LỜI NÓI ĐẦU
Từ giữa thập kỷ 80 đến nay, xu hướng hình thành các khối kinh tế khu vực
ngày càng phát triển, tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế thế giới, trong đó
nổi bật nhất là Liên minh Châu Âu (EU).
EU là quá trình hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia độc lập về chính trị ở
Châu Âu, lớn nhất trong khối các nước tư bản chủ nghĩa. EU được thành lập
năm 1957, đến nay bao gồm 15 nước thành viên: Đức, Pháp, Anh, Italia, Hà
Lan, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ, Hy Lạp, Luychxambua, Ailen,
Áo, Phần Lan và Thuỵ Điển. Trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Liên minh kinh tế
và tiền tệ Châu Âu đang trở thành một "cực" rất mạnh của nền kinh tế thế giới,
thúc đẩy việc thống nhất tiền tệ để thành lập và hoàn thiện thị trường chung
Châu Âu.
Thống nhất tiền tệ đã và đang diễn ra ở Châu Âu. Mặc dù là sự kiện riêng của
Châu Âu, song nó có tác động đến toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Do vậy,
việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thống nhất tiền tệ Châu Âu có ý
nghĩa rất quan trọng. Nó không những cho phép chúng ta nhìn nhận một cách
khách quan về sự thích ứng của nền kinh tế các nước trên thế giới trong điều kiện
mới của tái sản xuất xã hội và trong bối cảnh kinh tế quốc tế đang biến đổi, mà còn
cung cấp những căn cứ, hình thức cụ thể của loại hình liên kết này như là cơ sở chủ
yếu của quan hệ kinh tế mà các nước Châu Âu đã và đang thực hiện.
Do hiểu biết còn hạn chế, cho nên bản đề án này chỉ tổng hợp được những
thông tin về quá trình hình thành, ra đời của đồng EURO của Liên minh kinh tế
và tiền tệ Châu Âu, và phân tích những tác động của nó đến nền kinh tế thế giới
và Việt Nam. Người viết xin được chia bản đề án thành ba phần:
Phần I
: Liên minh Châu Âu và sự ra đời của đồng tiền chung Châu
Âu - EURO.
Phần II : Tác động của đồng EURO đến nền kinh tế thế giới.
Phần III : Các vấn đề đặt ra trong giai đoạn chuyển đổi.
Tác giả rất mong được tiếp thu những chỉ dẫn và ý kiến đóng góp của các
thầy cô giáo và các bạn.
Xin trân trọng cảm ơn!
1
PHẦN I
LIÊN MINH CHÂU ÂU
VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU EURO.
I. Kinh tế của EMU-11 trong thời gian qua
Từ đầu thập kỷ 70 người ta đã nói đến Liên minh Châu Âu (lúc đó mới chỉ
có 9 nước thành viên) như một trong ba trung tâm kinh tế, chính trị của chủ
nghĩa tư bản thế giới. Ngày nay tình hình thế giới đã thay đổi căn bản, thế giới
hai cực đã tan rã và nhường chỗ cho một thế giới mới đa cực, trong đó có các
nước thành viên Liên minh Châu Âu (EU) có vị trí và vai trò rất quan trọng.
Về kinh tế, Liên minh Châu Âu được coi là một trong ba trụ cột của kinh tế
thế giới cùng với Bắc Mỹ và Đông Á. Ở đây tập trung tới bốn trong số bảy nước
công nghiệp phát triển nhất của thế giới (Đức, Pháp, Italia, Anh). Theo đánh giá
của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), tốc độ tăng GDP thực tế của EU năm 1998 đạt
2,9% (thấp hơn so với dự báo 0,2% và thấp hơn so với mức tăng trưởng 3,4%
của Mỹ).Tuy nhiên, đây lại là tốc độ tăng trưởng cao nhất mà EU đạt được từ
năm 1991 tới nay (so với 2,4% năm 1995, 1,7% năm 1996, 2,7% năm 1997).
Trong bối cảnh tăng trưởng khá, các nước EU vẫn tiếp tục kiềm chế tốt lạm phát. Tỷ
lệ lạm phát của EU là 1,7%. Đây là mức thấp kỷ lục trong hơn ba thập kỷ qua, mặc dù
vẫn còn khá cao so với G-7 là 1,4%, Mỹ 1,6%, Nhật 0,4%. Tình hình thất nghiệp ở EU đã
được cải thiện. Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm xuống còn 10,3% so với mức 10,6% năm 1997.
Các chuyên gia tài chính của EU cho rằng nguyên nhân chủ yếu làm kinh
tế EU tăng trưởng là nhu cầu trong nước vẫn mạnh. Tổng cầu nội địa của EU
năm 1998 tăng 2,9% cao nhất kể từ năm 1991. Trong đó chủ yếu là do tăng đầu
tư tư bản cố định (tăng 4,5%), còn chi cho tiêu dùng tư nhân tăng 2,7%, tiêu
dùng của Chính phủ chỉ tăng 1,6%. Cầu nội địa ở phần lớn các nước EU đang
bắt đầu thay thế xuất khẩu ròng đóng vai trò là động lực chính của sự tăng
trưởng.
Có thể nói, sự tăng trưởng kinh tế và việc làm ở khu vực EU trong năm 1998 là do
quá trình tự do hoá kinh tế ở các nước này trong những năm gần đây đã phát huy tích
cực. Thị trường lao động ở các nước EU đã linh hoạt hơn. Các công ty thuê công nhân
theo hợp đồng bán phần, nhất là trong các ngành công nghệ mới. 85% số lao động mới
thuê của Pháp là theo hợp đồng ngắn hạn. Hơn 5,4 triệu công nhân Đức đang làm việc
trên cơ sở các hợp đồng bán phần, so với 3,9 triệu năm 1991.Bằng các hợp đồng lao
động bán phần, các công ty sẽ không phải đóng tiền vào quỹ phúc lợi xã hội. Ngoài ra,
nhiều nước còn tiến hành cải tổ hệ thống phúc lợi xã hội, nới lỏng các quy định về mức
lương giờ làm việc, ngày làm việc và thải hồi công nhân. Điều đó cho phép các doanh
2
nghiệp tăng đầu tư trong nước, đồng thời tăng mức độ sử dụng lao động. Việc làm ở EU
trong năm 1997 chỉ tăng 0,6%, còn trong năm 1998 tăng 1,2%.
BẢNG SỐ 1: MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA EMU-11
Tên nước
Ai-len
Áo
Bồ Đào Nha
Bỉ
Đức
Hà Lan
Italia
Diện
tích
(km2)
70.280
83.849
92.080
28.870
356.755
33.860
301.225
Dân số
(triệu
người)
3,6
8,1
9,9
10,2
81,7
15.5
57,7
Luychxambua 2.586
0,4
Pháp
Phần Lan
Tây Ban Nha
549.192
337.000
504.580
58,1
5,1
39,1
Cộng EU-11
2.360.277 289,4
Đơn vị tiền tệ
Livre Ailen
Schilling
Escudo
Franc Bỉ
Deutsche Mark
Florin
Lire
Franc Luychxambua
& Franc Bỉ
Franc Pháp
Markka
Peseta
Bội chi
NSNN/GDP
1997 1998
- 0,8 - 0,8
- 2,5 - 2,5
- 2,9 - 2,9
- 2,8 - 2,6
- 3,1 - 2,9
- 2,1 - 1,8
- 3,2 - 3,0
Nợ Nhà
nước/GDP
1997 1998
67,5 65,0
68,0 67,6
62,9 61,7
125,1 122,8
62,2 62,7
73,6 71,2
122,9 121,2
Lạm phát
1997
1,7
1,5
2,2
1,6
1,9
2,3
1,8
1998
2,1
1,6
2,3
1,9
2,3
2,3
2,1
- 0,1
- 0,1
5,7
5,5
2,0
2,0
- 3,2
- 1,9
- 3,0
- 3,2
- 0,4
- 2,6
57,7
59,4
69,0
59,2
57,9
68,2
1,1
1,3
2,0
1,3
2,3
2,2
Euro
(nguồn: Báo Tài chính 98)
II. Quá trình chuẩn bị ra đời đồng Euro
1. Cơ sở khoa học của sự thống nhất tiền tệ Châu Âu:
Jacques Rueff - chuyên gia tiền tệ người Pháp đã nói "hoặc là Châu Âu
hình thành nhờ tiền tệ hoặc là không có Châu Âu". Đến nay, mặc dù đã 47 năm
trôi qua nhưng quan điểm trên của Jacques Rueff vẫn được coi là khẩu hiệu mỗi
khi bàn đến Liên minh chính trị, kinh tế và tiền tệ Châu Âu. Có thể nói, sự ra
đời, phát triển của liên kết kinh tế Châu Âu mà đỉnh cao là việc thống nhất tiền
tệ Châu Âu là một tất yếu khách quan không chỉ do đòi hỏi của sự phát triển
quan hệ kinh tế quốc tế, mà còn do đòi hỏi của sự phát triển của chính các quan
hệ tiền tệ quốc tế.
