, vật dụng che mưa nắng… * Nội dung bài học tại di sản phải đảm bảo tính chính xác, cơ bản và bám sát nội dung kiến thức mà di sản phản ánh. Tuy nhiên, cần phải lưu ý là nội dung bài học tại di sản không nhất thiết phải trình bày tất cả kiến thức được qui định trong chương trình mà cần lựa chọn những vấn đề cơ bản nhất, được phản ánh qua các chứng tích, hiện vật tại di sản để giảng dạy cho học sinh. Điều quan trọng là nguồn kiến thức từ di sản phải làm sáng tỏ nội dung kiến thức trọng tâm của bài. Tuy nhiên, giáo viên phải chú ý làm sao để đảm bảo mạch nội dung chương trình của bài học, tránh quá tải đối với hoạt động nhận thức của học sinh, hay quá ôm đồm kiến thức về địa phương. * Khi tiến hành bài học tại di sản, giáo viên cần chú ý: Phải khai thác tối đa khả năng cung cấp thông tin thông qua các dấu vết, hiện vật,…tại nơi có di sản. Khi khai thác tập trung vào những dấu vết, hiện vật quan trọng phản ánh kiến thức cơ bản của bài học, tránh tình trạng cho học sinh quan sát tràn lan làm loãng trọng tâm nội dung cần nghiên cứu của bài học. Khi hướng dẫn học sinh quan sát phải giúp học sinh tìm ra mối quan hệ bên trong, làm sáng tỏ nội dung, kiến thức mà các chứng tích, hiện vật phản ánh. Tổ chức hoạt động quan sát các chứng tích, hiện vật của học sinh một cách khoa học, hợp lí và hiệu quả. Phải tổ chức cho học sinh tự học trong và sau giờ học. Giáo viên có thể tổ chức các hoạt động tự học cho học sinh như: - Hướng dẫn học sinh tập dượt nghiên cứu thông qua tiếp xúc với các loại tài liệu tại di sản như tìm hiểu niên đại, xuất xứ, chất liệu, hình thức thể hiện (kiểu kiến trúc, hoa văn trang trí, kiểu chữ…) và nội dung kiến thức của các dấu vết, hiện vật… liên quan đến bài học. - Hướng dẫn học sinh làm các loại bài tập thực hành từ đơn giản đến phức tạp: Vẽ sơ đồ khu di sản, vẽ lược đồ thể hiện diễn biến sự kiện, hiện tượng đã diễn ra tại nơi có di sản, lập hồ sơ, đánh giá, phân loại hiện vật tại di sản… - Hướng dẫn học sinh viết bài thu hoạch về bài học. - Kết hợp tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động ngoại khó sau bài học như tham quan toàn bộ khu di sản, tổ chức các trò chơi lịch sử, đóng kịch diễn lại các câu chuyện, sự tích liên quan đến di sản… 12 1.3.2.2. Các cách tiến hành bài học tại di sản Tại nơi có di sản, giáo viên có thể tiến hành hai loại bài học: bài học nghiên cứu kiến thức mới và bài học ôn tập, sơ kết, tổng kết. * Bài học nghiên cứu kiến thức mới như sau: - Giảng viên giới thiệu những nét cơ bản về nội dung kiến thức có liên quan đến di sản. - Một cán bộ địa phương (cán bộ lãnh đạo, cán bộ phụ trách văn hoá, hay người đã tham gia, chứng kiến) trình bày cụ thể về nội dung kiến thức bài học liên quan đến di sản. - Giáo viên chốt lại những vấn đề chủ yếu, nhất là những vấn đề được quy định trong chương trình học. * Bài học ôn tập, sơ kết, tổng kết: giáo viên nhắc lại nội dung kiến thức cũvà đưa ra một số câu hỏi mang tính chất chuyên sâu để học sinh nắm chắc kiến thức và có áp dụng vào cuộc sống thông qua các tình huống cụ thể. 1.3.3. Tổ chức thăm quan học tập tại nơi có di sản Đối với hình thức này, nội dung chủ yếu của buổi tham quan là nhằm củng cố kiến thức đã học hoặc chuẩn bị cho việc học bài mới. Đây là dịp để học sinh có điều kiện trực tiếp quan sát, tìm hiểu các tài liệu, hiện vật liên quan đến bài học, cụ thể hoá kiến thức và tạo những biểu tượng chân thực, chính xác. Do đó, trong buổi tham quan, giáo viên cần tập trung vào những tài liệu, hiện vật có liên quan đến chương trình đã học (hoặc sẽ học). Để đạt được kết quả tốt, giáo viên nên kết hợp với cán bộ hướng dẫ ở nơi có di sản để việc trình bày, bổ sung kiến thức phù hợp với yêu cầu và trình độ nhận thức của học sinh, trên cơ sở đó, gợi ý, dẫn dắt học sinh nắm vững những vấn đề quan trọng. 1.3.4. Tổ chức thăm quan ngoại khóa, trải nghiệm di sản Tổ chức tham quan ngoại khó, trải nghiệm di sản cho học sinh là hình thức phổ biến, có hiệu quả trong các hoạt động giáo dục ở trường phổ thông. Hình thức này có thể áp dụng cho học sinh các khối ở cả cấp Tiểu học, THCS và THPT. Song việc tổ chức học sinh tham quan ngoại khó, trải nghiệm di sản đòi hỏi phải bỏ nhiều công sức để chuẩn bị và tiến hành về thời điểm tổ chức, có thể tiến hành vào đầu năm học hoặc nhân dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn trong năm như ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam (22/12), ngày thành lập Đảng (03/02), kỉ niệm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5)… ngày truyền thống của quê hương. 1.3.4. Sử dụng di sản để tổ chức các hoạt động ngoại khóa khác 1.3.4.1. Khai thác và sử dụng tài liệu về di sản để tổ chức triển lãm, ra báo học tập Để khai thác và sử dụng tài liệu ở di sản vào hoạt động này ở trường phổ thông đạt kết quả cao, nhà trường và giáo viên các bộ môn có ưu thế phải xây dựng được một kế hoạch thật cụ thể, có mục đích rõ ràng. Giáo viên nên phân 13 công cho mỗi lớp (nếu là triển lãm, ra báo học tập ở lớp thì phân công tổ), khai thác tài liệu nói về một nội dung cụ thể, sau đó sẽ trưng bày triển lãm. Những tài liệu dùng trong triển lãm, ra báo học tập sẽ được sử dụng vào xây dựng phòng học bộ môn để phục vụ dạy học lâu dài. 1.3.4.2. Tổ chức thi tìm hiểu về di sản ở địa phương Hoạt động ngoại khó này cũng có thể thực hiện nhân dịp kỉ niệm các ngày kỉ niệm lớn của đất nước, ngày truyền thống địa phương kết hợp với các phong trào thi đua của nhà trường. Muốn thực hiện hoạt động ngoại khóa này, giáo viên các môn học liên quan cần: - Đề xuất với nhà trường kế hoạch tổ chức, dự kiến thời điểm phát động, thành lập Ban giám khảo. - Xác định mục đích, yêu cầu và nội dung cuộc thi. - Phổ biến mục đích, yêu cầu, nội dung cuộc thi cho học sinh các khối lớp. - Dự kiến thời gian thực hiện, thời điểm thu bài dự thi. - Phân công Ban giám khảo chấm bài, lựa chọn giải thưởng, công bố kết quả. - Tổ chức phát phần thưởng cho những em đạt giải. 1.3.4.3. Kể chuyện, nói chuyện về di sản Nội dung câu chuyện phải liên quan đến các kiến thức cơ bản trong bài học của bộ môn, chính xác, tránh những chi tiết li kì không có giá trị khoa học, không phù hợp với yêu cầu học tập. Kể chuyện phải