Ngay từ cuối những năm 50, hoạt động gửi tiền ở hải ngoại được hiểu đơn
giản là những khoản tiền gửi được định danh bằng ngoại tệ, tức là không phải
đồng tiền của nơi đặt ngân hàng đó. Các khoản tiền gửi hải ngoại này thường
được gọi là các đồng tiền Châu Âu (Eurocurrencies). Cách gọi như vậy là không
chính xác, bởi vì phần lớn sự buôn bán các đồng tiền Châu Âu lại xảy ra ở các
trung tâm tài chính ngoài Châu Âu như Singapore và Hongkong. Các khoản tiền
gửi USD vào các ngân hàng ở ngoài nước Mỹ gọi là Đôla Châu Âu (Eurodollar).
Các ngân hàng nhận tiền gửi bằng các đồng tiền Châu Âu (kể cả Đôla Châu Âu)
3
gọi là các Ngân hàng Châu Âu (Eurobanks). Đôla Châu Âu là một phản ứng đối
với những nhu cầu nảy sinh do sự tăng trưởng thương mại quốc tế, quy định
điều tiết về tài chính và những cân nhắc chính trị.
Cho đến những năm 60, hệ thống Đôla Châu Âu đã phát triển mạnh. Cùng
thời gian đó, hai nhà kinh tế học người Mỹ R.Mundell và R. Mc Kinnon đã đưa ra
lý thuyết "Khu vực tiền tệ tối ưu", xuất phát từ định hướng khi đó của khối EEC là
nhằm đạt được tự do hoàn toàn trong việc lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, vốn và
sức lao động tức là lưu chuyển tự do các "yếu tố sản xuất". Lý thuyết này đề cập
đến những cơ sở của sự thống nhất tiền tệ Châu Âu và gây được sự chú ý lớn.
Theo R. Mundell và R. Mc Kinnon "Khu vực tiền tệ tối ưu" là lãnh thổ bao
gồm những nước cùng chung những điều kiện, khả năng thích hợp nhất để sử
dụng một loại tiền tệ thống nhất, hoặc chung những khả năng để thiết lập một
đồng giá vững chắc giữa các đồng tiền của quốc gia mình. Và khu vực tiền tệ sẽ
là "tối ưu" nếu trong lãnh thổ đó tồn tại những khả năng cơ động giữa các "yếu
tố sản xuất". Trong nội bộ EEC việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ, vốn và sức lao
động được tự do hoàn toàn và có sự thoả hiệp giữa các nước thành viên về các
vấn đề kinh tế - chính trị, sự phối hợp các thể chế, chính sách kinh tế. Nhưng
tiêu chí quan trọng nhất là sự chấp nhận của các nước thành viên hy sinh tính
độc lập của mình trong việc giải quyết những vấn đề tiền tệ - tín dụng.
Một trong những điều kiện cho sự tồn tại của "Khu vực tiền tệ tối ưu" là tốc
độ lạm phát giữa các nước thành viên ít nhiều phải đồng đều để có thể thực thi
các chính sách về ngân sách, kinh tế và tiền tệ có hiệu quả. Đồng thời, phải đạt
được những mục đích như ổn định giá cả, có việc làm đầy đủ và sự cân bằng
trong cán cân thanh toán, tức là phải đạt được sự cân đối bên trong và bên ngoài.
Điều quan trọng nhất là đồng tiền của EEC phải dựa trên cơ sở của mọi
đồng tiền ở các nước thành viên và phải tính đến sự thay đổi tỷ giá các loại tiền
chứ không phải đến sức mua của đồng tiền mạnh nhất. Nhưng trước hết, đó phải
là một đơn vị tiền tệ đang lưu thông đồng thời với các đơn vị tiền tệ Châu Âu
khác; được phép có những thay đổi đồng giá và dao động của tỷ giá tiền tệ. Khi
các quy chế về tiền tệ tài chính đã thống nhất và có sự phối hợp của chính sách
tiền tệ thì các dao động của tỷ giá tiền tệ sẽ bị xoá bỏ. Lúc đó, một Liên minh
kinh tế và tiền tệ cũng được thành lập, đồng tiền của các nước cũng sẽ bị huỷ bỏ
và thay vào đó là một đồng tiền thống nhất. Thực chất của quan điểm này là sự
biểu hiện cách tiếp cận thiết chế đối với vấn đề thống nhất tiền tệ. Cách tiếp cận
này chú trọng đến việc tăng cường các biện pháp điều tiết liên quốc gia và siêu
quốc gia trong lĩnh vực tiền tệ, đến sự phối hợp chính sách kinh tế của các nước
thành viên, hạn chế chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực tiền tệ và thiết lập các
thiết chế siêu quốc gia.
4
Với cơ cấu "tầng" của liên kết kinh tế có thể vạch ra thứ bậc quy ước cho
các xu hướng trong chính sách kinh tế của các quốc gia Tây Âu như sau:
Mô hình số 1:
Các "tầng" của liên kết kinh tế.
Hình chóp là liên kết kinh tế nói chung, hình chóp ở mặt đỉnh là hình
chóp abcde là một bộ phận của nó được hình thành nhờ quá trình liên kết tiền tệ.
Thống nhất tiền tệ chỉ bao gồm hình chóp abcde chứ không tiếp cận với các tầng
khác.
Để thực hiện được Liên minh tiền tệ không chỉ cần đến phối hợp, thống nhất
chính sách tiền tệ, mà còn phải phối hợp các loại hình chính sách kinh tế nào đó nằm
ở các "tầng" thấp của hình chóp. Các "tầng" này càng cao bao nhiêu thì sự phối hợp
các chính sách kinh tế đó càng phải được thực hiện chặt chẽ bấy nhiêu.
Để đạt được một Liên minh tiền tệ cần khắc phục những bất đồng về mục
đích mà mỗi quốc gia tự đặt ra cho mình để thực thi chính sách kinh tế quốc gia.
Những mục đích đó tạo thành "đa giác nhiệm mầu"
Mô hình số 2: Đa giác "mầu nhiệm" các mục tiêu
điều chỉnh độc quyền Nhà nước đối với nền kinh tế.
a.Giảm tốc độ lạm phát.
b.Đạt sự cân bằng trong cán cân thanh toán.
c.Tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững.
d.Giảm thất nghiệp.
e.Duy trì tỷ giá tiền tệ.
Đa giác abcde là một phương án lý tưởng không thể đạt tới.
Đa giác a’b’c’d’e' là phương án hạ sách nhất, không đạt được mục tiêu nào cả.
Giữa hai phương án này là vô số các phương án khác nhau, khi một hoặc một số mục
tiêu nào đó đạt được thì những mục tiêu còn lại ít nhiều bị tổn hại.
Mục tiêu của các nước EEC là đạt được một quan điểm thống nhất về đa giác
n n n n n
abcdố.
5
Theo ý kiến của các nhà khởi xướng ra hệ thống tiền tệ Châu Âu, hoạt động của
hệ thống này phải đem lại sự cân bằng tình trạng mất cân đối trong phạm vi khu vực
giữa các nước và các vùng lãnh thổ thuộc EEC. Để làm được điều này, cần phân phối
lại các nguồn tài chính vì lợi ích của những nước kém phát triển hơn.
2. Tiến trình phát triển của hệ thống tiền tệ Châu Âu:
Trong văn bản Hiệp ước Rôma và Định ước Châu Âu duy nhất đã ghi nhận thị
trường nội địa Châu Âu, nhưng cho tới Hiệp ước về Liên minh Châu Âu ở Maastricht,
Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Châu Âu mới được chính thức ghi nhận. Mục tiêu của
Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu là thống nhất Châu Âu trong lĩnh vực tiền tệ.
Đây là một quá trình lâu dài với nhiều thành công và thất bại.
Vào thời điểm thành lập Cộng đồng Châu Âu, nay gọi là Liên minh Châu Âu, ít
có chính khách Châu Âu nào để ý đến việc thành lập một khu vực tiền tệ riêng của
Châu Âu. Bởi vì lúc đó tiền tệ nói chung được điều chỉnh bằng những tỷ giá nhất định
trong Hệ thống Tiền tệ Bretton Woods. Hệ thống này lại đang vận hành khá tốt. Hiệp
ước Rôma chỉ có một vài điều khoản liên quan đến việc hợp tác các chính sách tiền tệ,
các chính sách hối đoái và thành lập một uỷ ban tiền tệ để đưa ra các ý kiến về lĩnh
vực này. Kết quả là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên trong Cộng đồng Châu
Âu tăng lên đã thúc đẩy sự hợp tác trong lĩnh vực tiền tệ. Và năm 1964, Uỷ ban Thống
đốc các ngân hàng trung ương ra đời. Sự ra đời của Uỷ ban này đã hình thành một
khuôn khổ cho các cuộc tham khảo ý kiến thường xuyên về vấn đề tiền tệ giữa các
nước Cộng đồng Châu Âu.Tuy nhiên, sức ép đẩy các nước Châu Âu co cụm lại với
nhau trong vấn đề này chỉ thực sự tăng lên vào cuối những năm 1960 đầu những năm
1970 khi mà Hệ thống Tỷ giá chuyển đổi cố định Bretton Woods bắt đầu rạn nứt và
sụp đổ. Vào tháng 1 -1970, Uỷ ban Werner (tên của Thủ tướng Luýchxămbua) đã đưa
ra một kế hoạch đầy tham vọng: lập ra một "Liên minh kinh tế và tiền tệ" trong vòng
10 năm. Sau thời hạn đó, Cộng đồng Châu Âu sẽ là một thực thể tiền tệ riêng biệt
trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Các đồng tiền của các nước thành viên sẽ có khả năng
chuyển đổi và có tỷ giá cố định đối với nhau. Đồng thời các thể chế của Cộng đồng sẽ
được trao cho những quyền hành cần thiết để có thể đưa ra các quyết định về chính
sách kinh tế. Kế hoạch Werner trong giai đoạn đầu dự định tăng cường phối hợp các
chính sách đối phó với bối cảnh kinh tế và giảm biên độ dao động giữa tỷ giá các đồng
tiền của sáu nước. Thế nhưng kế hoạch đầy tham vọng này đã tiêu tan trước một loạt
các biến cố xảy ra trong nền kinh tế và chính trị thế giới.
Ngày 15 - 8 - 1971, cùng với sự tan vỡ của Hệ thống tiền tệ Bretton Woods và
việc Mỹ chấm dứt chế độ chuyển đổi dollar ra vàng đã gây rối loạn thị trường tiền tệ
thế giới. Cho đến ngày 18 - 12- 1971, Hiệp định Oasinhtơn ra đời quy định sự giảm
giá của đồng dollar so với vàng và một loạt tỷ giá của các loại đồng tiền so với đồng
dollar, mở rộng biên độ dao động của mỗi đồng tiền so với đồng dollar từ +_1% đến
+_2,25% so với tỷ giá chính thức. Hệ quả của Hiệp định Oasinhtơn đối với các đồng
tiền Châu Âu là làm cho các biên độ dao động giữa chúng với nhau có thể trở nên rất
lớn, dẫn đến sự bất ổn trong hoạt động xây dựng thị trường chung. Do đó, đến tháng 41972, các nước Châu Âu quyết định giới hạn mức dao động của tỷ giá các đồng tiền
này so với hệ thống tỷ giá chỉ đạo (hay tỷ giá trung tâm) ở mức tối đa là +_2,25%. Để
đảm bảo biên độ này, mỗi một ngân hàng trung ương sẽ phải can thiệp khi dao động
6
của đồng tiền nước mình quá giới hạn cho phép. Cơ chế này tạo ra biểu đồ biến động
của các đồng tiền Châu Âu như một "con rắn". Sự kết hợp giữa Hiệp định Oasinhtơn
và Hiệp định Balơ tạo thành cơ chế tiền tệ Tây Âu được gọi là "con rắn trong đường
hầm".
7
Mô hình số 3: "Con rắn" trong "đường hầm"
(2)
5,554
(1)
(4)
(3)
Tiến trình của năm 1972.
(1) Trục của đường hầm.
(2) Biên trên
(3) Biên dưới
(4) Trao đổi ngang giá cố định của mỗi loại tiền tính bằng dollar.
"Con rắn" di chuyển trong "đường hầm" tạo bởi các biên độ đối với đồng dollar.
Cơ chế "con rắn" tiền tệ sớm tỏ ra ít có hiệu quả, vì nó không dựa vào sự phối hợp
chính sách tiền tệ và kinh tế của tất cả các nước trong Cộng đồng. Đợt khủng hoảng
mới của đồng dollar Mỹ tháng 3-1973 đã khiến "con rắn" phải chui ra khỏi "đường
hầm". Sáu nước Cộng đồng Châu Âu quyết định thả nổi tập thể đối với đồng dollar
(biên độ dao động giữa tỷ giá đồng tiền của các nước này vẫn giữ tối đa là +_2,25%),
đồng thời lập Quỹ hợp tác tiền tệ Châu Âu (FECOM). Nhưng sự biến động của thị
trường tiền tệ thế giới, cùng với cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973 đã khiến Anh,
Ailen, Italia và Pháp lần lượt rút ra khỏi "Con rắn tiền tệ Châu Âu". "Con rắn" lúc đó
trên thực tế biến thành một khu vực đồng Mác bao gồm các nước Đức, Đan mạch, Bỉ,
Hà Lan, Luýchxămbua.
Để đảm bảo sự phát triển kinh tế, tháng 12-1978 một cơ chế tiền tệ mới gọi là
"Hệ thống tiền tệ Châu Âu" (EMS) đã được hoạch định và ngày 13-3-1979 bắt đầu
hoạt động. Mục tiêu của EMS là hình thành trong khuôn khổ Cộng đồng kinh tế Châu
Âu một "khu vực ổn định" với đồng tiền riêng của nó, nhằm tạo ra đối trọng đối với hệ
thống tiền tệ quốc tế mới dựa trên bá quyền của đồng dollar Mỹ; bảo vệ Cộng đồng
trước sự bành trướng của đồng dollar Mỹ và tiến đến xoá bỏ dollar Mỹ trong các tài
khoản Tây Âu. EMS bao gồm kinh nghiệm phát hành phương tiện thanh toán quốc tế
nhân tạo-SDR, hệ thống cấp tín dụng kiểu "Swap", kinh nghiệm hoạt động của Hệ
thống tiền tệ quốc tế Bretton Woods.
Hệ thống tiền tệ Châu Âu (EMS) cũng như "con rắn tiền tệ" trước đây quy định
các đồng tiền phải ràng buộc lẫn nhau theo những cự ly biến động có giới hạn được
gọi là "mạng lưới tỷ giá".
8
Mô hình số 4: Mạng lưới tỷ giá
1.Mác Tây Đức
2.Franc Bỉ và Luýchxămbua.
3.Livre Ailen
1
4.Franc Pháp
5. Cuaron Đan Mạch
6. Guilden Hà Lan
7. Lire Italia.
2
3
4
6
5
7
Nói cách khác đi, cơ sở của Hệ thống tiền tệ Châu Âu là hệ thống tỷ giá Châu
Âu. Hệ thống tỷ giá Châu Âu là một cơ chế mà EEC dùng để ổn định tỷ giá tiền tệ
giữa các nước thành viên, tránh những biến động xấu ảnh hưởng đến việc buôn bán
giữa các nước trong Cộng đồng. Điều này không đủ đảm bảo sự ổn định như mong
muốn, vì thế Hệ thống tiền tệ Châu Âu đã lấy yếu tố cơ bản của nó là đơn vị tiền tệ
Châu Âu mới gọi tắt là ECU (European Currency Unit) trùng với tên đồng tiền cổ của
Pháp. ECU ra đời vào tháng 3-1979, là một đồng tiền tổng hợp các đồng tiền của các
quốc gia thành viên cộng đồng, có thể ví nó như một "giỏ tiền tệ". Giá trị ECU tương
đương với tổng số một số lượng cố định mỗi loại tiền trong cộng đồng. Số lượng này
được xác định tuỳ theo tiềm lực kinh tế mỗi nước. Tức là ECU vừa dùng làm cơ sở xác
định quan hệ của các đồng tiền khác nhau, vừa làm phương tiện thanh toán giữa các
thành viên và làm vốn dự trữ. Như vậy, lần đầu tiên trên thế giới xuất hiện đồng tiền
giấy siêu quốc gia. Và đến tháng 7-1985, Uỷ ban Châu Âu, Ngân hàng đầu tư Châu Âu
và đại diện ngân hàng các nước thành viên đã thoả thuận đổi ECU ra vàng và các loại
ngoại tệ khác thông qua Quỹ tiền tệ Châu Âu, cho phép ngân hàng trung ương của các
nước thứ ba, các tổ chức quốc tế sử dụng đồng ECU làm lực lượng dự trữ không
khống chế tỷ lệ cận trên và cận dưới của ECU trong việc vay nợ và thanh toán. Uỷ ban
Châu Âu còn tiến hành phát hành công trái bằng ECU, sử dụng ECU để tài trợ cho
ngoại thương, xuất nhập khẩu dầu mỏ giữa các nước trong khối với nhau.