làm cho người nghe xúc động, như được sống lại với sự kiện ấy, như câu chuyện của các nhân chứng lịch sử hay người kể lại đã “nhập thâm” với sự kiện. Giáo viên bộ môn báo cáo với Ban giám hiệu nhà trường về kế hoạch mời người đến kể chuyện về di sản cho các em học sinh. Giáo viên có thể mời các chiến sĩ cách mạng lão thành tiêu biểu, những “nhân chứng” đã chứng kiến, tham gia các sự kiện tại di sản, những người thân của các nhân vật có liên quan đến di sản,… 1.2. Thực trạng vấn đề 1.2.1. Đối với giáo viên Thuận lợi: Sự phát triển của khoa học kĩ thuật, phương tiện thông tin đại chúng là nguồn tư liệu phong phú và quý giá giúp giáo viên có nhiều hình ảnh sống động, nhiều câu chuyện để đưa vào dạy học. Thời gian gần đây học tập mô hình giáo dục nước ngoài nhiều Bảo tàng đã kết hợp với các trường học tổ chức những buổi triển lãm, dạy học môn Lịch sử ở tại Bảo tàng. Bên cạnh đó được sự quan tâm của xã hội cũng như các cấp lãnh đạo giáo viên dạy bộ môn Sử được 14 nhiều động viên khích lệ và tổ chức nhiều buổi chuyên đề trao đổi thảo luận những phương pháp dạy học mới, để dạy học hiệu quả môn Lịch sử. Khó khăn: Dư âm của nhiều năm, vẫn coi Lịch sử là môn phụ, môn học thuộc nên đôi lúc chưa được sự quan tâm thích đáng của phụ huynh. Giáo viên bộ môn Sử có thu nhập chưa cao nên chưa tập trung vào đầu tư dạy học. Ở các trường phổ thông còn nhiều giáo viên dạy trái tay do vậy chưa có sự đầu tư thích đáng vào bộ môn. 1.2.2. Đối với học sinh Hầu hết các em học sinh ở độ tuổi THCS rất yêu thích Lịch sử, các em luôn thấy bổ ích và hứng thú trong các tiết học tuy nhiên không phải giáo viên nào cũng làm được điều đó. Càng ở lớp cao, định hướng nghề nghiệp từ phía gia đình càng lớn do vậy năm học cuối cấp các em thường đầu tư thời gian vào môn đi thi, chểnh mảng môn Sử ( chỉ có một số em theo các lớp bồi dường Học sinh giỏi vẫn còn đam mê) Với những thuận lợi và khó khăn trên người giáo viên nên nhận thức được và tích cực đưa di sản vào dạy học để bài học thêm phong phú, hấp dẫn II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐƢA DI SẢN VÀO DẠY HỌC TÍCH CỰC Ở BỘ MÔN LỊCH SỬ, TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ Với ý nghĩa và vai trò quan trọng của việc dạy học di sản ở bộ môn Lịch sử, tôi xin chia xẻ một số kinh nghiệm cũng như kế hoạch trong tương lai về vấn đề này. 2.1. Tổ chức thăm quan ngoại khóa – trải nghiệm di sản Khi tiến hành bài ôn tập cho Lịch sử lớp 6 về thời kì người nguyên thủy trên đất nước ta, giáo viên có những bước chuẩn bị như sau: (lưu ý đề mục phần này không để trùng với đề mục lớn) I. Mục tiêu chƣơng trình Hướng tới mục tiêu trường học thân thiện, học sinh tích cực, đưa môi trường học tập trong nhà trường gắn với thực tế . Chương trình học tập tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia sẽ mang đến cho học sinh: - Những kiến thức sống động, thực tế, dễ ghi nhớ. - Tạo môi trường cho học sinh yêu thích bộ môn lịch sử - Rèn tính kỉ luật, hoạt động theo nhóm, biết giải quyết những thách thức trong học tập. - Xây dựng cảm xúc lịch sử trước các di sản và