Để khống chế sự vận động hỗn loạn của tỷ giá, EMS sẽ can thiệp vào thị trường
tiền tệ nhằm bảo đảm dao động được phép của các tỷ giá. Cơ chế cấp tín dụng hiện có
để duy trì tỷ giá đã được tăng cường nhằm giúp các "đồng tiền yếu" trước những áp
lực và các nguồn để cấp tín dụng ngắn hạn và trung hạn không hạn chế giữa các nước
thành viên EEC. Và sau hai năm hoạt động của EMS , Quỹ tiền tệ Châu Âu (EMF) đã
được thành lập vào năm 1981. Sự thành lập EMF là một bước tiến quan trọng trên con
đường đi tới thống nhất kinh tế, tiền tệ, tạo điều kiện dễ dàng cho quá trình lưu thông
hàng hoá, dịch vụ và vốn giữa các nước thành viên. Hệ thống tiền tệ Châu Âu đã trở
thành một khối tiền tệ thứ ba bên cạnh đồng dollar Mỹ và đồng yên Nhật để ổn định hệ
thống tiền tệ và kinh tế quốc tế. Trên thực tế EMS vẫn còn phụ thuộc nhiều vào đồng
dollar Mỹ và EEC cũng chưa có kế hoạch làm giảm tỷ lệ lạm phát và hạn chế thiếu hụt
ngân sách của các nước thành viên. Tuy vậy, EMS với hệ thống tỷ giá Châu Âu vẫn
được coi là giai đoạn trung gian cho việc hình thành một thị trường thống nhất có một
đồng tiền thống nhất, tiến tới thống nhất toàn diện về chính trị EEC.
9
Đến năm 1987, việc thực hiện thống nhất tiền tệ Châu Âu đã được văn kiện Châu
Âu thống nhất. Tháng 6-1988, một uỷ ban dưới quyền của Chủ tịch Uỷ ban EEC, ông
Delors, được giao nhiệm vụ đưa ra những biện pháp cụ thể nhằm thực hiện thống nhất
tiền tệ Châu Âu.Tháng 4-1989, Delors đã đưa ra kế hoạch thống nhất tiền tệ theo ba
giai đoạn và tháng 12-1992 kế hoạch đã được ký tại Maastricht - Hà Lan.
Giai đoạn một: (có hiệu lực từ ngày 1-7-1990) thực hiện tự do hoá lưu thông vốn
và thanh toán. Sự tự do hoá này thông qua tăng cường hợp tác của uỷ ban hiện có để đi
đến một sự nhất trí lớn hơn trong chính sách kinh tế. Tăng cường phối hợp hoạt động
giữa các ngân hàng trung ương của 12 nước thành viên.
Giai đoạn hai: Giai đoạn quá độ, bắt đầu từ ngày 1-1-1994, trong đó có kế hoạch
lập ra một cơ quan tiền tệ Châu Âu - Viện tiền tệ Châu Âu- sẽ bước vào hoạt động
chuẩn bị cho việc thành lập "Ngân hàng trung ương Châu Âu" (hoạt động vào 7-1996)
để thống nhất về mặt chính sách kinh tế và ngân hàng giữa các nước EC.
Giai đoạn ba: đến cuối năm 1996, EC sẽ tổng kết tình hình nếu quá một nửa số
nước thành viên EC thoả mãn những điều kiện trên thì giai đoạn này sẽ được bắt đầu
thực hiện cùng với việc chính thức thành lập "Ngân hàng trung ương Châu Âu" và
phát hành đồng Euro từ ngày 1-1-1997 với tư cách là đồng tiền chung của số nước nói
trên. Trong trường hợp đến cuối năm 1996 số nước thoả mãn các tiêu chuẩn trên
không chiếm đa số quá bán thì "giai đoạn quá độ" sẽ kéo dài thêm hai năm nữa. Sau đó
không cần có điều kiện quá bán, tức vào đầu năm 1999, đồng Euro sẽ được phát hành,
dù chỉ có hai nước đủ "tiêu chuẩn".
Hiệp ước Maastricht cùng với Công ước Amsterdam (tháng 6-1997) đã thông
qua năm tiêu thức hội nhập của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Châu Âu, đó là:
1. Bội chi Ngân sách phải thấp hơn 3% GDP.
2. Mức dư nợ Nhà nước không vượt quá 60% GDP.
3. Lạm phát không vượt quá 1,5% mức bình quân của ba nước có mức tăng giá
thấp nhất.
4. Lãi suất dài hạn không vượt quá 2% mức lãi bình quân của ba nước có mức
lạm phát thấp nhất.
5. Mức độ ổn định tỷ giá: có ít nhất 2 năm tuân thủ chế độ tỷ giá và mức biến
độnh tỷ giá do Hệ thống Tiền tệ Châu Âu quy định.
Bên cạnh đó EU cũng thông qua một cơ chế phạt nếu nước thành viên vi phạm
các tiêu thức này. Mặc dù, EC đã ít nhiều đạt được những thoả thuận quan trọng về
thống nhất kinh tế - tiền tệ, nhưng việc thực hiện kế hoạch đã đề ra không phải đơn
giản.
III. ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU - EURO
1.Đồng EURO:
Sự có mặt trong lưu thông của mỗi đồng tiền bao giờ cũng là một hiện tượng
xã hội, là kết quả của ý chí pháp lý của mỗi thể chế chính trị cụ thể, được cộng đồng
chấp nhận. Đồng tiền đó trở thành đại diện tiền tệ cho một nền kinh tế cụ thể, vận hành
theo một cơ chế nhất định. Đối với đồng EURO cũng vậy.
Việc cho ra đời và vận hành đồng EURO xuất phát từ một ý tưởng nghiêm túc
với quyết tâm cao của các nhà lãnh đạo Châu Âu ngay từ những ngày đầu mới thành
10
lập Cộng đồng Châu Âu cho đến nay. EURO ra đời theo một lịch trình được thiết kế
hợp lý, thận trọng, thích hợp với sự vận động của thực tế. Có thể nói, EURO là kết quả
của quá trình chuẩn bị lâu dài và tuần tự, khởi đầu bằng việc sáng lập đơn vị tiền tệ
chung của Cộng đồng trên cơ sở tập hợp các đồng tiền quốc gia thành viên, thường gọi
là "rổ" tiền tệ (ECU - 1975), tiếp theo là thành lập và vận hành Hệ thống tiền tệ Châu
Âu (EMS - 1979), rồi đến quá trình triển khai Liên minh kinh tế và Tiền tệ theo ba giai
đoạn.Hiện nay, Châu Âu đã kết thúc giai đoạn I - II và đang trong giai đoạn ba (từ 1-11999) lưu hành đồng EURO cho toàn khối.
Đồng EURO đã ra đời trong hoàn cảnh rất nhiều thuận lợi. Do cuộc khủng
hoảng tiền tệ (1997) diễn ra ở đâu cũng dính đến đồng dollar nên các nước vừa sợ, vừa
ghét đồng dollar. Khối Đông Nam Á đã bàn đến việc dùng các đồng tiền trong khối để
thanh toán XNK và vay trả giữa các nước trong khối từ năm 1997 để tránh bớt dính
dáng đến đồng dollar. Xu hướng đa dạng hoá các loại ngoại tệ đã đẩy các nước phát
triển tới chỗ chọn các loại ngoại tệ mạnh khác như Mác Đức, Franc Pháp... để thay thế
cho đồng dollar. Đồng EURO là tổng hợp sức mạnh của các ngoại tệ mạnh Châu Âu,
vì thế đồng EURO sẽ chiếm phần lớn trong dự trữ ngoại hối của các nước trên thế
giới. Bên cạnh đó, thị trường tài chính nhiều nước chao đảo, đồng EURO ra đời sẽ làm
cho thị trường tài chính Châu Âu hấp dẫn hơn. Vì thế, chỉ mới ra đời đồng EURO đã
làm thị trường chứng khoán Châu Âu lên giá. Hơn nữa, EURO là đồng tiền của một
khu vực 300 triệu dân, chiếm 14,9% mức sản xuất và 18,6% thương mại toàn cầu.
Mặc dù trong ba năm quá độ đầu tiên từ 1999 đến năm 2002, đồng EURO mới
chỉ lưu thông trong phạm vi không dùng tiền mặt, nhưng nó đã hội tụ đầy đủ chức
năng của một đồng tiền quốc tế.
Thứ nhất, là công cụ chuyển đổi: Đồng EURO rất có khả năng trở thành một
ngoại tệ chủ chốt được sử dụng trong thanh toán thương mại với các nước. Vì về quy
mô thương mại, EU đứng đầu thế giới, do đó đồng EURO sẽ trở thành một công cụ
chuyển đổi hữu hiệu là điều tất yếu. Hơn nữa, đồng EURO sẽ được sử dụng khá rộng
rãi ở các nước thuộc khu vực Trung - Đông Âu (họ đang là ứng cử viên gia nhập EU),
Châu Phi (do sử dụng đồng France Pháp làm bản vị ) và các nước ven Địa Trung Hải
(có truyền thống quan hệ thương mại chặt chẽ với EU và sẽ xây dựng khu vực mậu
dịch tự do với EU vào năm 2010). Ngoài ra, Anh và Thuỵ Điển sẽ chính thức tham gia
vào EMU trong một vài năm tới.
Thứ hai, là công cụ dự trữ: Không ai có thể dự báo chắc chắn về mức độ sử
dụng đồng EURO trên các thị trường. Nhưng đồng EURO là đồng tiền có độ tin cậy
cao. Bởi vì, nó được xây dựng trên cơ sở của những chính sách kinh tế lành mạnh lại
được đảm bảo bằng Hiệp ước và được quản lý bởi ECB độc lập, chỉ có mục tiêu duy
nhất là ổn định giá cả. Theo đánh giá của IMF, tổng dự trữ quốc tế đạt 1.400 tỷ USD
(cuối năm 1996) trong đó các ngân hàng trung ương Châu Âu chiếm khoảng 30%, gấp
6 lần dự trữ Hoa Kỳ và 2 lần Nhật Bản.Việc sử dụng EURO như công cụ dự trữ sẽ
phát triển. Đa dạng hoá dự trữ ngoại tệ có quan hệ với việc tăng cường sử dụng EURO
với tư cách là một công cụ can thiệp vào thị trường ngoại hối và đơn vị tính toán trong
thương mại quốc tế.
Thứ ba, là công cụ đầu tư: Từ ngày 1-1-1999, tất cả các khoản nợ công cộng
sẽ được phát hành bằng đồng EURO. Số dư nợ công cộng tính đến ngày này cũng
được chuyển sang đồng EURO trong năm 1999. Khi triển khai Liên minh tiền tệ, thị
trường trái phiếu Châu Âu sẽ đạt ở mức cao. Ngay ngày đầu hoạt động chỉ tính riêng
11
hiệu ứng cơ học của đổi tiền, thị trường trái phiếu Châu Âu sẽ đạt khoảng 7000 tỷ
USD, trong đó có khoảng 4000 tỷ trái phiếu công cộng. Chắc chắn, việc phát hành trái
phiếu công ty bằng đồng EURO sẽ được đẩy mạnh nhờ tính thanh khoản cao và các
điều kiện hấp dẫn các nhà đầu tư.
Thống nhất tiền tệ và hội nhập tài chính Châu Âu tăng sức hấp dẫn của các
công cụ đầu tư tài chính tính bằng EURO, sẽ mang lại cho ECB một vị thế quốc tế mới
mạnh hơn các ngân hàng Trung ương các quốc gia hiện tại. Tuy nhiên trong giai đoạn
đầu quốc tế hoá đồng EURO, công việc điều hành chính sách tiền tệ trong nội bộ khối
rất phức tạp bởi vì sự biến động các đại lượng tiền tệ sẽ chịu ảnh hưởng ngày càng
nhiều bởi các quyết định của các tác nhân kinh tế nước ngoài.
Việc sử dụng EURO phụ thuộc chủ yếu vào giá trị nội tại của chính nó cũng
như việc nó được sử dụng trong các trao đổi tài chính quốc tế.
Bảng số 2: Tỷ giá đổi tiền chính thức, cố định vĩnh viễn giữa các đồng tiền
quốc gia với EURO.
Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) công bố ngày 31-12-1998 .
Quốc gia
Pháp
Đức
Áo
Bỉ
Tây Ban Nha
Phần Lan
Ailen
Italia
Luýchxămbua
Hà Lan
Bồ Đào Nha
EU
Đồng tiền
Franc Pháp
Deutsche Mark
Schilling
Franc Bỉ
Peseta
Markka
Irish Punt
Lire
Franc luxembua
Florin
Escudo
EURO
Ký hiệu
FRF
DEM
ATS
BEF
ESP
FIM
IEP
ITL
LUF
NLG
PTE
EUR
Tỷ giá
6,55957
1,95583
13,7603
40,3399
166,386
5,95573
0,787564
1936,27
40,3399
2,20371
200,482
1,16675 USD
132,800 JPY
0,705455 GBP
2. Quy chế lưu hành đồng EURO:
Đồng EURO do ngân hàng Trung ương Châu Âu phát hành gồm các loại tiền
giấy: 500, 200, 100, 50, 10, 5 Euro và tiền kim khí gồm 8 loại: 2, 1Euro, 50 euro cent,
20, 10, 5, 2, 1 euro cent. Tiền lẻ nhỏ nhất gọi là xu, 100 xu bằng 1 Euro.
Trong 3 năm chuyển tiếp từ 1999 đến 2001, đồng Euro được sử dụng là đơn vị
tiền thanh toán ghi sổ (như đồng ECU trước đây) giữa các ngân hàng trung ương các
nước thành viên EMU, cũng như trên thị trường liên ngân hàng. Toàn bộ nợ phát sinh
sau khi EMU bắt tay vào hoạt động sẽ được tính bằng đồng Euro. Nợ Nhà nước trước
đó có thể tính bằng đồng Euro hay đồng bản tệ của mỗi nước tuỳ theo quyết định của
mỗi quốc gia. Trong các trường hợp còn lại, thì tất cả những nghiệp vụ phát sinh của
các khách hàng trên thị trường tài chính không bắt buộc phải chuyển thành đồng Euro.
12
Đồng Euro dưới dạng tiền mặt (giấy bạc ngân hàng và tiền lẻ) sẽ được đưa vào
lưu thông bắt đầu từ ngày 1-1-2002. Từ 1.1.2002 đến 30.6.2002 sẽ thực hiện đổi tiền
nhưng không phải nộp dịch vụ phí chuyển đổi, tức là các đồng bản tệ của các nước
thành viên EURO sẽ kết thúc lịch sử tồn tại của mình. Sau đó, đồng Euro sẽ trở thành
phương tiện thanh toán và dự trữ hợp pháp duy nhất.
Các chuyên gia cho rằng, các công ty lớn, các doanh nghiệp lớn và các hãng
xuyên quốc gia có thể chuyển sang thanh toán mất 1-2 ngày; còn khu vực Nhà nước,
phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và các hộ gia đình sẽ phải dùng bản tệ trong thanh toán
hàng ngày vào khoảng 6 tháng thì sẽ hết bản tệ. Đối với các thương gia bán lẻ chắc
chắn sẽ gặp khó khăn phức tạp khi lưu hành song song 2 đồng tiền trong thời gian
chuyển đổi. Vì họ phải tính chuyển giá cả hàng hoá và dịch vụ từ đồng bản tệ sang
đồng Euro. Khi chuyển sang đồng tiền thống nhất, Châu Âu sẽ phải thay đổi khoảng 6
triệu cỗ máy bán hàng và bán vé tầu xe tự động trên phạm vi EU.
Để quá trình đưa đồng euro vào lưu thông và thanh toán dễ dàng, thuận tiện,
ngay từ năm 1996, Hội đồng EU đã thông qua quy chế xác định nguyên tắc "nhất
quán" của các hợp đồng. Theo nguyên tắc này, thì việc chuyển sang sử dụng đồng
Eurosex không làm phương hại đến giá trị hợp đồng (hay khế ước) đã ký kết bằng bản
tệhay bằng đồng ECU. Tất cả sẽ được tính chuyển sang 1 ECU ăn 1 EURO. Như vậy,
khi đồng Euro đi vào hoạt động, các nước thành viên EMU sẽ không phải ký lại hợp
đồng hay huỷ bỏ các hợp đồng đã ký.
13
PHẦN II
TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒNG EURO ĐẾN NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI.
Sự ra đời của đồng Euro đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến tất cả các
nước và các khu vực trên thế giới. Dựa trên cơ sở những diễn biến gần đây của nền
kinh tế thế giới và Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu, bài viết này đưa ra những dự
đoán về tác động của đồng Euro tới một số khu vực kinh tế quan trọng.
I.
Đối với Liên minh Châu Âu
1. Tác động đến những nước thuộc khu vực đồng EURO:
Theo Viện kinh tế quốc tế có trụ sở ở Washington, khi thực hiện đồng tiền
chung Châu Âu - đồng EURO sẽ mang lại cho EU ba lợi ích căn bản.
Một là, điều kiện mua và bán hàng hoá, dịch vụ trong EU sẽ dễ dàng hơn, giúp
cho các giao dịch thương mại nội khối tăng mạnh. Rủi ro trao đổi ngoại tệ giữa các
nước Châu Âu sẽ được hạn chế vì tất cả mọi giao dịch giữa các thành viên sẽ sử dụng
một đồng tiền. Một đồng tiền duy nhất sẽ làm nổi bật sự chênh lệch giá giữa các nước
và xoá bỏ được nạn lợi dụng chênh giá để kiếm lời dễ dàng, vì lợi ích của cả những
người sản xuất và tiêu dùng. Các công ty trong EU sẽ phải cơ cấu lại, trong đó xu
hướng sáp nhập quy mô lớn sẽ diễn ra mạnh hơn. Đây sẽ là bước khởi đầu cho cuộc
cách mạng về năng suất lao động, tiền đề quan trọng cho việc tăng khả năng cạnh
tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới.
Hai là, sự bùng nổ của thị trường vốn Châu Âu, tạo cơ hội đầu tư trên quy mô
lớn. Những quyết định đầu tư giữa các nước thành viên sẽ được đơn giản hoá, vì loại
trừ được yếu tố rủi ro về hối đoái. Khi đó, Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Châu Âu
(EMU) sẽ đóng vai trò là chất xúc tác, thúc đẩy tính linh hoạt của thị trường lao động,
tạo sự thống nhất của các chính sách vĩ mô trong EU. Trước mắt, sự xuất hiện của
đồng EURO sẽ tạo nên thị trường trái phiếu liên chính phủ với tổng giá trị lên tới 1900
tỷ dollar, tương đương với quy mô của thị trường công trái Mỹ. Tiến trình hợp nhất
làm cho các khoản thu từ trái phiếu sẽ chỉ còn một rủi ro duy nhất, đó là khả năng
thanh toán của những người phát hành trái phiếu. Điều đó có nghĩa là, đối với trái
phiếu của chính phủ, các thành viên EMU có thu nhập trái phiếu cao hơn truớc khi gia
nhập sẽ là bên được lợi nhiều nhất. Ngoài ra, đồng EURO ra đời sẽ loại bỏ tốn phí
trong giao dịch ngoại hối, tiết kiệm cho EU mỗi năm khoảng 65 tỷ USD. Điều này sẽ
tạo điều kiện làm cho lãi suất tiền tệ giảm, tức là tạo thêm cơ hội cho đầu tư tăng
mạnh. Trong tổng vốn đầu tư của tư nhân trên thị trường quốc tế, phần đầu tư bằng
USD chiếm 40%, bằng tiền của EU chiếm 37%; bằng Yên Nhật chiếm 12%.
Ba là, đồng EURO sẽ trở thành phương tiện để dự trữ và giao dịch trong
thương mại thế giới. Như vậy, vị thế chính trị của các nước Tây Âu sẽ tăng lên trên
chính trường quốc tế. EU sẽ nâng được vị thế trong nhóm G-7, trong Quỹ tiền tệ quốc
tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB).
Nhìn chung, EMU và đồng EURO cho phép các nước thành viên tận dụng tối
đa những ưu thế của thị trường chung Châu Âu. Nhờ đó để thúc đẩy kinh tế của các
14
nước EMU phát triển đồng đều, đẩy mạnh giao lưu văn hóa, tăng cường hiểu biết lẫn
nhau và hoà hợp giữa các dân tộc, củng cố hoà bình và an ninh khu vực.
2. Tác động đến các nước Châu Âu nằm ngoài khu vực đồng EURO:
Do mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với các quốc gia thành viên của EMU, các
nước Châu Âu khác sẽ có được những lợi ích chung và dài hạn. Mặc dù trong ngắn
hạn những nước này sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp của kết quả điều hành các chính sách
ngân sách và tiền tệ của những nước trong khu vực đồng EURO.
Tác động của EMU đối với các nước này phụ thuộc vào hai yếu tố: quy mô
ban đầu của khu vực đồng EURO và liệu các nước này có tham gia Cơ chế tỷ giá II
(ERM II) hay không. ERM II là Cơ chế tỷ giá sẽ có hiệu lực sau khi đồng EURO
chính thức lưu hành. Mục đích của cơ chế tỷ giá này là đảm bảo sự ổn định về tỷ giá
giữa các nước thành viên EMU và các nước EU khác không tham gia đợt đầu tiên của
EMU.
Những nước thuộc EU nhưng không tham gia đợt đầu của Liên minh tiền tệ
gồm: Anh, Đan Mạch, Thuỵ Điển và Hy Lạp. Hy Lạp, mặc dù đã có những tiến bộ
trong quá trình hội tụ kinh tế vĩ mô với các nước thuộc EMU, và đã tuyên bố mục tiêu
gia nhập EMU vào năm 2001 nhưng tại thời điểm quyết định những nước gia nhập đợt
đầu thì Hy Lạp có tỷ lệ lạm phát là 5%, cao nhất EU. Đồng Drachma của Hy Lạp hiện
nay đã được gắn trong ERM II nên khả năng dao động lớn với đồng Euro là rất nhỏ.
Các nhà phân tích cho rằng, nguy cơ chính đối với đồng Drachma trong giai đoạn này
là khả năng bị giới đầu cơ tấn công khi khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra và buộc
chính phủ can thiệp để nâng giá đồng tiền.
Anh, Đan Mạch, Thuỵ Điển vào năm 1997 đều đáp ứng được các tiêu chuẩn
về thống nhất tỷ lệ lạm phát, lãi suất và kiểm soát thâm hụt ngân sách nhưng tuyên bố
rằng họ không muốn tham gia EMU, ít nhất là trong giai đoạn đầu. Cả ba nước này
đều đối mặt với thách thức là phải điều chỉnh quan điểm và cơ chế chính sách kinh tế
của mình cho thích ứng với các nước thành viên EMU. Đối với Đan Mạch, điều này
không có vấn đề gì lớn, bởi vì đồng cuaron đã được gắn với đồng mác Đức trong Cơ
chế tỷ giá ERM của hệ thống tiền tệ Châu Âu. Mặc dù đồng cuaron Thuỵ Điển và
đồng bảng Anh được thả nổi và rút khỏi ERM kể từ cuộc khủng hoảng 1992, nhưng
điều đó chưa chắc sẽ gây cản trở cho các nước này gia nhập khu vực đồng EURO
trong thời gian tới. Một điều chắc chắn là các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, ở những nước này sẽ phải gánh chịu các chi phí và rủi ro về tỷ giá
khi mua bán hàng hoá với những nước láng giềng của mình. Trong năm vừa qua đồng
cuaron đã dao động tới 16% so với mác Đức, đồng tiền mạnh nhất nhóm EMU, do đó
việc không gia nhập EMU sẽ tạo khó khăn cho các doanh nghiệp Thuỵ Điển trong việc
mua bán hàng hoá với giá cả cạnh tranh.
Để giữ cho đồng tiền nước mình có một tỷ giá ổn định với đồng EURO, yêu
cầu đặt ra cho các thành viên ERM II là phải kiềm chế lạm phát thông qua việc theo
đuổi các chính sách tiền tệ và ngân sách thận trọng. Đối với những nước mong muốn
gia nhập EMU, phải có sự nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng với phản ứng đột ngột về sự
chênh lệch lãi suất gia tăng, nếu những diễn biến như sự trượt dốc của chính sách ngân
sách đưa một quốc gia đi chệch hướng các tiêu chuẩn cho việc gia nhập khu vực đồng
EURO. Nếu như việc phối hợp các chính sách kinh tế của khu vực đồng EURO trở
15
thành điểm nóng trong giai đoạn đầu của EMU, thì điều đó cũng có thể tác động lên
thị trường và làm thay đổi các tỷ giá cân bằng trong ERM II.
Những nước không tham gia ERM II có thể tiếp tục điều hành các chính sách
tiền tệ của mình với những định hướng hiện thời. Chiến lược này cho phép họ có thêm
sự linh hoạt trong việc điều tiết các cú sốc không cân xứng giữa họ và khu vực đồng
EURO, bao gồm cả tiến trình chuyển sang sử dụng đồn EURO. Một số nước trong số
này có thị trường tài chính quan trọng (như Thuỵ Sĩ hay Anh) có thể phải đối mặt với
những khó khăn về mặt tài chính, nếu như sự không chắc chắn về quan điểm chính
sách của khu vực đồng EURO làm nảy sinh các luồng vốn lớn vào và ra.
Na Uy và Thuỵ Sĩ, mặc dù không phải là thành viên của EU và không đủ tiêu
chuẩn tham gia, cũng trực tiếp chịu tác động của Liên minh tiền tệ do vị trí địa lý gần
gũi và các liên hệ về tài chính, thương mại chặt chẽ với khu vực đồng EURO.
II. Tác động đến các nước thuộc khối CFA franc và các nền kinh tế
chuyển đổi.
CFA franc là đơn vị tiền tệ tiêu chuẩn của Cộng đồng tài chính Châu Phi,
gồm: Bênanh, Buốckinaphaxô, Camơrun, Trung Phi, Sát, Cônggô, Bờ biển ngà,
Gabông, Mali, Nigiê, Xênêgan, Tôgô, Ghinê Xích đạo.
Sự thay đổi về giá trị của các đồng tiền mạnh và mức biến động của tỷ giá
đồng EURO sẽ tác động tới những nước đang phát triền và những nền kinh tế chuyển
đổi có quan hệ kinh tế với các nước thuộc EMU. Có lẽ chịu ảnh hưởng lớn nhất là các
nước ở Trung Âu, Đông Âu và các nước thuộc khu vực đồng franc CFA, những nước
gắn đồng tiền của mình với đồng tiền của các nước thuộc EU (mà hiện nay là đồng
EURO) nhưng có nghĩa vụ trả nợ bằng đồng đô la Mỹ hoặc yên Nhật. Do sự không
cân xứng này, đồng EURO giảm giá dẫn tới sự gia tăng chi phí trả nợ tính theo đồng
nội tệ, là không được hoàn toàn bù đắp bởi nhũng cải thiện của cán cân mậu dịch. Đây
là mối quan tâm đặc biệt của những nước có tỷ lệ nợ nước ngoài cao, bị hạn chế khả
năng đa dạng hoá các khoản vay nợ do gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường vốn
quốc tế. Đối với những nước có khả năng tiếp cận vốn tư nhân, EMU mở ra một thị
trường rộng lớn cho việc phát hành trái phiếu bằng đồng EURO, nhờ đó các nước hiện
đang vay nhiều bằng đô la Mỹ có thể giảm bớt sự mất cân xứng giữa đồng tiền mà họ
gắn tỷ giá và các nghĩa vụ tài chính của họ.
Sự biến động lớn của đồng EURO cũng có thể dẫn tới sự thay đổi về chỉ số
thương mại (terms of trade). Sự thay đổi về tỷ giá gây ra tác động chệch hướng đối với
giá hàng xuất khẩu, nhập khẩu của một nước tính theo đồng nội tệ. Ví dụ: đồng EURO
tăng giá có ảnh hưởng bất lợi đến chỉ số thương mại của các nước nhập khẩu hàng
công nghiệp của các nước EU, nhưng xuất khẩu hàng hoá thô tới một nhóm các đối tác
đa dạng hơn; giá hàng nhập khẩu tính theo nội tệ sẽ tăng còn giá hàng nhập khẩu sẽ
giảm trừ trường hợp sự dịch chuyển đường cung và cầu trên phạm vi toàn cầu phát
sinh từ sự thay đổi của tỷ giá dẫn tới những thay đổi có tác động triệt tiêu lẫn nhau về
giá cả đô la và đồng EURO.
Các nước chuyển đổi ở Trung Âu, Đông Âu và khu vực Ban Tích gắn đồng
tiền của mình với đồng mác Đức hoặc một rổ tiền tệ mà đồng mác Đức chiếm đa số sẽ
chuyển sang gắn đồng tiền của mình vào đồng EURO. Do những nước bạn hàng chính
về xuất -nhập khẩu của các nước này là các thành viên tham gia EMU. Một đồng
16
EURO yếu có thể dẫn tới giá nhập khẩu tính theo đôla tăng lên và do đó là áp lực làm
gia tăng giá trong nước. Nợ nước ngoài của các nước Trung và Đông Âu phần lớn là
bằng đô la Mỹ và yên Nhật. Tuy nhiên sự biến động của đồng EURO sẽ không gây ra
khó khăn cho việc trả nợ, bởi vì các nước này có khả năng tiếp cận thị trường tài chính
quốc tế và mới nợ nước ngoài cở mức vừa và thấp. Hunggary là một ngoại lệ, nước
này có nợ nước ngoài nhiều, nhưng đã thành công trong việc giảm bớt rủi ro do sự
biến động về tỷ giá bằng cách sử dụng các hợp đồng kỳ hạn để cân đối yêu cầu trả nợ.
Xét về dài hạn, các nền kinh tế chuyển đổi này chắc chắn sẽ thu được nhiều lợi ích từ
thành công của EMU. Đó là, sự tăng trưởng nhanh của thị trường xuất khẩu chính của
họ, và mức lãi suất thấp - một nhân tố khuyến khích việc cấp vốn cho công cuộc cải
cách kinh tế của họ. Mức lạm phát của các nước EMU là mục tiêu cho các nền kinh tế
chuyển đổi hướng tới để thực hiện được nguyện vọng gia nhập EU.
Các nước thuộc khu vực CFA franc cũng có mối liên hệ thương mại chặt chẽ
với EU, đặc biệt là Pháp - nước đảm bảo sự chuyển đổi tự do của CFA franc tại một tỷ
giá ấn định được nhất trí. Không giống như các nền kinh tế chuyển đổi, phần lớn tỷ
trọng xuất, nhập khẩu của các nước thuộc khối CFA franc là nằm ngoài EU. Nhưng
ngay cả khi đồng franc Pháp chuyển đổi sang EURO, chỉ số thương mại của các nước
sẽ tiếp tục thay đổi theo những biến động của tỷ giá. Ngoài ra, sự biến động của tỷ giá
có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng lực trả nợ nước ngoài của những nước có nợ
nước ngoài lớn và khó khăn trong việc tiếp cận thị trường tài chính quốc tế. Như vậy,
tác động của tỷ giá đến chỉ số thương mại và nợ nước ngoài ngược chiều nhau (đồng
EURO lên giá làm giảm nợ nước ngoài tính bằng đôla Mỹ nhưng làm xấu đi chỉ số
thương mại). Có lẽ mức độ ảnh hưởng tới nợ nước ngoài sẽ lớn hơn nhiều tới thương
mại, vì gánh nặng nợ nước ngoài của các nước này lớn hơn so với kim ngạch mậu
dịch.
III. Tác động của EURO tới hệ thống tiền tệ thế giới
Trong bối cảnh hệ thống tiền tệ quốc tế (SMI) đang có xu hướng phát triển
theo hướng một hệ thống đa cực, đồng EURO xuất hiện là một hiện tượng quan trọng
nhưng cũng khó xác định hoặc dự báo chính xác tác động cụ thể của nó.
Sự ra đời EMU kéo theo việc hạ thấp độ mở cửa của khu vực EURO và giảm
độ nhạy cảm đối với các biến động hối đoái. Vì lợi ích Châu Âu không được phép làm
xuất hiện các biến động tỷ giá kéo dài, cản trở tới thương mại quốc tế. Kinh nghiệm
cho thấy, biến động tỷ giá "nuôi nấng" áp lực bảo hộ và làm hại đến tình hình đầu tư
trực tiếp.
Do đó ECB và Chính phủ các quốc gia phải giám sát chặt chẽ sự biến động tỷ
giá đồng EURO. Những biến động tỷ giá lớn sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện mục
tiêu ổn định giá cả của ECB, tác động tiêu cực đến khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp Châu Âu. Nếu như Châu Âu đang muốn xây dựng một cực tăng trưởng và ổn
định thì đương nhiên càng không được chuyển yếu tố bất ổn định vào hệ thống tiền tệ
thế giới. Đồng EURO ra đời phải đóng góp vào sự ổn định của SMI.
Biểu số 3: Độ mở cửa của các nền kinh tế Châu Âu.
(Đơn vị: %)
Tên nước
Tính cả kim ngạch xuất
Không tính phần xuất khẩu
khẩu với các nước EU
nội bộ trong EU
Bỉ
70,1
23,5
Phần Lan
26,8
14,7
17
Pháp
22,7
Ailen
62,8
Đan Mạch
36,1
Đức
23,7
Tây Ban Nha
17,6
Thuỵ Điển
27,9
Italia
18,2
Bồ Đào Nha
25,5
Liên hiệp Anh
23,8
Hà Lan
52,1
Nguồn: OECD, Union Europeénne.
8,9
19,7
19,5
12,4
5,5
13,0
8,5
6,2
11,7
14,9
Việc sáng tạo đồng EURO sẽ tăng cường sự tiến triển của SMI theo hướng
một hệ thống đa cực. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, trong hệ thống thế giới đa cực ấy,
phương thức phối hợp cộng tác giữa các cực tiền tệ là yếu tố quyết định để bảo đảm ổn
định giá cả. Hệ thống tiền tệ thế giới sẽ được cân bằng tốt hơn và đối xứng hơn. Các
lợi ích tiềm tàng không những sẽ tăng lên mà còn được phân chia đồng đều cho các
bên đối tác. Hợp tác là vì lợi ích của tất cả các bên.
EURO ra đời là cơ hội duy nhất để Châu Âu và Hoa Kỳ cùng chung sức duy
trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế. Hơn nữa, EURO còn được coi như một
nhân tố góp phần chuyển dịch sự cân bằng của hệ thống tiền tệ quốc tế về một thế giới
tiền tệ ba cực: EURO, đôla Mỹ, yên Nhật. Đồng EURO sẽ cạnh tranh quyết liệt với
đôla Mỹ trong việc phân chia lại quyền lực tiền tệ trên thế giới, sẽ thúc đẩy đồng yên
Nhật cùng góp sức vào việc duy trì thế cân bằng ổn định của SMI. Đồng EURO sẽ
thúc đẩy sự chấm hết thời kỳ chuyên chế của đồng đôla Mỹ được xác lập từ sau Chiến
tranh thế giới thứ II. Từ nay, tam giác tiền tệ quốc tế EURO, đôla Mỹ và yên Nhật đã
bắt đầu được hình thành. Ba nhân tố này sẽ vừa hợp tác chặt chẽ lại vừa cạnh tranh
khốc liệt với nhau để tăng cường vị thế của mình trên chính trường quốc tế.
EEEEEEEEUUUUU
Dự trữ ngoại tệ quốc tế
Tài sản có của tư nhân
(%)
trên thế giới (%)
Việc chuyển hướng trong nhu cầu về dự trữ ngoại hối của các quốc gia từ
đồng đôla Mỹ sang đồng EURO có tác động tiêu cực tới tài khoản vốn của Mỹ và
phân phối lại một phần thu nhập của việc phát hành tiền từ Dự trữ Liên bang Mỹ sang
ECB. Ngoài ra, việc chuyển dịch sang sử dụng đồng EURO làm đồng tiền dự trữ của
những người không cư trú tại Mỹ sẽ làm giảm lượng đôla Mỹ. Lượng trái phiếu đôla
18
Mỹ do người nước ngoài nắm giữ được ước tính là hơn một nửa của tổng số 375 tỷ
đôla Mỹ được nắm giữ ngoài các ngân hàng vào đầu năm 1996. Lượng trái phiếu do
người nước ngoài nắm giữ này đem lại mức tiết kiệm hàng năm từ 10 - 14 tỷ đôla Mỹ
tiền lãi đối với các chứng khoán của kho bạc. Theo nhiều nhà kinh tế, dự trữ ngoại hối
của Mỹ không đủ để bảo vệ đồng đôla khi đồng EURO tăng giá nhanh. Trong thời
gian qua, việc Mỹ (chủ nợ lớn nhất thế giới) phần nào tránh được các cuộc khủng
hoảng nợ diễn ra ở Châu á và Mỹ Latinh là nhờ vào việc các nhà đầu tư nước ngoài
muốn nắm giữ các khoản nợ bằng đôla Mỹ. Tuy nhiên, nếu các cuộc khủng hoảng này
tiếp tục thì đôla Mỹ khó có thể giữ vai trò hàng đầu khi mà đồng EURO đã hiện diện
trên thị trường tài chính quốc tế. Với những tác động mà đồng EURO mang lại, Mỹ có
thể sẽ phải thực hiện chính sách thắt chặt và giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn đầu tư
nước ngoài. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, đa qua rồi thời kỳ mà Mỹ mặc vay nợ
và "rũ nợ" một cách dễ dàng bằng cách "thay đổi" tỷ giá của đồng đôla. Nhưng khi nào
mà Mỹ còn là cường quốc xuất nhập khẩu mạnh của thế giới, thì khi ấy Mỹ vẫn dùng
đồng đôla Mỹ làm áp lực trong giao dịch và buôn bán quốc tế.
Đồng EURO ra đời cũng đã làm Nhật Bản thức tỉnh, tuy khá muộn màng.
Tháng 12-1998, Nhật Bản còn từ chối đảm đương chức năng tiền tệ quốc tế của đồng
yên với lý do: một đồng yên mạnh có hại cho xuất khẩu và như vậy sẽ ảnh hưởng tiêu
cực đối với nền kinh tế Nhật Bản vốn chủ yếu dựa vào xuất khẩu. Nhưng ngày 6-11999, Thủ tướng Ô-bu-chi đã cấp tốc lên đường thăm ba nước hạt nhân của EMU là
Pháp, Đức, Italia. Thủ tướng Nhật Bản trình bày với Châu Âu về vấn đề cùng chia sẻ
quyền lực tiền tệ thế giới giữa EURO, đôla Mỹ và yên Nhật. Viện trưởng Viện tiền tệ
quốc tế Nhật Bản bày tỏ: "tôi không nghĩ rằng, Nhật Bản đã mất hết cơ hội để đưa
đồng yên thành đồng tiền quốc tế, nhưng sự ra đời của đồng EURO đã làm cho các
thách thức trở nên lớn hơn nhiều, môi trường quốc tế trở nên khó khăn hơn"... Hiện
nay, đồng yên Nhật không được sử dụng rộng rãi như đồng đôla Mỹ trong các giao
dịch quốc tế, thậm chí trong quan hệ mậu dịch giữa Nhật và các nước bạn hàng Châu
Á. Việc sử dụng đồng đôla Mỹ cũng đang lấn át đồng yên. Sự xuất hiện đồng EURO
có thể cản trở đồng yên phát triển thành đồng tiền quốc tế, mặc dù những cải cách sâu
rộng hệ thống tài chính của Nhật đang được hy vọng mang lại hấp dẫn mới cho đồng
yên.
Các hoạt động tài chính của các tổ chức quốc tế (WB, IMF, ADB, IBRD) cũng
phải thay đổi cho phù hợp với thực tế hoạt động kinh tế - xã hội của thế giới. Song,
những thay đổi ấy diễn ra dần dần, vì lúc này trên thế giới có 2 đồng tiền được hậu
thuẫn tương đồng về kinh tế là đồng EURO và đồng đôla Mỹ.
Hệ thống tiền tệ thế giới mới sẽ nhanh chóng xác lập ngôi thứ của nó, tuỳ theo
sức mạnh của các cực kinh tế và mức độ tin tưởng của thế giới vào chính các đồng tiền
mang chức năng quốc tế đó.
Bảng số 4: So sánh tiềm lực giữa 3 cực kinh tế thế giới.
Chỉ tiêu
Dân số (triệu người)
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%)
GDP (tỷ ECU)
Tỷ trọng trong tổng GDP thế
EU - 11
291
2,5
5546
19,4
19
Hoa Kỳ
269
3,8
6846
19,6
Nhật Bản
126
0,9
3712
7,7
giới (%)
Tỷ trọng kim ngạch thương mại
quốc tế (%)
Nguồn: 1997/OECD.
18,6
16,6
8,2
IV. CHÂU Á VỚI ĐỒNG EURO
1. Những tác động chủ yếu:
Mối quan hệ giữa EU với Châu Á ngày càng lớn mạnh được thể hiện qua các
Hội nghị thượng đỉnh cấp cao ASEM I, ASEM II. Mặc dù bị "tổn thương" bởi cuộc
khủng hoảng tài chính khu vực, song Châu Á đã tỏ một thái độ hoan nghênh đồng
EURO. Cuối năm 1998, một số ngân hàng Châu Á đã đưa ra những chỉ dẫn, những
kiến thức cơ bản để mọi người dân trong khu vực có thể ứng phó với tình thế mới.
Đồng EURO tác động đến Châu á thông qua các luồng mậu dịch, đầu tư vào
Châu á và trong việc lựa chọn đồng tiền dự trữ.
Sự xuất hiện của đồng EURO tạo ra một sự lựa chọn mới cho các nhà đầu tư
Châu á, đặc biệt là các nhà đầu tư Nhật Bản.Quan điểm này được hầu hết các nhà kinh
tế Nhật Bản nhất trí. Các chuyên gia kinh tế Nhật cho rằng, sẽ hợp lý hơn nếu Nhật
Bản giữ 1/3 tài sản nước ngoài bằng đồng EURO thay cho việc lưu giữ 100% bằng
đồng USD. Vào tháng 5-1998, các nhà đầu tư Nhật mua 5,6 tỷ đôla trái phiếu trung
bình và dài hạn của Mỹ, còn chỉ mua 3,3 tỷ đôla trái phiếu của Đức và Pháp gộp lại.
Đến tháng 10-1998, theo con số Bộ tài chính Nhật công bố thì Nhật đã bán ra các trái
phiếu của Mỹ và mua vào trái phiếu Đức và Pháp trị giá 7,8 tỷ đôla. Hiện nay có
khoảng hơn 2 ngàn tỷ đôla ở Nhật được chuyển vào đồng EURO. Công ty bảo hiểm
nhân thọ lớn nhất của Nhật, Nippon Life cho biết nó sẽ cân nhắc chuyển đổi một nửa
trong số 34 tỷ đôla Mỹ tài sản có ở nước ngoài vào đồng EURO. Hiện tại, Nippon có
khoảng 30% tài sản có bằng các đồng tiền chuyển đổi vào EURO.
Hơn nữa, thị trường trái phiếu Châu Âu sẽ cho phép các công ty Châu á tăng
tài chính ở nước ngoài và phân tán rủi ro. Theo ông Tommy Koh - giám đốc điều hành
Âu-á, cho biết: "Nếu đồng EURO trở thành một đồng tiền mạnh, thì theo thời gian nó
là đối thủ của đồng đôla Mỹ và vượt trội đồng yên Nhật về ảnh hưởng quốc tế. Các
chính phủ Châu á nên đón nhận sự nổi lên của một đồng EURO mạnh, bởi vì qua tin
cậy vào đồng USD đã là một trong những nguyên nhân của khủng hoảng tiền tệ gần
đây ở Đông á. Các đồng tiền Châu á sẽ được kiểm soát so với một rổ đồng tiền trong
tính toán thương mại, bao gồm USD, Yên, EURO và các đồng tiền khác được ưa
chuộng hơn và ấn định gắn liền với đồng đôla". Cho nên, Châu á muốn giảm bớt lệ
thuộc quá lớn vào đồng USD thì việc sử dụng đồng EURO trong buôn bán và dự trữ là
rất có lợi. Đặc biệt, các nước ASEAN đang có ý tưởng sử dụng nội tệ trong buôn bán
với nhau, thì EURO ra đời lại càng có ý nghĩa quan trọng.
ADB cho biết, các ngân hàng trung ương trong khu vực sẽ phải thay đổi một
phần dự trữ tách khỏi đồng đôla, hiện tại chỉ có khoảng 12% dự trữ bình quân bằng
các đồng tiền Châu Âu. Thương mại của Đông á với Châu Âu chỉ chiếm khoảng 15%
trong tổng thương mại toàn cầu. Trung quốc, Hàn Quốc, Thái Lan và Philippin đã sẵn
sàng sử dụng EURO là đồng tiền dự trữ hay đang cân nhắc một cách nghiêm túc. Nếu
EURO ổn định thì Thái Lan sẽ sử dụng nó như là một phần dự trữ quốc tế. Còn
20
- Xem thêm -