từ đó biết yêu quý, trân trọng giá trị di sản mang lại. II. Chuẩn bị 15 - Xây dựng kế hoạch - Xin phép Hiệu trưởng, Ban giám hiệu - Thông báo tới Phụ huynh, học sinh III. Thời gian: Từ 8h đến 10h30 thứ 3 ngày 16 tháng 10 năm 2013 IV. Địa điểm: Bảo tàng Quốc gia – số 1 Tràng Tiền V. Hình thức đƣa đón: Phụ huynh đưa học sinh đến số 1 Tràng Tiền, sau khi tham quan xong GVCN cùng học sinh đi bộ về trường. VI. Thành phần tham gia - Giáo viên chủ nhiệm: Nguyễn Hồng Hạnh, Nguyễn Thùy Dung - Học sinh lớp 6A1, 6A2 - Y tế: Phạm Thị Thương - Đại diện phụ huynh học sinh VII. Nội dung học tập Hoạt động trọng tâm tham quan phục vụ nội dung bài học sau trong sách giáo khoa lịch sử lớp 6 - Bài 8: Thời nguyên thủy trên đất nước ta - Bài 9: Đời sống của người nguyên thủy trên đất nước ta - Bài 10: Những chuyển biến trong đời sống kinh tế - Bài 11: Những chuyển biến về xã hội - Bài 12: Nước Văn Lang - Bài 13: Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang VIII. Nội dung câu hỏi định hƣớng cho học sinh Môn Lịch sử 1. Hãy kể tên những địa danh có dấu tích của người tối cổ sống trên đất nước ta. 2. Miêu tả cuộc sống của người nguyên thủy trên đất nước ta. (bằng chữ hoặc hình ảnh có chú thích) 3. Bộ sưu tập hình ảnh về công cụ lao động của người nguyên thủy trên đất nước ta. (Nêu chú thích và tác dụng). Tại sao công cụ sản xuất được chôn theo người chết? 4. Ý nghĩa của nghề nông trồng lúa nước ra đời đối với đời sống con người. 5. Thế nào là chế độ mẫu hệ? Tại sao chế độ phụ hệ dần thay thế chế độ mẫu hệ? 6. Hãy dùng hình ảnh, số liệu để chứng minh thời văn hóa Đông Sơn, đồ đồng rất phát triển. 7. Dùng hình ảnh để mô tả cuộc sống ( ăn mặc, ở, đi lại…) của cư dân Văn lang. 16 8. Giải thích ý nghĩa cảu những hoa văn trên trống đồng Đông Sơn? 9. Hãy ghi lại những ấn tượng sâu sắc của em về 1 vài cổ vật trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. IX. Kế hoạch hoạt động 1. 8h học sinh có mặt tại Bảo tàng 2. Giáo viên phát nội dung cần tìm hiểu cho học sinh 2. Tham quan, tìm hiểu, ghi chép nội dung cần thết để trả lời câu hỏi. 3. 10h đi bộ về trường Thời gian nộp bài thu hoạch: 01 tuần kể từ ngày thăm quan 2.2. Sử dụng tài liệu, tranh ảnh về di sản để tiến hành bài học lịch sử ở trên lớp Lịch sử 6 CHƢƠNG III – THỜI KÌ BẮC THUỘC VÀ ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP Bài 17 CUỘC KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƢNG (NĂM 40) I. Mục tiêu bài học - Giúp học sinh hiểu đất nước Âu Lạc từ thế kỉ II TCN đến thế kỉ I có nhiều đổi thay và đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Cung cấp cho học sinh những kiến thức lịch sử về nguyên nhân bùng nổ, diễn biến, kết quả, nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa của khởi nghĩa Hai Bà Trưng diễn ra vào năm 40. - Rèn cho học sinh kĩ năng tư duy lịch sử, cách hợp tác làm việc nhóm, cách sưu tầm và xử lí tư liệu. - Giáo dục lòng tự hào dân tộc từ đó học tập để lao động và học tập tốt noi gương Hai Bà Trưng, xứng đáng là học sinh Trưng Vương. II. Phƣơng pháp dạy học - Thảo luận nhóm - Vấn đáp - Trò chơi - Sưu tầm, làm việc theo nhóm… 17 III. Phƣơng tiện dạy học - Sách giáo khoa, tài liệu tham khảo… - Máy chiếu - Tranh ảnh, bảng sơ đồ III. Hoạt động dạy và học Hoạt động 1: Khởi động Trò chơi: Nhà sử học tương lai Có 6 câu hỏi tương ứng với 6 nội dung kiến thức của học kì I. Học sinh lần lượt trả lời để nối vào kiến thức bài mới. Mở bài: Năm 179 TCN đất nước ta rơi vào tay nhà Triệu mở đầu 1 thời gian dài tăm tối của lịch sử dân tộc. HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY-TRÒ NỘI DUNG CẦN ĐẠT Hoạt động 2: Nƣớc Âu Lạc từ thế kỉ II TCN đến thế kỉ I có gì đổi thay? - Hs đọc sgk phần 1 - Gv hỏi: Đất nước ta sau khi rơi vào tay nhà Triệu - Bị sáp nhập vào lãnh rồi Hán, chúng đã thực hiện nhưng chính sách đô thổ Trung Quốc hộ như thế nào đối với nhân dân ta? - Bị bóc lột, đánh thuế - Hs trả lời ( nhiều hs) - Bị đồng hóa - Gv năm bắt các ý và ghi lên bảng - Gv chốt trên các hình ảnh lược đồ Châu giao, sơ đồ bộ máy cai trị… - Hoạt động nhóm 4 học sinh. Thời gian 3 phút Nội dung: 1. Mục đích của những chính sách đô hộ mà 18 nhà Hán đã thực hiện là gì? 2. Trong những chính sách đô hộ ấy, theo con, chính sách nào là thâm độc nhất? Vì sao? Đại diện hs trả lời, bổ sung Gv nhận xét và chốt Mục đích: vơ vét, bóc lột để làm giàu cho chính quyền đô hộ. Thâm độc nhất là chính sách đồng hóa vì chúng muốn biến người Việt thành người Hán. Hoạt động 3: 2. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trƣng bùng nổ - Hs lên trình bày hiểu biết về Hai Bà Trƣng. Sử dụng hình tƣờng Hai Bà Trƣng trong phòng a. Nguyên nhân bùng truyền thống kết hợp với thuyết trình nổ - Gv hỏi: Việc Thi Sách bị giết hại có phải là - Nguyên nhân sâu xa: nguyên nhân dẫn đến khởi nghĩa Hai Bà Trưng? ách đô hộ tàn bạo của - Gv chốt 2 nguyên nhân: trực tiếp, sâu xa nhà Hán - Nguyên nhân trực tiếp: Tô Định giết Thi Sách (chồng của bà Trưng Trắc) - Hs đọc 4 câu thơ trong sgk - Gv hỏi: Qua 4 câu thơ trên, hãy cho biết mục tiêu của cuộc khởi nghĩa? - Gv hỏi: Theo em, việc khắp nơi kéo về tụ nghĩa nói lên điều gì? - Hs trả lời 19 - Gv giới thiệu bản đồ và gọi 1 hs lên bảng chỉ lược đồ 2 địa danh: Mê Linh-căn cứ cuộc khởi nghĩa, Luy Lâu-nơi ở là làm việc của thái thú Tô Định - Gv trình bày diễn biến: Hát Môn-Mê Linh-Cổ LoaLuy Lâu - Hs đọc lời nhận xét của nhà sử học Lê Văn Hưu - Gv hỏi: Tại sao đội quân Hai Bà Trưng không tiến b. Diễn biến: Hát Môn-Mê Linh-Cổ Loa-Luy Lâu thẳng về Luy Lâu mà tiến đánh Mê Linh, Cổ Loa trước c. Kết quả: khởi nghĩa thắng lợi d. Nguyên nhân thắng - Gv hỏi: Ngoài những nguyên nhân trên còn có những nguyên nhân nào nữa? lợi - Sự lãnh đạo tài giỏi của Hai Bà Trưng - Sự đoàn kết, ủng hộ của toàn dân e. Ý nghĩa - Mở đầu cho phong - Trò chơi tổng kết bài học: Xếp hình và trình bày trào chống ngoại xâm lại khởi nghĩa Hai Bà Trưng - Khẳng định tinh thần - Liên hệ: hs trình bày phần hiểu biết, sưu tầm yêu nước nồng nàn Đoạn phim tổng hợp hình ảnh: đền thờ, tên đƣờng phố, trƣờng học mang tên Hai Bà Trƣng. 20 của nhân dân ta và vai trò xuất sắc của người phụ nữ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan