Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Thực trạng và giải pháp đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất công...

Tài liệu Thực trạng và giải pháp đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở việt nam

.PDF
51
770
66

Mô tả:

Thực trạng và giải pháp đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở Việt Nam
TIỂU LUẬN: Thực trạng và giải pháp đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở Việt Nam Lời mở đầu Ngày nay trong xu thế toàn cầu hoá, các nước đang trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đối với các nước đang phát triển đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức. Hiện nay khoảng các giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển đang ngày càng cách xa, sự cách biệt đó một phần do sự phát triển về khoa học công nghệ là khác nhau, trình độ phát triển khoa học công nghệ ở các nước đang phát triển còn thấp và lạc hậu so với các nước phát triển.Vì thế các nước đang phát triển muốn hội nhập vào nền kinh tế thế giới và rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển thì phải đầu tư phát triển nền khoa học công nghệ cho mình. Có như vậy kinh tế của các nước này mới đứng vững được trong quá trình hội nhập, giúp cho các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp của các nước có trình độ công nghệ tiên tiến, đồng thời giúp phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội trong nước. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập, các nước đang phát triển cũng có lợi thế của những nước đi sau, các nước này có thể phát triển nền khoa học công nghệ của mình nhờ sự áp dụng và phát triển những công nghệ của các nước đi trước bằng chuyển giao công nghệ, song song với việc nghiên cứu và triển khai nền khoa học công nghệ trong nước. Nước ta cũng là nước đang phát triển, nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp là chủ yếu, tình trạng công nghệ còn lạc hậu. Hơn 15 năm thực hiện đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng nhìn chung tình hình công nghệ còn kém phát triển, trong hoạt động chuyển giao và đổi mới công nghệ ở nước ta nói chung và trong các doanh nghiệp sản xuất nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy với tính cần thiết phải xác định thực trạng hiện nay của công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất đặc biệt là các doanh nghiệp công nghiệp ở nước ta hiện nay, với đề tài này em mong muốn làm rõ một số vấn đề còn tồn tại và có một số giải pháp để khắc phục tình trạng đó. Em xin cảm ơn thầy (cô) đã giúp em hoàn thành đề tài này. Nội dung I. Cơ sở lý luận 1. Công nghệ và đổi mới công nghệ. 1.1. Công nghệ: Hiện nay do yêu cầu của việc quản lý, đòi hỏi phải đưa ra được một định nghĩa khái quát được bản chất của công nghệ là cần thiết, bởi vì không thể quản lý công nghệ thành công khi mà chưa xác định rõ thế nào là công nghệ. Tuy nhiên cho đến nay vẫn đang còn nhiều định nghĩa về công nghệ, có định nghĩa tương đối đầy đủ, có định nghĩa thì không đầy đủ. Các tổ chức khoa học- công nghệ đã cố gắng trong việc đưa ra một định nghĩa công nghệ để có thể hoà đồng các quan điểm, tạo thuận lợi cho việc phát triển và hoà nhập của các quốc gia trong từng khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Mỗi lĩnh vực có một cách nhìn riêng về công nghệ để phục vụ cho mục đích của mình. Nhưng nhìn chung một định nghĩa công nghệ cần khái quát đủ 4 đặc trưng sau: Thứ nhất: Công nghệ là một máy biến đổi, khía cạnh này nhấn mạnh khả năng làm ra đồ vật của công nghệ, đây cũng là sự khác biệt giữa khoa học ứng dụng với công nghệ. Các nhà khoa học ứng dụng chỉ chú trọng tới việc khám phá ra các ứng dụng của các lý thuyết, trong khi các nhà công nghệ không chỉ quan tâm đến việc làm ra các đồ vật mà còn quan tâm đến hiệu quả kinh tế, tới sự thích hợp với các mục đích sử dụng của công nghệ. Do đó khía cạnh máy biến đổi của công nghệ hàm ý vấn đề quản lý có vấn đề đặc biệt trong việc đạt được kết quả biến đổi mong muốn. Thứ hai: Công nghệ là một công cụ đề cập đến công nghệ thường được coi là một cái máy, một trang thiết bị, một thiết bị. Vai trò của máy móc, đặc biệt là sự tác động giữa con người và máy móc có vai trò quan trọng trong công nghệ. Thứ ba: Công nghệ là kiến thức. Đặc trưng này khẳng định vai trò cốt lõi của khoa học trong công nghệ. Nó phủ nhận cách nhìn công nghệ là những thứ phải nhìn thấy được sờ mó được, coi công nghệ là những cái ai cũng có thể tạo ra nó nếu cần và ai có nó thì cũng có thể sử dụng với một hiệu quả như nhau. Đó là do công nghệ có những bí quyết và cơ sở khoa học, để sử dụng có hiệu quả công nghệ cần phải được đào tạo và trau dồi các kỹ năng cho con người, đồng thời phải liên tục cập nhật các kiến thức có sẵn. Thứ tư: Công nghệ là hiện thân ở các vật thể. Căn cứ vào ba khía cạnh trên có thể coi công nghệ nằm trong các dạng hiện thân mà nó tồn tại như của cải, thông tin, sức lao động của con người và do đó thừa nhận công nghệ là 1 hàng hoá, một dịch vụ, nó có thể được mua và bán như bất cứ các thứ hàng hoá khác trên thị trường nội địa cũng như thị trường thế giới. Xuất phát từ các luận điểm trên, hiện nay có một số định nghĩa thông dụng: + Định nghĩa của Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hiệp Quốc (UNIDO): Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp. Với tư cách là một tổ chức phát triển công nghiệp, UNIDO nhấn mạnh tính khoa học của công nghệ và xem xét tới khía cạnh hiệu quả khi sử dụng công nghệ vào mục đích sản xuất công nghiệp. + Định nghĩa của Uỷ ban Kinh tế và Xã hội Châu á- Thái Bình Dương (ESCAP): Công nghệ là hệ thống kiến thức về qui trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và xử lý thông tin. Sau đó ESCAP đã mở rộng định nghĩa của mình: “ Công nghệ bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất chế tạo, dịch vụ, quản lý và thông tin”. Định nghĩa này không chỉ gắn công nghệ với sản xuất chế tạo ra sản phẩm cụ thể mà còn mở rộng ra các lĩnh vực dịch vụ và quản lý. Những công nghệ mới dần hình thành như công nghệ du lịch, công nghệ ngân hàng, công nghệ văn phòng, công nghệ đào tạo, công nghệ truyền thông,… Hiện nay, ở Việt nam cũng có một số quan niệm về công nghệ, một trong số đó là: “Công nghệ là kiến thức, kết quả của khoa học ứng dụng nhằm biến đổi các nguồn lực thành các mục tiêu sinh lợi”. Cuối cùng có một định nghĩa được coi là khái quát nhất về công nghệ là: Công nghệ là tất cả những cái gì dùng để biến đổi đầu vào thành đầu ra. Xuất phát từ việc nêu ra được khái quát công nghệ, ta thấy rằng một công nghệ có các bộ phận cấu thành sau: + Phần vật tư kỹ thuật (T) bao gồm mọi phương tiện vật chất như các công cụ, trang bị máy móc, vật liệu, phương tiện vận chuyển… trong công nghệ chế tạo, các máy móc thiết bị hợp thành dây chuyền công nghệ (phần cứng). + Phần con người (H): Công nghệ hàm chứa trong con người làm việc trong công nghệ, bao gồm mọi năng lực của con người về công nghệ như kỹ năng, kinh nghiệm, tính sáng tạo, khả năng lãnh đạo… + Phần thông tin của công nghệ (I): Công nghệ hàm chứa trong kiến thức có tổ chức được và tư liệu hoá như các khái niệm, các thông số, các công thức, các ký hiệu… + Phần tổ chức của công nghệ (O): Công nghệ hàm chứa trong các khung thể chế, tạo nên bộ khung tổ chức của công nghệ như thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ, sự phối hợp, liên kết… Các bộ phận này có quan hệ tương hỗ với nhau, bỗ sung cho nhau, trong bất kỳ công nghệ nào cũng không thể thiếu một trong các bộ phận đó. Phần vật tư kỹ thuật là cốt lõi của bất kỳ công nghệ nào, nó được triển khai, lắp đặt bởi con người. Con người làm cho công nghệ hoạt động máy móc thiết bị, phương tiện kỹ thuật phát huy hết tính năng của chúng,con người không ngừng cải tiến, mở rộng, đổi mới các công nghệ đó, đồng thời nhờ đó mà con người ngày càng nâng cao được khả năng về trí tuệ và sức lực của mình. Như vậy con người đóng vai trò chủ động trong công nghệ, song lại chịu sự chi phối của thông tin và tổ chức. Phần thông tin thể hiện tri thức tích luỹ trong công nghệ. Các thiết bị và phương tiện có các kiến thức khác nhau thì khi sử dụng trong sản xuất sẽ tạo ra các sản phẩm khác nhau, đó là những bí quyết của công nghệ. Nhờ những tri thức này mà con người rút ngắn được thời gian học tập và tiếp xúc công nghệ, có thể nói thông tin của một công nghệ là sức mạnh của công nghệ. Phần tổ chức đóng vai trò điều hoà, phối hợp 3 yếu tố trên để thực hiện một cách có hiệu quả mọi hoạt động biến đổi. Phần tổ chức này giúp cho việc quản lý công nghệ được thực hiện một cách có hiệu quả nhất. Phần này phụ thuộc vào độ phức tạp của vật tư kỹ thuật và thông tin, song nó lại quyết định sự cấu thành 3 bộ phận còn lại của công nghệ. Có thể nói phần tổ chức mang tính động lực của công nghệ và bản thân nó biến đổi theo thời gian. 1.2. Đổi mới công nghệ: Ngày nay do công nghệ luôn biến đổi trong chu kỳ sống của nó, trong mỗi giai đoạn nhất định một công nghệ có thể phù hợp với thị trường có nghĩa là sản phẩm do nó sản xuất có thể tồn tại trên thị trường, nhưng đến một giai đoạn nào đó, thì công nghệ không còn phù hợp nữa. Do đó đổi mới công nghệ là một nhu cầu tất yếuvà phù hợp với qui luật phát triển. 1.2.1. Thực chất đổi mới công nghệ: Đổi mới công nghệ là sự chủ động thay thế một phần đáng kể (cốt lõi, cơ bản) hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng công nghệ khác. Muốn đổi mới công nghệ tốt thì phải xác định rõ mục tiêu và hoàn cảnh. Đổi mới công nghệ phải chú ý ba khía cạnh nhất của xã hội đó là: nhu cầu xã hội, các nguồn lực của xã hội và đặc thù tình cảm của xã hội. Trước hết phải xem xét nhu cầu của xã hội không chỉ về công nghệ mà còn về sản phẩm do công nghệ đó sản xuất ra. Bất kỳ một công nghệ nào được đổi mới đều phải có đủ nhu cầu để thực hiện, nhu cầu đó tạo ra lợi ích sau này cho công nghệ, nó phải lớn hơn chi phí bỏ ra để chế tạo ra công nghệ đó. Các nguồn lực xã hội cũng có ý nghĩa đối với việc áp dụng công nghệ thành công. Một công nghệ cần có đủ các nguồn lực- vốn, vật tư và con người có trình độ - để thực hiện. Điều này nói lên rằng xã hội có đủ nguồn vốn để có thể đưa sản phẩm công nghệ ra thị trường hay không, nó có thể được áp dụng từ một phạm vi nhỏ đến một phạm vi lớn hay không,trình độ của con người có đủ để áp dụng công nghệ hay không, khi áp dụng với phạm vi rộng rãi thì việc đào tạo người sử dụng sẽ như thế nào, đồng thời có thể đưa các nguồn lực sẵn có trong xã hội để cho các công nghệ mới sử dụng hay không. Đặc thù tình cảm của xã hội muốn nói lên rằng xã hội đó có tiếp nhận các ý tưởng mới hay không, một môi trường mà các nhóm người sẵn sàng xem xét sự áp dụng một cách nghiêm túc, khách quan, lấy hiệu quả làm tiêu chuẩn hàng đầu. Nếu tình cảm xã hội có xu hướng tốt sẽ tạo điều kiện cho hoạt động đổi mới công nghệ thuận lợi hơn và ngược lại. 1.2.2. Vai trò của đổi mới công nghệ: Với một công nghệ ở một thời điểm nhất định sẽ có một giới hạn về năng lực sản xuất sản phẩm với một lượng đầu vào đã cho. Đổi mới công nghệ là một tiến bộ về công nghệ. Tiến bộ đó nằm dưới dạng phương pháp mới về sản xuất hay kỹ thuật mới tổ chức, quản lý hay marketing mà nhờ đó sản phẩm sẽ được tạo ra với năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn, chi phí sản xuất thấp hơn và do đó giá cả có thể giảm xuống. Chúng ta đang xét về mặt hiệu quả kinh tế của công nghệ, bên cạnh đó còn có hiệu quả về mặt xã hội, việc đổi mới công nghệ còn góp phần giảm ô nhiễm môi trường, tạo thêm nhiều ngành nghề mới tạo thêm công việc làm cho người lao động, cơ cấu lại ngành kinh tế theo vùng lãnh thổ,… 1.2.3. Các giai đoạn đổi mới công nghệ: Đổi mới công nghệ có thể bằng nhiều cách, có thể phát triển từ nguồn công nghệ trong nước, cũng có thể từ nguồn công nghệ nhập từ nước ngoài. Nhưng nhìn chung đổi mới công nghệ gồm một số giai đoạn sau: + Giai đoạn 1: Nhập công nghệ để thoả mãn nhu cầu tối thiểu. + Giai đoạn 2: Tổ chức cơ sở hạ tầng kinh tế ở mức tối thiểu để tiếp thu công nghệ nhập. + Giai đoạn 3: Tạo nguồn công nghệ từ nước ngoài thông qua lắp ráp (SKD, CKD và IKD). + Giai đoạn 4: Phát triển công nghệ nhờ lixăng. + Giai đoạn 5: Đổi mới công nghệ nhờ nghiên cứu và triển khai, thích ứng công nghệ nhập, cải tiến cho phù hợp. + Giai đoạn 6: Xây dựng tiềm lực công nghệ để xuất khẩu công nghệ trên cơ sở nghiên cứu và triển khai. + Giai đoạn 7: Liên tục đổi mới công nghệ dựa trên đầu tư cao về nghiên cứu cơ bản. Tuy nhiên dưới góc độ xem xét của đề tài, việc nghiên cứu đổi mới công nghệ chủ yếu tập trung xem xét hoạt động đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. 1.2.4. Thời điểm đổi mới công nghệ: Khi đưa một công nghệ mới vào thay thế một công nghệ cũ, cần tuân theo qui luật về trình tự thời gian, diễn biến của giá thành và các yếu tố kinh tế, kỹ thuật, thị trường, xã hội, môi trường…Sau đâ chúng ta xét quá trình đổi mới công nghệ dựa trên qui luật về giá cả của đổi mới công nghệ. Giả sử công nghệ đang sử dụng có giá thành sản phẩm là c1 và giá bán sản phẩm b1. Công nghệ mới có giá thành là c2 và giá bán là b2 (hình vẽ). Giả thiết các đường b và c là song song với nhau, khoảng cách giữa b2c2 nhỏ hơn b1c1 thể hiện tính ưu việt của công nghệ mới. Đường b1,c1 nằm ngang do công nghệ đang sử dụng đã ổn định, còn b2,c2 dốc xuống do quá trình đưa vào sử dụng, kinh nghiệm vận hành, trình độ tay nghề của công nhân và khả năng quản lý của cán bộ được nâng lên. Các đường b2,c2 cắt b1,c1 tại các thời điểm t1, t2, t3 và t4. Tại t1, công nghệ mới có giá thành bằng giá bán của công nghệ cũ; lúc này sản phẩm của công nghệ được giới thiệu trên thị trường. Tại t2, công nghệ mới có giá bán sản phẩm bằng giá bán sản phẩm công nghệ cũ; sản phẩm công nghệ mới được đưa ra đại trà. Tại t3, giá thành công nghệ mới bằng giá thành sản phẩm cũ và giá bán thấp hơn giá bán sản phẩm công nghệ cũ, nên sản phẩm công nghệ mới sẽ chiếm lĩnh thị trường. Tại t4, giá bán sản phẩm công nghệ mới bằng giá thành sản phẩm công nghệ cũ; công nghệ cũ đã lỗi thời và công nghệ mới hoàn toàn thay thế công nghệ cũ. Đồ thị: Giá c2 b2 b1 c1 t1 t2 t3 t4 thời gian 2. Nội dung chủ yếu của hoạt động đổi mới công nghệ. 2.1. Lựa chọn công nghệ thích hợp: 2.1.1. Tính tất yếu khách quan của lựa chọn công nghệ thích hợp: Ngày nay vấn đề đổi mới công nghệ là tất yếu khách quan, cần thiết đối với sự phát triển của một quốc gia, quá trình đổi mới sẽ tạo điều kiện cho các nước đang phát triển tiến nhanh vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, còn các nước phát triển sẽ tạo ra một lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề bất cập trong việc đổi mới với việc giải quyết các mục tiêu kinh tế - xã hội, một công nghệ được đổi mới đòi hỏi phải thích ứng với điều kiện và hoàn cảnh của quốc gia đó. Một công nghệ mới không chỉ tạo ra được những lợi ích về kinh tế mà còn phải giải quyết được mối quan hệ với các nguồn lực hiện có của quốc gia như là nguồn lao động, nguồn tài nguyên thiên nhiên, hầu hết các nước đang phát triển đều có nguồn nhân lực dồi dào do đó thường thì khi đổi mới một công nghệ nào đó các nước này thường chọn những công nghệ có hàm lương lao động cao để giải quyết vấn đề việc làm trong quốc gia đó, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhiều loại, trữ lượng tương đối lớn, do đó phải có những công nghệ sử dụng các nguồn tài nguyên đó. Ngoài ra còn phải giải quyết mối quan hệ với nguồn công nghệ hiện có, môi trường văn hoá xã hội, chính trị pháp luật, quan hệ quốc tế… nhưng vấn đề lớn nhất mà công nghệ đó phải đáp ứng đó là nó phải phù hợp với mục tiêu của quốc gia, của ngành, của địa phương. Như vậy, để thực hiện đổi mới công nghệ một cách có hiệu quả thì trước hết chúng ta phải lựa chọn được công nghệ thích hợp. Công nghệ thích hợp là công nghệ thoả mãn giải quyết mọi nhu cầu của kinh tế xã hội đặt ra trên cơ sở phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế. 2.1.2. Những căn cứ lựa chọn công nghệ: Trong hoạt động đổi mới công nghệ, người ta có thể hiểu công nghệ thích hợp theo nhiều kiểu khác nhau, bởi một công nghệ sẽ đáp ứng một số mục tiêu và thích ứng với điều kiện của một quốc gia nhất định, công nghệ đó có thể thích hợp với quốc gia này, với điều kiện của vùng lãnh thổ này nhưng lại không thích hợp với quốc gia khác, vùng lãnh thổ khác. Vì thế khi lựa chọn công nghệ thích hợp cần căn cứ vào một số tiêu thức sau: Thứ nhất là căn cứ vào định hướng theo công nghệ, một công nghệ có thể xếp vào loại công nghệ thô sơ, thủ công và hiện đại. Việc lựa chọn loại công nghệ nào là tuỳ thuộc vào điều kiện mỗi nước, các nước đang phát triển nên lựa chọn công nghệ trung gian, dung hoà giữa công nghệ hiện đại và công nghệ thô sơ, thủ công. điều này có thể lý giải là: điều kiện ở các nước đang phát triển không giống với các nước phát triển, nếu các nước đang phát triển cũng áp dụng công nghệ hiện đại sẽ có nhiều khó khăn (về vốn, lao động, sự thích nghi), còn áp dụng các công nghệ thấp thì không thể phát triển kịp với các nước phát triển và khó hội nhập quốc tế. Thứ hai là căn cứ vào định hướng theo nhóm mục tiêu, trong mỗi giai đoạn, một quốc gia thường có các mục tiêu cho sự phát triển của mình, để đạt được các mục tiêu đó các quốc gia phải lựa chọn cho mình những công nghệ thích hợp. Các nước đang phát triển thường có một số mục tiêu là: + Thoả mãn nhu cầu và giải quyết công ăn việc làm, nâng cao mức sống cho nhân dân. + Tăng năng suất lao động. + Cạnh tranh quốc tế. + Tự lực tự cường. + Độc lập dân tộc. Thứ ba là căn cứ vào định hướng theo đầu vào, định hướng này xem xét công nghệ có thích ứng với mức độ dồi dào của đầu vào hay không. Đặc biệt các nước đang phát triển có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn nhân lực dồi dào, do vậy họ xem xét công nghệ thích hợp là công nghệ sử dụng nhiều nguồn lực đó. Thứ tư là căn cứ vào định hướng không gây đột biến, có nghĩa là xem xét sự hài hoà giữa sử dụng, thích nghi, cải tiến và phát triển. Phải có kết hợp phát triển không gượng ép, đảm bảo hài hoà tự nhiên, kết hợp công nghệ bản xứ và công nghệ nhập, tạo lập sự phát triển trong hoà bình và bền vững, không mâu thuẫn giữa quốc gia và địa phương, hoà hợp giữa công nghệ truyền thống và hiện đại v.v.. 2.1.3. Nội dung của lựa chọn công nghệ thích hợp: + Tìm hiểu nhu cầu về công nghệ và sản phẩm của công nghệ trong nước. + Xác định, định hướng về công nghệ, nội dung này sẽ xác định được công nghệ nhập phù hợp với mục tiêu của quốc gia. + Nghiên cứu và tìm hiểu thông tin về thị trường công nghệ. + Quyết định lựa chọn công nghệ. 2.2. Đánh giá công nghệ: 2.2.1. Quan niệm về đánh giá công nghệ: Công nghệ không tồn tại một cách biệt lập mà nó nằm trong “môi trường con người”. Tất cả các công nghệ khi được ứng dụng đều gây ra những thay đổi môi trường xung quanh con người. Môi trường thay đổi lại tác động như một lực định hướng cho sự phát triển của những công nghệ mới. Nói cách khác có sự tác động tương hỗ một cách có hệ thống giữa công nghệ và các yếu tố khác nhau tạo nên môi trường bao quanh con người như: kinh tế, môi trường tự nhiên, dân số, văn hoá xã hội, chính trị- pháp luật… Công nghệ khác nhau tác động đến các yếu tố môi trường xung quanh con người theo những hướng khác nhau, trong những tác động này có những tác động tiêu cực có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống kinh tế xã hội…và cũng có những tác động tiêu cực đến môi trường như làm ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên… đến lượt các yếu tố này sẽ tác động tổng hợp lên hệ thống công nghệ, hệ thống tác động tương hỗ này, các vòng phản hồi và cơ chế quản lý là cực kỳ quan trọng đối với việc đánh giá đúng đắn công nghệ. Do vậy vấn đề đánh giá công nghệ cần được khảo sát bằng phương pháp có hệ thống và toàn diện. Những tiềm năng và hạn chế của công nghệ cần được đánh giá trong tổng thể của nó. Vì vậy người ta đưa ra quan niệm về đánh giá công nghệ: Đánh giá công nghệ không chỉ giới hạn trong “cực tiểu hoá tác hại” của công nghệ và sự phát triển trong sự thích hợp với môi trường mà còn là “cực đại hoá hiệu quả tích cực” của công nghệ và phát triển công nghệ “bền vững với môi trường” xung quanh. 2.2.2. Vai trò của đánh giá công nghệ: Đến nay ở các nước đang phát triển, ta thấy rằng sự thiếu thốn về công nghệ tiên tiến đã liên quan tới nhiều vấn đề xã hội đặc biệt vấn đề lớn nhất là sự tăng trưởng kinh tế thấp, từ đó liên quan đến phúc lợi xã hội thấp, sự lãng phí nguồn tài nguyên thiên nhiên, trình độ văn hoá thấp dẫn đến tốc độ tăng dân số lớn, rối loạn xã hội và sự bất ổn về chính trị…Hơn nữa vấn đề với trình độ công nghệ thấp kém gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, đây là vấn đề lâu dài đối với các nước này. Vì thế đánh công nghệ có một vai trò hết sức quan trọng. Nó thể hiện ở một số vấn đề sau: + Nó giúp cho các nước này xác định được công nghệ nào là thích hợp và khả năng thích ứng để từ đó tiến hành chuyển giao công nghệ, nghĩa là phải xác định công nghệ hiện hành ở các nước đã phát triển có phù hợp với điều kiện và mục tiêu của mình hay không. + Giúp cho các nước này lựa chọn công nghệ để triển khai, nghĩa là xác định công nghệ vốn có và công nghệ nhập khẩu sao cho phù hợp với các mục tiêu phát triển quốc gia. + Nó giúp cho các quốc gia quản lý công nghệ phù hợp để bảo vệ môi trường. 2.2.3. Các bước tiến hành đánh giá công nghệ: Để đánh giá công nghệ ta tiến hành các bước sau: + Mô tả công nghệ. + Liệt kê các yếu tố tác động. Yếu tố tác động này được xác định qua việc phân tích tác động giữa công nghệ với môi trường xung quanh con người. + Phân tích ảnh hưởng. + Giới hạn phạm vi ảnh hưởng. + Nghiên cứu đường lối chính sách liên quan. + Dùng công cụ phân tích. Một bước quan trọng trong quá trình đánh giá công nghệ là đánh giá ảnh hưởng khác nhau của một công nghệ đối với toàn bộ môi trường xung quanh con người, để tiến hành sự đánh giá này, chúng ta xem xét một số các yếu tố như yếu tố công nghệ, yếu tố kinh tế, yếu tố tài nguyên, yếu tố môi trường tự nhiên, yếu tố dân số, yếu tố văn hoá xã hội, yếu tố pháp luật- chính trị…trong các yếu tố này có những yếu tố có thể định lượng được, có những yếu tố chỉ có thể định tính. Do vậy để thực hiện đánh giá công nghệ người ta sử dụng 2 loại công cụ và kỹ thuật cơ bản: một số có tính định lượng và một số khác là định tính. Kỹ thuật phân tích lợi ích chi phí là một công cụ ra quyết định lựa chọn đầu tư. Các bước tiến hành như sau: Bước 1: Liệt kê các phương án công nghệ có sẵn i = 1,2,…,n. n là số phương án lựa chọn. Bước 2: Xác định tất cả các yếu tố chi phí j =1,2,…,m. m là số các khoản chi phí (những tác dụng tiêu cực được coi là chi phí). Bước 3: Biến đổi các chi phí thành tiền tương đương T m Ci   C jy ; Cjy: chi phí cho khoản j ở năm thứ y, y 1 j 1 T: tuổi thọ của công nghệ. Bước 4: Xác định các yếu tố lợi ích j = 1,2,…,k. k là số các khoản lợi ích (những tác động tiêu cực được coi là lợi ích). Bước 5: Biến đổi các lợi ích thành tiền tương ứng T k Bi   B jy ; Bjy khoản lợi ích thứ j ở năm thứ y. y 1 j 1 Bước 6: So sánh lợi ích và chi phí. Bước 7: Chọn phương án thích hợp dựa trên các mục tiêu và các ràng buộc. Bước 8: Hiệu chỉnh tập phương án đã chọn dựa trên sự tác động tương hỗ. Kỹ thuật định tính được sử dụng bằng một số đánh giá chủ quan đối với tác dụng của một công nghệ tương ứng với các yếu tố khác nhau. 2.3. Phân tích năng lực công nghệ: 2.3.1. Năng lực công nghệ và vai trò của việc phân tích năng lực công nghệ: Năng lực công nghệ của quốc gia (ngành, cơ sở) là khả năng của nó triển khai những công nghệ đã có một cách có hiệu quả và đương đầu được với những thay đổi công nghệ lớn. Từ những năm 1970 các nhà nghiên cứu bắt đầu chú ý đến các quá trình có liên quan đến việc làm chủ và thích nghi hoá công nghệ nhập. Người ta thấy rõ ràng công nghệ có tính ẩn, chuyển giao công nghệ có độ bất định đáng kể. Để đồng hoá công nghệ nhận từ bên ngoài, người ta phải giải quyết nhiều vấn đề tự lập theo cách riêng mà không thể dựa hoàn toàn vào bên bán. Từ các chuyển hướng suy nghĩ đó, vấn đề năng lực công nghệ của quốc gia, của cơ sở và việc tăng cường năng lực đặc biệt được chú ý. Theo định nghĩa này có hai mức để phân tích năng lực công nghệ đó là: + Sử dụng hiệu quả năng lực công nghệ sẵn có. + Thực hiện thành công đổi mới công nghệ. Năng lực công nghệ được đánh giá trên hệ thống 4 nhóm chỉ tiêu sau: + Nhóm 1: Năng lực vận hành (năng lực sử dụng công nghệ; năng lực quản lý sản xuất bằng công nghệ đó; năng lực bão hành, bảo dưỡng máy móc thiết bị và năng lực khắc phục sự cố có thể xảy ra). + Nhóm 2: Năng lực tiếp thu công nghệ (năng lực tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn công nghệ phù hợp; năng lực lựa chọn hình thức tiếp thu công nghệ; năng lực đàm phán trong chuyển giao công nghệ; năng lực học tập và tiếp thu công nghệ mới). +Nhóm 3: Năng lực hỗ trợ tiếp thu công nghệ (năng lực tổ chức tiếp thu công nghệ; năng lực về đào tạo nguồn nhân lực cho tiếp thu công nghệ; năng lực tìm kiếm quỹ vốn cho phát triển công nghệ; năng lực xác định thị trường mới cho sản phẩm và đảm bảo đầu vào cho sản xuất). + Nhóm 4: Năng lực đổi mới (năng lực thiết kế sản phẩm mới cho công nghệ được chuyển giao; thay đổi nhỏ hoặc cơ bản công nghệ đã có cho phù hợp với công nghệ nhập; thiết kế các công nghệ mới dựa trên các kết quả nghiên cứu và triển khai). 2.3.2. Phương pháp phân tích năng lực công nghệ: Trên cơ sở các nhóm chỉ tiêu phản ánh năng lực công nghệ ta tiến hành phân tích năng lực công nghệ của cơ sở, ngành,và quốc gia. Chúng ta có thể phân tích theo định tính hoặc định lượng. Để phân tích năng lực công nghệ quốc gia ta tiến hành các bước sau: Bước 1: Phân tích toàn bộ quá trình sản xuất thành các công đoạn biến đổi. Bước 2: Biểu diễn cơ cấu công nghệ theo giá trị tạo được do đóng góp công nghệ. Bước 3: Đánh giá các nguồn lực có thể sử dụng. Bước 4: Đánh giá về năng lực kết cấu hạ tầng (năng lực đồng hoá công nghệ nhập, năng lực sản sinh công nghệ). Bước 5: Suy ra năng lực công nghệ ngành, quốc gia. Cụ thể ta tiến hành phân tích năng lực công nghệ cơ sở: Cơ sở của phương pháp này là tập hợp kiến thức để nghiên cứu, phân tích, tính toán và xác định giá trị tạo được do đóng góp của công nghệ khi thực hiện một công nghệ cụ thể trên một cơ sở cụ thể. Căn cứ vào giá trị này cao hay thấp ta kết luận năng lực công nghệ của cơ sở đó. GTCN=..Q Trong đó: GTCN: giá trị tạo được do đóng góp của công nghệ. : hệ số ảnh hưởng của môi trường quốc gia (<1). Q: sản lượng được tính ra bằng tiền.  : Hàm hệ số đóng góp của công nghệ (hàm hệ số đóng góp của các thành phần công nghệ).  =Tt.Hh.Ii.Oo Trong đó: T: giá trị hệ số đóng góp của thành phần vật chất. H: giá trị hệ số đóng góp của thành phần con người. I: giá trị hệ số đóng góp của thành phần thông tin. O: giá trị hệ số đóng góp của thành phần tổ chức. Với T,H,I,O xác định được chúng ta có đồ thị biểu diễn khả năng đóng góp của từng thành phần công nghệ so với lý tưởng. T 1 H 1 1 O I 1 Từ đồ thị, một cách tương đối ta sẽ thấy được năng lực công nghệ cơ sở, thông qua diện tích của tứ giác tạo thành bởi các hệ số đóng góp. 2.4. Đổi mới công nghệ: 2.4.1. Đánh giá trình độ công nghệ hiện tại: Hiện nay sự chênh lệch về trình độ công nghệ giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển là rất lớn. Vì vậy việc nhận biết sự chênh lệch đó là cơ sở cho việc sắp xếp, bố trí các hoạt động phát triển và chuyển giao công nghệ trong nước và quốc tế. Dấu hiệu về trình độ công nghệ của một ngành có thể xác định được bằng cách so sánh nó với cùng ngành của một nước khác có thành tích tốt nhất trong lĩnh vực đó. Để làm điều này, đối với một công nghệ cụ thể trước hết phải chọn ra một hoặc một số chỉ số bộ phận định lượng để xác định trình độ công nghệ. Trong những chỉ số bộ phận như vậy có thể giúp đánh giá trình độ công nghệ thì những khác nhau trong giá trị giữa các nước có thể chứng minh sự tồn tại của khoảng cách công nghệ. Bên cạnh đó, để đánh giá toàn diện, đầy đủ và có ý nghĩa hơn về trình độ công nghệ của một ngành công nghệ thì công nghệ phải được xem xét trên quan điểm của 4 thành phần của nó và khoảng cách công nghệ từ đó được xác định đối với từng thành phần. Việc đánh giá này là giúp cho các nước nhận thấy được trình độ công nghệ của mình so với các nước khác, trong quá trình hội nhập kinh tế các nước cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt, vì thế để duy trì và phát triển nền kinh tế độc lập, các nước phải có chính sách phát triển khoa học công nghệ nhằm phát triển nền sản xuất trong nước. Đồng thời căn cứ vào thị trường và nhu cầu thị trường, một số sản phẩm không còn phù hợp nữa buộc các doanh nghiệp phải thay thế công nghệ hiện tại. 2.4.2. Các hình thức đổi mới công nghệ: a. Nghiên cứu và triển khai công nghệ trong nước: Nghiên cứu và triển khai công nghệ trong nước đóng vai trò quan trọng trong hoạt động đổi mới công nghệ. Ngoài những lợi ích về kinh tế mà nó đem lại cho đất nước. Nó còn góp phần cho phát triển khoa học công nghệ trong nước tạo ra vị thế cho mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế, nó đem lại độc quyền về công nghệ do nước đó tạo ra, đem lại khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước. Quá trình nghiên cứu và triển khai là quá trình nhận biết những đòi hỏi hay những khả năng tiềm tàng, nảy sinh những ý tưởng sáng tạo. Sự nhận thức được nhu cầu của xã hội là một sự thúc đẩy cơ bản cho nghiên cứu và triển khai - đó là sự thúc ép của nhu cầu. Để đáp ứng đòi hỏi đó cần nghiên cứu cần dựa trên những kiến thức hiện có. Một động cơ khác của nghiên cứu và triển khai là tìm kiếm những ứng dụng còn tiềm tàng trong khoa học. Sự tìm tòi đó góp phần nâng cao kiến thức và làm nảy sinh những ý tưởng công nghệ; đó là sự thúc đẩy của khoa học công nghệ. Tiếp theo quá trình đó là các quá trình kỹ nghệ hoá: sáng tạo, thiết kế, chế tạo. Cuối cùng là quá trình Marketing, tức là tìm cách để truyền bá công nghệ. Sức ép nhu cầu Ghi nhận Nâng cao kiến Nảy sinh ý Nảy sinh ý đồ Kỹ nghệ hoá Marketi ng Tác động của KH & CN Nghiên cứu Triển khai Hình thức này có nhiều ưu điểm như tận dụng và khai thác tốt nguồn lực có sẵn (nhân lực, vật lực, tài lực); tạo ra được công nghệ phù hợp và thích nghi với điều kiện sẵn có; dễ quản lý, không phụ thuộc vào nước ngoài, tiết kiệm ngoại tệ dùng để nhập khẩu công nghệ; tạo điều kiện nâng cao năng lực công nghệ trong nước. Bên cạnh đó nó còn có những hạn chế như mất thời gian cho nghiên cứu và triển khai, dễ mất cơ hội chiếm lĩnh thị trường (vì không có ngay công nghệ đang cần); hạn chế về năng lực, nguồn lực do đó không tạo ra được công nghệ có chất lượng, có khi chi phí còn đắt hơn là nhập từ nước ngoài. Những hạn chế này là những vấn đề lớn đối với các nước đang phát triển do đó hình thức đổi mới công nghệ này chỉ được thực hiện với một tỷ lệ nhỏ so với toàn bộ hoạt động đổi mới công nghệ, các nước này chủ yếu thực hiện đổi mới công nghệ thông qua hình thức chuyển giao công nghệ. b. Chuyển giao công nghệ: Chuyển giao công nghệ là quá trình chuyển và nhận công nghệ qua biên giới một quốc gia. Đây là hình thức chủ yếu để thực hiện đổi mới công nghệ ở các nước đang phát triển. ở các nước này, do trình độ nghiên cứu và triển khai công nghệ trong nước còn yếu do đó chủ yếu thực hiện chuyển giao công nghệ để nâng cao trình độ công nghệ trong nước. Như đã thống nhất về mặt định nghĩa, công nghệ gồm có 2 phần: phần cứng và phần mềm. Trong chuyển giao công nghệ, phần mềm của công nghệ là rất trừu tượng, vấn đề là bên nhận công nghệ phải nắm vững được phần mềm của công nghệ. Qua thực tế chuyển giao công nghệ người ta đưa ra một số thể loại được coi như là phạm trù của công nghệ như sau: + Nghiên cứu khả thi và khảo sát thị trường trước khi đầu tư. + Thu thập thông tin về một số công nghệ đã có. + Thiết kế kỹ thuật - công nghệ +Xây dựng nhà máy và lắp đặt thiết bị. + Phát triển công nghệ. Ngày nay chuyển giao công nghệ được thực hiện một các rộng rãi trong điều kiện hợp tác hoá và phân công lao động ngày càng sâu sắc. Các nước thực hiện chuyển giao công nghệ vì một số lý do sau: Thứ nhất: Các nước phát triển không đồng đều và yêu cầu công nghệ rất đa dạng. Một nước dù là nước phát triển hay đang phát triển thì với nguồn lực có hạn, họ không thể tạo ra được tất cả các công nghệ mà họ cần mà họ chỉ có thể phát triển một số công nghệ nào đó để có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các nước khác.Vì thế họ cần phải giao lưu công nghệ với các nước khác để khai thác các nguồn lực trong nước và tận dụng các nguồn vốn từ bên ngoài để tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước. Thứ hai: một công nghệ hay hay một sản phẩm của công nghệ đó bao giờ cũng có một chu kỳ sống nhất định, vì thế các nhà sản xuất ra công nghệ hay sản phẩm đó mong muốn kéo dài chu kỳ sống đó. Có thể công nghệ đó hay sản phẩm không phù hợp với thị trường này nhưng vẫn đang là mới với một số thị trường khác. Do đó các các nước tiến hành chuyển giao công nghệ để vừa tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước vừa tận dụng được các công nghệ ở cuối chu kỳ sống của nó. Thứ ba: nhu cầu của thị trường biến đổi ngày càng đa dạng vì vậy các nhà doanh nghiệp cần phải định hướng cho các sản phẩm mới và các sản phẩm thay thế. Muốn vậy không có con đường nào khác là phải luôn đổi mới công nghệ. Đổi mới từng phần, từng công đoạn, hay đổi mới toàn bộ tuỳ thuộc theo chiến lược sản phẩm và năng lực công nghệ. Nhưng đổi mới công nghệ không thể không chú ý tới chuyển giao công nghệ. Nói cách khác đổi mới công nghệ là nhu cầu của chuyển giao công nghệ. Thứ tư: tranh thủ vốn đầu tư của nước ngoài. Tận dụng chuyển giao công nghệ để đầu tư chất xám từ nước ngoài, tận dụng liên doanh, liên kết … Hiện nay có hai hình thức chuyển giao công nghệ đó là chuyển giao dọc và chuyển giao ngang. + Chuyển giao dọc là sự nhận và chuyển công nghệ đang trong giai đoạn quản lý của nghiên cứu có nghĩa là công nghệ chưa đưa vào sản xuất đại trà. + Chuyển giao ngang là sự chuyển và nhận công nghệ đã sản xuất đại trà. Mỗi hình thức chuyển giao đều có ưu nhược điểm riêng trong một số trường hợp thì áp dụng hình thức chuyển giao dọc là có lợi nhưng trong trường hợp khác thì chuyển giao ngang là có lợi, vì thế khi thức hiện chuyển giao người ta xét xem nên thực hiện chuyển giao theo hình thức nào là đạt hiệu quả cao nhất. Các bước để tổ chức thực hiện chuyển giao công nghệ: + Chuẩn bị: trong bước này đòi hỏi nắm vững những yêu cầu của chuyển giao công nghệ, nghĩa là sau khi thực hiện các công việc của hoạt động công nghệ như lựa chọn công nghệ thích hợp, đánh giá công nghệ, phân tích năng lực công nghệ để thực hiện đổi mới công nghệ các nước, các doanh nghiệp phải nắm vững được các điều kiện này để tiến hành chuyển giao công nghệ đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó các nước (các doanh nghiệp) còn phải nắm vững các hợp đồng chuyển giao công nghệ như hợp đồng lixăng, hợp đồng chuyển giao công nghệ kèm theo cung cấp máy móc thiết bị, xây dựng công trình công nghiệp có hoặc không kèm lixăng, hợp đồng dịch vụ, hỗ trợ và tư vấn kỹ thuật, hợp đồng đại lý, hợp đồng tổng hợp. Hợp đồng lixăng là giấy phép mà người chủ sở hữu công nghiệp cấp cho người mua được quyền sở hữu công nghiệp đó của mình. Một hợp đồng lixăng chỉ chuyển một quyền sở hữu công nghiệp. Hợp đồng chuyển giao công nghệ kèm theo cung cấp máy móc thiết bị, xây dựng công trình công nghiệp có hoặc không có lixăng: hợp đồng này bao gồm những nội dung về chuyển giao quyền sở hữu hay sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích, hoặc các đối tượng sở hữu công nghệ khác; thông tin về công nghệ. Trong hợp đồng này nhất thiết phải có các thông tin về đặc điểm kỹ thuật của máy móc và thiết bị, các mô tả chi tiết, rõ ràng về công nghệ mà bên nhận muốn nhận được, cũng như cách thức để nhận được công nghệ. Hợp đồng cung cấp dịch vụ hỗ trợ và tư vấn kỹ thuật: hợp đồng này chủ yếu nhằm thoả thuận về việc cung cấp các dịch vụhỗ trợ và tư vấn công nghệ kể cả đào tạo và thông tin. Hợp đồng đại lý: bên nhận làm đại lý cần phải có kiến thức cần thiết về sử dụng, bảo dưỡng, sữa chữa sản phẩm, cũng như các dịch vụ có liên quan. Vì thế hợp đồng này phải ghi rõ những nội dung đào tạo cụ thể sẽ tiến hành cho bên đại lý; các tài liệu liên quan (mô tả sản phẩm, cẩm nang vận hành và bảo dưỡng, cẩm nang sữa chữa…). Các nội dung trong hợp đồng này phải được thực hiện trong khi bên đại lý bán máy móc thiết bị. Hợp đồng tổng hợp: nó là tập hợp một hoặc toàn nội dung nói trên. + Hợp đồng chuyển giao công nghệ. + Chuẩn y hợp đồng. 2.4.3. Yêu cầu của đổi mới công nghệ: Từ việc đánh giá công nghệ ta có thể nhận thấy yêu cầu tổng quát của đổi mới công nghệ là lợi ích mà công nghệ đem lại phải lớn hơn là chi phí bỏ ra cho công nghệ đó: Bi=>Ci. Cụ thể là: + Nâng cao trình độ công nghệ, hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm… + Không làm phương hại đến an toàn sản xuất, bảo đảm an toàn lao động, điều kiện và môi trường công nghệ cho người lao động. + Sử dụng hợp lý năng lượng, các nguồn tài nguyên và nguồn nhân lực. + Không gây tác hại đối với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội chung. II. Thực trạng đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp ở Việt nam: 1. Tình hình công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở Việt nam: 1.1. Tình hình công nghệ chung của nền kinh tế quốc dân: Công nghiệp là ngành đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế nước ta, nó đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao trong khoảng thời gian 10 năm qua, với tỷ lệ tăng bình quân (từ 1991- 2000) là 14% năm. Tuy nhiên tăng trưởng công nghiệp là quá trình không đều, trải qua những khúc quanh hoặc gắn liền với sự thay đổi chính sách trong nước hoặc do ảnh hưởng bởi tình hình ngoài nước. Mặc dù ngành công nghiệp đạt tốc độ tăng trương cao như vậy nhưng so với tốc độ phát triển của thế giới thì công nghiệp Việt nam còn phát triển ở trình độ thấp. Đặc biệt so sánh về mặt công nghệ thì Việt nam còn phát triển ở trình độ thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Sau đây là số liệu so sánh trình độ công nghệ Việt nam và các nước trong khu vực (%): Nhóm ngành công Nhóm ngành công Nhóm ngành công nghệ thấp (a) nghệ trung bình (b) nghệ cao (c) ThaiLan 42,7 26,5 30,8 Singapore 10,5 16,5 73 Malaysia 24,3 24,8 51,1 Indonesia 47,7 22,6 29,7 Philipine 45,2 25,7 29,1 Vietnam 58,7 20,7 20,6 Từ bảng số liệu ta thấy công nghệ của Việt nam chủ yếu tập trung trong các nhóm ngành có trình độ thấp, còn tỷ lệ các ngành có trình độ công nghệ trung bình và ngành công nghệ cao đều thấp hơn so với các nước trong khu vực. 1.2. Tình hình công nghệ trong ngành sản xuất công nghiệp ở nước ta: Theo báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư (4-1997) thì cuối năm 1989 cả nước có 12.297 doanh nghiệp Nhà nước với số vốn khoảng 34.216 tỷ VNĐ. Qua sắp xếp đăng ký theo nghị định 388-HĐBT ngày 1/4/94 còn 6.264 doanh nghiệp với tổng số vốn 52.150 tỷ VNĐ. Như vậy đã giảm đi 6.033 doanh nghiệp Nhà nước, trong đó 2.040 doanh nghiệp đã giải thể hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu (Theo nghị định 103/CPgiao khoán, bán, cho thuê và cổ phần hoá DNNN). Quy mô tính đến 1996, bình quân một DNNN có 11,9 tỷ đồng vốn, chỉ có một doanh nghiệp đạt 33,66 tỷ đồng do trung ương quản lý, khoảng 8% DNNN có mức vốn 10 tỷ đồng và 45% có mức vốn dưới 10 tỷ đồng (theo số liệu tổng cục thống kê năm 1993-1994). Đặc biệt theo cuộc điều tra toàn diện nhất về tình trạng kỹ thuật công nghệ năm 1990 cho thấy có 78% TSCĐ trong các doanh nghiệp quốc doanh (bộ phận được trang bị tốt của nền kinh tế quốc dân) có thời gian sử dụng từ 5 năm trở lên. So với nguyên giá, giá trị còn lại của TSCĐ là máy móc thiết bị chỉ còn 54,4%, trong khi đó của nhà cửa, kiến trúc chiếm 63,4%. Điều đó có nghĩa là trong điều kiện thời gian này việc đầu tư chủ yếu tập trung vào xây dựng cơ bản, phần đầu tư cho đổi mới thiết bị và công nghệ chiếm tỷ lệ thấp. Thực tế, lượng thiết bị "dư thừa" trong công nghiệp so với nhu cầu sử dụng của sản xuất kinh doanh là rất lớn, giá trị gần 886 tỷ VNĐ chiếm khoảng 15% giá trị máy móc thiết bị của công nghiệp (bằng 45,3% tổng số TSCĐ cần sử lý trong cả nước và bằng 6,5% tổng số TSCĐ trong công nghiệp - tức là khoảng 15% giá trị máy móc thiết bị của công nghiệp). Tình trạng này phần nào phản ánh được sự cũ kĩ, lạc hậu và sự chắp vá, đồng thời phản ánh được sự quản lý yếu kém trong việc sử dụng máy móc thiết bị để sản xuất. Sự lạc hậu đó còn thể hiện qua các mặt sau đây: +Tỷ lệ các công nghệ và thiết bị hiện đại, tiên tiến chỉ đạt 16%, các công nghệ và thiết bị này tập trung chủ yếu vào một số ngành công nghiệp như: dệt (33%), may (46%), khai thác than (37%). Điều đáng chú ý là ngay trong công nghiệp nhẹ, nhiều ngành còn ở dưới mức bình quân của toàn bộ nền kinh tế. + Trình độ cơ khí hoá còn thấp.Tại thời điểm điều tra 1/1/1990, toàn nền kinh tế chỉ có 43% lao động trong khu vực kinh tế trung ương, 23% lao động trong khu vực kinh tế địa phương được cơ khí hoá, tự động hoá. Trong công nghiệp tỷ lệ này còn cao hơn (63% với công nghiệp trung ương, 47% công nghiệp địa phương). Trình độ này còn ở mức thấp so với thế giới. + Mức tiêu hao năng lượng, nhiên liệu và lãng phí nguyên liệu do nguyên nhân công nghệ ở ta còn khá cao. Chỉ so sánh riêng mức tiêu hao năng lượng để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm còn cao hơn nhiều mức bình quân của các nước đang phát triển ở nhóm: hoá chất bằng 138%, sơn bằng 195%, săm lốp cao su 204%, giấy 127%, than 175%, quạt điện 246%, luyện kim đen 250%, luyện kim màu 148%. + Chất lượng sản phẩm thấp, khó có thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của nước ngoài. Sản phẩm Việt nam thua kém ở nhiều thông số kinh tế -kỹ thuật quan trọng (thể hiện ở sự tinh xảo, tính chính xác, độ bền tính gọn nhẹ, khả năng thao tác dễ dàng, thuận tiện trong quá trình sử dụng). Các tiêu chuẩn của Việt nam phổ biến là thấp hơn của thế giới nhưng có khoảng 10% doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu này. Một số doanh nghiệp có thể đạt được tiêu chuẩn tương đương với hàng hoá của nước ngoài nhưng lại đòi hỏi chi phí sản xuất cao do đó giá cả lại cao hơn. Như vậy xét tương quan giữa giá cả- chất lượng thì sản phẩm Việt nam vẫn còn thua kém so với sản phẩm hàng hoá nước ngoài. + Hầu hết các công nghệ được trang bị và sử dụng trong thời gian dài và có nguồn gốc khác nhau. Tuy nước ta có quan hệ nhiều năm với các nước XHCN trước đây nhưng lượng thiết và công nghệ được nhập từ các nước này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 8% lượng thiết bị được sử dụng trong những năm 1986- 1990). Trong khi đó số lượng thiết bị máy móc được nhập từ các nước tư bản lại lớn hơn rất nhiều, tỷ trọng chiếm 37,3% tổng số thiết bị được sử dụng trong thời kỳ 1986- 1990. Nhưng xét về cơ bản công nghệ được chuyển vào nước ta chủ yếu từ các nước Châu âu, Đông và Nam á bao gồm cả những công nghệ tiến đến các công nghệ trung bình. Một số công nghệ có nguồn gốc từ Mỹ và Canada, nhưng tỷ lệ này là thấp và được trang bị tập trung chủ yếu ở khu vực phía Nam. Ngoài ra công nghệ còn được hình thành từ nguồn trong nước, nhưng tỷ lệ lượng công nghệ này là thấp trong tổng khối lượng máy móc thiết bị và công nghệ do năng lực công nghệ Việt nam còn thấp. Năm 1975- 1985 tỷ lệ này là 14,3%, năm 1995 là 25,7%, năm 1993 là 20% và tỷ trọng này ngày càng giảm do sự chuyển giao công nghệ từ nước ngoài ngày càng tăng. + Hiệu quả sử dụng thiết bị và công nghệ nhìn chung rất thấp. Đứng về mặt thời gian khoảng 80% tổng số thiết bị chỉ được sử dụng 1ca/ngày. Số thiết bị có hệ số sử dụng thời gian (tính bằng thời gian làm việc thực tế so với thời gian làm việc theo chế độ) từ 0,2 trở lên chiếm 79%, cá biệt có ngành chỉ đạt 45%. Như vậy hệ số sử dụng công suất máy móc thiết bị chỉ đạt khoảng 25-30%. Để thấy rõ hơn thực trạng này chúng ta nghiên cứu một vài ngành. 2. Thực trạng công nghệ và đổi mới công nghệ một số ngành: Từ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, để đứng vững được các doanh nghiệp không còn con đường nào khác là mở rộng mặt hàng, nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm để mở rộng thị trường cho hàng hoá của mình. Muốn vậy nhất thiết phải đổi mới công nghệ. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa, các doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận thị trường công nghệ quốc tế, từ đó khai thác các nguồn vốn, các hình thức liên doanh, liên kết… để mua công nghệ mới cho sản xuất. Chúng ta xem xét tình hình đổi mới công nghệ ở một số ngành cụ thể, tiêu biểu cho các ngành công nghiệp như ngành cơ khí, ngành dệt may, ngành chế biến mía đường (đại diện cho ngành công nghiệp chế biến nông, lâm): 2.1. Ngành cơ khí: 2.1.1. Thực trạng công nghệ của ngành cơ khí: Là một trong những ngành giữ vị trí thên chốt của công nghiệp hoá, song lại tỏ ra yếu kém và lạc hậu. Cụ thể công nghệ đã lạc hậu từ 50-100 năm so với các nước phát triển và 30-50 năm so với các nước trung bình. Trước năm 1986, cả nước có 610 doanh nghiệp cơ khí quốc doanh. Sau khi sắp xếp lại theo nghị định 388-HĐBT thì chỉ còn 463 doanh nghiệp. Toàn ngành có khoảng 200.000 lao động, bình quân tài sản cố định của một doanh nghiệp khoảng 0,61 triệu USD là quá bé, lại lạc hậu, thiếu chuyên môn hoá, hợp tác hoá. Có thể khái quát hiện trạng của công nghệ cơ bản như sau: công nghệ đúc rất lạc hậu, phổ biến đúc bằng khuôn cát, mẫu gỗ trên nền cát cố định. Các công nghệ đúc khuôn kim loại, đúc khuôn thao vỏ mỏng, đúc mẫu chảy, đúc áp lực tuy có được sử dụng nhưng quy mô nhỏ không đáng kể. Công nghệ rèn chủ yếu là rèn tự do trên máy búa, công nghệ rèn khuôn hở có được áp dụng nhưng với quy mô nhỏ. Công nghệ hàn đang được sử dụng trong ngành chế tạo máy là hàn hồ quang thủ công với các máy hàn cũ, lạc hậu. Công nghệ cắt gọt thì phần lớn là máy móc công cụ vạn năng thông dụng có độ chính xác gia công thấp. Công nghệ chế tạo khuôn cối, dụng cụ cắt gọt đòi hỏi các vật liệu đặc biệt có cơ lí tính cao, chịu mài mòn, chịu nhiệt chịu axít, nhưng công nghệ này nước ta mới chỉ bắt đầu nghiên cứu. Công nghệ xử lý nhựa dựa trên những kinh nghiệm thô sơ. Điển hình là ngành sản xuất xe đạp. Thiết bị sản xuất xe đạp nhập từ nhiều nguồn khác nhau: Liên Xô, các nước Đông Âu, Trung Quốc, Nhật Bản… Ngoài một số dây chuyền phụ tùng của Pháp, Nhật Bản mới trang bị còn hầu hết còn lại đều là dây chuyền từ những năm 50-60. Phần lớn các thiết bị này đều lạc hậu nhiều so với mức trung bình của thế giới. Đã thế trên các thiết bị lạc hậu này, tiến hành các công nghệ chắp vá nên sản phẩm làm ra không đạt tiêu chuẩn. So với Đông Âu, chí phí nguyên vật liệu sẩn xuất tại Vỉệt Nam cao hơn 1,7 lần; chí phí năng lượng cao hơn 3,6 lần, thời gian gia công cơ khí gấp 10 lần. 2.1.2. Thực trạng đổi mới công nghệ ngành cơ khí: Chuyển sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp cơ khí đều nhận thức được là muốn tồn tại và phát triển thì phải đổi mới công nghệ, thiết bị để tạo ra những sản phẩm có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Vì thế trong mấy năm vừa qua các doanh nghiệp không ngừng đầu tư đổi mới, nâng cấp máy móc thiết bị cho phù hợp với yêu cầu của sản xuất. Tuy nhiên mức đầu tư đổi mới còn quá ít, chưa tương xứng với vai trò của ngành cơ khí. Đến nay tài sản của ngành cơ khí chỉ có 300 triệu USD (bằng 40% vốn của 14 công ty liên doanh ôtô), bình quân tài sản của một xí nghiệp cơ khí không quá 1 triệu USD. Đầu tư trong mấy năm gần đây là không đáng kể, đầu tư trong 5 năm 1990-1995 là 180 tỷ VNĐ, trong khi đó đầu tư cho ngành cho ngành da giầy là trên 2.000 tỷ VNĐ. Đầu tư ít nhưng lại rất phân tán. Trong số 463 doanh nghiệp cơ khí chỉ có 40 doanh nghiệp có tài sản trên 4 triệu USD. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành cơ khí cũng rất khó khăn: tính đến cuối năm 1996 có đến 127 dự án với tổng vốn đầu tư là 1.885 triệu USD, nhưng hơn 50% là thuộc ngành lắp ráp ôtô, xe máy và các hàng tiêu dùng khác, số còn lại đầu tư cho sản xuất tư liệu sản xuất khác, công nghệ hiện đại còn rất ít. Cơ cấu đầu tư trong tổng đầu tư công nghiệp của một số ngành cơ khí chế tạo (1996-1998) như sau: sản xuất máy móc thiết bị là 1,2%, ngành sản xuất kim loại là 1,8%, sản xuất tivi, thiết bị điện, điện tử, pin, acquy là 0,7%…ta thấy rằng tỷ lệ vốn đầu tư cho các ngành cơ khí chế tạo là rất thấp đầu tư tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp như ngành công nghiệp chế biến (chiếm 42%), công nghiệp điện, ga, nước (chiếm 53,3%). Hầu hết các công nghệ chính đưa vào Việt nam đều đã qua sử dụng và thuộc thế hệ lạc hậu, không đồng bộ (95% là thiết bị lẻ) và không có chuyển giao công nghệ. Hệ số đổi mới thiết bị chỉ đạt 6-7%, bằng mức tối thiểu của các nước khác. Hầu hết các công nghệ chế tạo cơ khí cơ bản: Công nghệ chế tạo trục chính, vitme đai ốc, bánh răng hộp số, nhiệt luyện… gần như là nguyên trạng từ những năm 70. Thực tiễn đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp công nghiệp cho thấy ngành cơ khí còn tỏ ra khá lúng túng do còn một số vấn đề chưa thông suốt. Trong những năm 60 chúng ta coi cơ khí là then chốt trong sự nghiệp công nghiệp hoá- quan điểm này đúng về nguyên tắc và lâu dài. Nhưng trong lúc nền kinh tế chưa phát triển, nguồn vốn có hạn, thì chưa thể phát triển ngành cơ khí đúng với vai trò của nó. Hơn nữa trong điều kiện ít vốn chúng ta lại phát triển ngành cơ khí theo chiều rộng, phân tán và còn mang tính hình thức. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đáng lẽ phải có chủ trương, chính sách phát triển phù hợp thì chúng ta lại thả nổi ngành cơ khí, để các doanh nghiệp tự bươn chải trong cơ chế thị trường. Kết quả là đã qua nhiều năm xây dựng nhưng ngành cơ khí Việt nam vẫn quá nhỏ bé, không thể đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và khả năng cạnh tranh với hàng cơ khí nước ngoài là rất thấp. Hiện nay ngành cơ khí mới có khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước được 9%, và năm 1995 phải nhập khẩu 3 tỷUSD sản phẩm cơ khí. 2.2. Ngành dệt may: 2.2.1. Thực trạng công nghệ của ngành dệt may: -Về thực trạng thiết bị và công nghệ kéo sợi: Đến năm 1996, cả nước có 800.124 cọc sợi, 3.520 roto tại 13 công ty nhà nước, công suất toàn bộ là: 62.447 tấn trong đó thiết bị cũ chiếm tỷ trọng lớn. Trình độ tự động thấp, sản phẩm có trình độ thấp hơn so với trình độ thế giới. Công nghệ kéo sợi thô chiếm phần lớn, sẩn xuất các loại chỉ số thấp. Công nghệ kéo sợi pha PE không vượt quá 10% sản lượng. Tuy nay được cải thiện song tỷ lệ này không cao, chất lượng còn thấp. -Về thực trạng công nghệ may: Trước năm 90, thiết bị may được nhập từ nhiều nguồn, ban đầu là các máy đạp chân, rồi máy may Liên Xô. Sau năm 90, ngành may đã đầu tư thông qua việc tiếp nhận thiết bị và công nghệ mới tiên tiến, trở thành ngành xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, năng lực sản xuất đã đạt gần 300 triệu tấn/năm, số máy may công nghệ gần 70.000 chiếc. Có thể nói ở các công đoạn chuẩn bị sản xuất, thiết kế, cắt, may, đóng gói công nghệ khá phát triển. -Về thực trạng công nghệ dệt kim: ngành này tuy còn khá mới mẻ nhưng là ngành đầy triển vọng trong tương lai. Hiện nay các xí nghiệp quốc doanh đã chuyển hết cho ngành công nghiệp ngoài quốc doanh hay bị thanh lý. Số thiết bị mới hiện đại được nhập từ Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quôc (157 máy dệt kim tròn, 167 máy dệt cổ áo, 67 máy dệt bít tất) có năng suất và chất lượng sản phẩm cao. 2.2.2. Thực trạng đổi mới công nghệ ngành dệt may: Theo số liệu thống kê trong 5 năm (1991-1996) Tổng công ty Dệt-May đã đầu tư 1.485 tỷ VNĐ trong đó đầu tư cho dệt là 1.218 tỷ VNĐ và đầu tư cho may là 267 tỷ VNĐ, bao gồm vốn vay nước ngoài là 419,318 tỷ VNĐ (chiếm 28%), vốn vay trong nước là 691,363 tỷ VNĐ (chiếm 47%), các nguồn vốn tự huy động khác là 340,555 tỷ VNĐ (chiếm 22%), vốn ngân sách cấp là 33,365 tỷ VNĐ (chiếm 3%). Mức độ đầu tư và hiệu quả đạt được ở các doanh nghiệp dệt là khác nhau, có thể phân thành 3 mức độ: Loại thứ nhất: Các doanh nghiệp tích cực đầu tư và đầu tư có hiệu quả tốt như công ty Dệt Hà Nội, công ty Dệt Nha Trang, nhà máy Dệt Thành Công… Các công ty này đã chọn hướng đầu tư đúng, tìm được hình thức hướng đi thích hợp vừa đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm, vừa đầu tư mở rộng, đầu tư mới, từng bước hiện đại hoá. Loại thứ hai: Các công ty, nhà máy tích cực đầu tư mới, mở rộng sản xuất, đầu tư chiều sâu nhưng đầu tư không có hiệu quả, mất khả năng trả nợ, đứng trước nguy cơ phá sản như công ty dệt Nam Định, công ty Len Biên Hoà… Loại thứ ba: Các công ty, nhà máy suốt những năm vừa qua còn đang lúng túng chưa tìm được hướng đi lâu dài nên hầu như không có đầu tư, tình trạng rất khó khăn, phải thu hẹp sản xuất như công ty đay Trà Lý, Công ty dệt vải công nghiệp len Hải Phòng… Trong ngành may, tất cả các doanh nghiệp và tổng công ty đều đổi mới 100% thiết bị, đồng thời đầu tư mở rộng sản xuất, hình thành nên nhiều cơ sở sản xuất dưới hình thức các xí nghiệp thành viên, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp vệ tinh. Các công ty điển hình như là: Công ty may Việt Tiến, Công ty may10, Công ty may Đức Giang, Công ty may Hải Phòng…Ngành dệt may đã đầu tư thêm 121.222 cọc sợi, năng lực dệt được đầu tư thêm 1.087 máy, năng lực may được bổ sung 29.527 máy trong đó có nhiều máy móc thiết bị hiện đại của các nước Châu Âu, Nhật Bản có năng suất. Việc đổi mới thiết bị trong ngành may có nhiều thuận lợi hơn trong ngành dệt. Trước hết vốn đầu tư cho thiết bị may là không lớn, khoảng 1 triệu USD là có thể trang bị đủ một dây chuyền may xuất khẩu. hơn nữa thị trường hàng may đang được mở rộng. Đầu tư phát triển ngành may trở thành một ngành xuất khẩu quan trọng là một bước đi hợp lý và là một hướng mở rộng cho ngành dệt phát triển. Tình hình đổi mới công nghệ của ngành dệt may có thể đánh giá khái quát như sau: + Về thiết bị: Nhìn chung các công ty dệt-may đã có những bước chuyển mình về đổi mới công nghệ và thiết bị sản xuất. Thiết bị, máy móc của các doanh nghiệp đã được đổi mới và hiện đại hoá một bước đáng kể. Tỷ lệ thiết bị trung bình đạt 43,5%. Các doanh nghiệp có tỷ lệ thiết bị cao như Công ty Dệt len Vĩnh Thịnh ( Tp Hồ Chí Minh): 80%; Công ty Dệt Thành Công (Tp Hồ Chí Minh): 59%; Công ty May10 (Hà Nội): 63%. Tuy nhiên do hạn chế về tài chính nên phần lớn máy móc thiết bị nhập mới chỉ là những máy thông dụng nhất, rất ít máy chuyên dụng. Máy móc và cung dệt may phần lớn chỉ tương đương thế hệ những năm 70-80 của thế giới. Máy và công nghệ hiện đại điều khiển theo chương trình tự động còn ít. Một mặt do trình độ chế tác của các thiết bị còn chênh lệch giữa các doanh nghiệp trong ngành, giữa các doanh nghiệp quốc doanh trung ương và địa phương nên khả năng liên kết, hợp tác sản xuất kém, chất lượng sản phẩm khó đạt mức ổn định. Thiết bị đổi mới không đồng bộ, nhất là các thiết bị phù trợ (60-70% là thiết bị cũ, nhiều chủng loại). + Về con người: Cán bộ, công nhân viên của các doanh nghiệp có khả năng vận hành, tiếp thu mới công nghệ nhanh, khoảng 50% doanh nghiệp có thể làm chủ các dự án đổi mới công nghệ, số còn lại không có cơ sở tự đào tạo (mà phải dựa vào bên ngoài). Hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu cán bộ chuyên môn sâu và những cán bộ có năng lực quản lý. + Về thông tin: Các doanh nghiệp thiếu thông tin về thị trường công nghệ, nhất là thị trường quốc tế không có điều kiện tiếp cận thường xuyên. Việc liên kết giữa các doanh nghiệp với các cơ quan nghiên cứu, thiết kế chưa chặt chẽ trên cơ sở tổ chức và cơ chế hợp tác có hiệu quả. 2.3. Ngành chế biến mía đường: 2.3.1. Thực trạng công nghệ ngành chế biến mía đường: Từ năm 1995-1996, nước ta có 224.000 ha mía với sản lượng đạt 11 triệu tấn cây. Năm 1995 cả nước có 16 nhà máy đường đang hoạt động với công suất 16.000 tấn mía/ngày trong đó các nhà máy nhà máy Quảng Ngãi, Bình Dương, Hiệp Hoà, Lam Sơn có công suất 1000 tấn/1ngày. Nhìn chung các nhà máy này đều trong tình trạng chế biến lạc hậu, thiết bị cũ nát nên mới chỉ mới chỉ ép được 19% số lượng mía cây. Phần còn lại do xưởng thủ công tiến hành chế biến, hiệu suất thấp chỉ 18 tấn mía/ngày. Hiện nay đã xây dựng 27 nhà máy với công suất 49.000 tấn mía/một ngày, có trình độ cao. 2.3.2. Thực trạng đổi mới công nghệ ngành chế biến mía đường: Hiện nay cả nước đang có trên 40 nhà máy đường hoạt động, sản lượng đường hàng năm đạt trên 1 triệu tấn và đang dự kiến đến năm 2005 sẽ xây dựng thêm 31 nhà máy đường ở các miền đất nước. Vấn đề đặt ra với tất cả các nhà máy đường Việt nam là lựa chọn công nghệ, thiết bị chế biến nào là phù hợp. Một số nhà máy đường sau đây có thể giúp chúng ta thấy được một phần thực trạng đổi mới công nghệ ở ngành chế biến mía đường Việt nam: Nhà máy đường Việt Trì, công suất hiện nay là 500 tấn mía/ngày. Nhà máy đường Việt Trì là nhà máy đường đã hoạt động trên 30 năm, thiết bị của nhà máy chủ yếu là nhập từ Trung Quốc, ban đầu nhà máy chỉ đạt công suất 350 tấn/ngày, sau đó nhà máy đã cải tiến, nâng cấp máy móc thiết bị đưa công suất nhà máy đạt 500 tấn mía/ngày, năm 1992 nhà máy mua thêm một dây chuyền chế biến có công suất 550 tấn mía/ngày của Trung Quốc đã qua sử dụng. Nhà máy đường Hiệp Hoà, công suất 2.000 tấn mía/ngày, nhà máy cũ có công suất là 1.500 tấn mía/ngày, nay được mở rộng và nâng cấp tăng công suất nhà máy lên 2.000 tấn mía/ngày. Máy móc thiết bị chủ yếu được nhập từ Trung Quốc. Nhà máy đường Sơn Dương (Tuyên Quang) công suất 1.000 tấn mía/ngày, đã hoạt động từ 3-1997 với thiết bị lắp đặt là thiết bị mới đồng bộ của Trung Quốc được sản xuất năm 1995-1996 Nhà máy đường Quảng Ngãi công suất 1.000 tấn mía/ngày. Nhà máy được đưa vào hoạt động năm 97, dây chuyền công nghệ do các công ty của Trung Quốc cung cấp, tất cả thiết bị đồng bộ và được trang bị mới được sản xuất năm 1995-1996. Bên cạnh những nhà máy cũ được nâng cấp, đổi mới, nhiều nhà máy mới cũng được xây dựng và đưa vào hoạt động trong các năm 1996 đến nay như Nhà máy đường Sơn La, Nhà máy đường Bình Định, Nhà máy đường Nhà máy Gia Lai, Nhà máy Đắc Lắc, Nhà máy Bình Thuận…hầu hết máy móc thiết bị của các nhà máy này đều được nhập từ Trung Quốc, được trang bị mới và khá đồng bộ. Như vậy đại bộ phận thiết bị của các nhà máy đường sử dụng đều được nhập từ Trung Quốc bao gồm các dây chuyền đồng bộ hoặc các thiết bị lẻ. Thiết bị này đều được chế tạo năm 95-96, có khả năng mở rộng công suất, được cung cấp về vật tư, vật liêu phụ cho lắp ráp, vận chuyển, có chuyển giao công nghệ, đào tạo công nhân. Về giá cả thì suất đầu tư mua thiết bị trung bình khoảng 5000 USD cho một tấn mía công suất, chỉ bằng 60% so với Ôxtralia và 50% so với Tây Ban Nha. Phía Việt nam được chọn thiết bị nhập từ Trung Quốc với nhiều ưu đãi (có thể trả chậm, lãi suất tương đối thấp 5%/năm…). Nhìn chung việc lựa chọn thiết bị Trung Quốc với qui mô, công suất, mức độ cơ khí hoá, tự động hoá là thích hợp. Trình độ kỹ thuật chất lượng đạt trình độ tiên tiến. Sau thời gian chạy thử, các dây chuyền đều hoạt động tốt, cân bằng, ổn định, sản phẩm đạt tiêu chuẩn đường trắng loại I của Việt Nam và được thị trường chấp nhận. Như vậy việc nhập công nghệ từ Trung Quốc của các nhà máy đường là thích hợp và nó được xuất phát tư một số lý do sau: + Thiết bị sản xuất đạt mức trung bình thế giới, có khả năng mở rộng công suất cao hơn thiết kế là 20%-30%. + Trung Quốc là thị trường công nghệ gần với Việt nam nên khả năng tìm hiểu thông tin về thị trường này là dễ dàng hơn các thị trường khác. + Giá rẻ, lại trả chậm, lãi hợp lý phù hợp với điều kiện đang thiếu vốn ở Việt nam. + Phù hợp với quy mô vùng nguyên liệu. + Phù hợp với trình độ công nhân và cán bộ quản lý. + S ản phẩm đường tốt, phù hợp với thị trường Việt nam. 3. Những kết quả đạt được trong hoạt động đổi mới công nghệ ở nước ta trong những năm qua: Thứ nhất: Đổi mới công nghệ đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống kinh tế- xã hội: Trong thời gian qua, các doanh nghiệp công nghiệp Việt nam đã tiếp thu được những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại vào việc đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ, bước đầu nâng cao trình độ công nghệ của nhiều doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, mở rộng thị phần của hàng công nghiệp Việt nam trên thị trường trong nước và thế giới. Việc đổi mới công nghệ không những làm tăng năng lực sản xuất, mở rộng mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của hàng công nghiệp trên thị trường mà còn góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và đội ngũ công nhân phù hợp với công nghệ mới và nó còn là hình thức tạo ra nhiều công ăn việc làm mới cho xã hội, góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Chúng ta có thể xem xét một vài ngành tiêu biểu để thấy được khả năng đóng góp của đổi mới công nghệ vào đời sống kinh tế -xã hội: Ngành dệt may: Qua việc đổi mới công nghệ, lượng máy móc thiết bị, trình độ lao động được tăng lên từ đó đã tăng sản lượng sản xuất hàng năm, sản lượng sợi được tăng từ 10.000 tấn lên đến 12.000 tấn/năm. Cả năng lực dệt và năng lực may đều tăng lên. Sản lượng dệt hàng năm có thể tăng lên 50 triệu mét, sản lượng may năm 1996 tăng gấp hơn 3 lần so với năm 1990. Giá trị sản lượng của Tổng công ty Dệt May bình quân (1991-1995) tăng 11% trong đó ngành dệt tăng 7,1%, ngành may tăng 26,1%. Sau năm 1995, đã có nhiều sản phẩm đạt chất lượng xuất khẩu trong đó có nhiều mặt hàng được ưa chuộng, có uy tín cao trên thị trường thế giới như sản phẩm của nhà máy dệt Thành Công, Dệt Hà Nội, Dệt Phong Phú, May Việt Thắng, May Việt Tiến,May Nam Định…Do vậy kim ngạch xuất khẩu tăng lên: năm 1991 tổng kim ngạch xuất khẩu là 116 triệu USD, năm 1996 đạt 1.100 triệu USD. Ngành cơ khí: Nhờ có các thiết bị gia công khuôn mẫu hiện đại của Anh, Cộng hoà LB Đức, Nhật Bản cùng với sự cải cách cơ cấu tổ chức trong các doanh nghiệp, ngành cơ khí Việt nam đã chế tạo được nhiều sản phẩm chất lượng cao, phục vụ cho các ngành sản xuất phức tạp khác như các sản phẩm dùng cho chế biến dầu thô… Trình độ sản xuất chỉ đáp ứng được 9% nhu cầu trong nước, nhưng cũng đã đáp ứng được một khối lượng đáng kể các máy móc thiết bị cho một số ngành. Cụ thể ngành đã có thể đáp ứng được 60% nhu cầu máy công nghiệp trong nước, 50% máy công cụ, 25% máy loại nhẹ phục vụ cho nông nghiệp, 30% máy xây dựng và khai thác, 60% thiết bị điện, 20% phương tiện vận tải. Tỷ lệ tăng trưởng của ngành cơ khí là khá cao từ năm 1996 đến nay: Năm Ngành Tỷ lệ tăng hàng năm (%) 1996 1997 1998 1999 2000 Sản xuất máy móc thiết bị 16,0 7,3 22,5 5,5 11,2 SX thiết bị điện, điện tử 23,4 23,0 39,9 27,6 25,0 SX radio, tivi. 49,1 6,5 6,1 14,8 15,6 SX, sữa chữa xe máy. -5,8 18,5 2,4 10,7 15,6 SX, sữa chữa PTVT 4,7 -8,4 86,2 35,4 55,0 SX sản phẩm bằng kim loại 26,1 21,0 18,3 19,6 22,0 Thứ hai: Đổi mới công nghệ đã phát huy được tính chủ động sáng tạo của các doanh nghiệp: Trong mấy năm vừa qua, hoạt động đổi mới công nghệ được thực hiện với quy mô rộng lớn, trong tất cả các ngành, các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất, chế biến. Cơ chế thị trường đã thúc đẩy và tạo điều kiện cho đông đảo các doanh nghiệp chủ động đầu tư đổi mới công nghệ. Tính chủ động của các doanh nghiệp công nghiệp trong thời gian qua được phát huy trong các quyết định trên cả 3 loại vấn đề: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? Cụ thể là các doanh nghiệp quyết định hướng đầu tư. Bước cụ thể là lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất, lựa chọn công nghệ, người bán công nghệ và người chuyển giao công nghệ, lựa chọn nguồn vốn và hình thức tạo vốn, tổ chức đào tạo cán bộ, công nhân… Với tính tự chủ của mình các doanh nghiệp đã đạt được hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Trước hết là do các doanh nghiệp đã xác định được hướng đầu tư và bước đi thích hợp với điều kiện của doanh nghiệp trong quá trình xây dựng các phương án đầu tư. Nhà máy dệt Thành Công là một ví dụ của sự đầu tư đúng đắn: Đầu tiên là đầu tư nhập các thiết bị hiện đại như máy dệt, đan kim, nhuộm cao áp, máy định hình hoàn tất để nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm; tiếp đến công ty đã đầu tư mở rộng khâu may và đầu tư dây chuyền kéo sợi hiện đại giành thế chủ động về sợi chất lượng cao cho sản xuất. Công ty khoá Việt-Tiệp trong những năm bao cấp làm ăn kém hiệu quả, sản xuất đình đốn, công suất chỉ đạt 40%. Để khắc phục tình trạng này, công ty đã xác định phải cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường. Để làm được điều đó, công ty vừa phải sữa chữa, cải tiến thiết bị hiện có để nâng dần sản lượng, vừa phải xây dựng mới thêm nhiều cơ sở sản xuất, mua sắm nhiều thiết bị mới. Từ năm 1993 đến năm 1996 công ty đã nhập 15 thiết bị hiện đại (máy khoan Tiệp, máy đúc, máy đột Đài Loan, dây chuyền mạ Đài loan…), công ty đã đầu tư vào những khâu trọng yếu nhất và có tính quyết định. Kết quả là công ty đã sản xuất được những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường, chất lượng sản phẩm ổn định, giá thành sản phẩm hạ. sản lượng sản phẩm tăng nhanh và liên tục trong mấy năm qua: sản lượng sản xuất đạt 1 triệu cái năm 1994; 1,5 triệu cái năm 1995; 3 triệu cái năm 1996… Thứ hai là vấn đề lựa chọn công nghệ và chuyển giao công nghệ…Thực tế cho thấy các doanh nghiệp phải cân nhắc, lựa chọn cho câu trả lời: công nghệ mới hay công nghệ hiện có nhưng có đổi mới thiết bị? Thay đổi hoàn toàn hay chỉ bổ sung, thay thế thiết bị của từng giai đoạn công nghệ? Thiết bị mới hay thiết bị đã qua sử dụng nhưng vẫn còn tốt? Công nghệ hiện đại nhất hay công nghệ thích hợp với điều kiện doanh nghiệp? Trong điều kiện việt nam hiện nay, vấn đề đổi mới công nghệ nào là phải căn cứ vào nhu cầu thị trường, định hướng cho sản phẩm và khả năng hiện có của doanh nghiệp. Mục tiêu cuối cùng là phải có được sản phẩm chất lượng cao, giá cả có thể cạnh tranh trên thị trường. Trong ngành dệt, khâu kéo sợi và in nhuộm-hoàn tất là 2 khâu quan trọng có liên quan trực tiếp đến chất lượng vải. Công ty dệt Việt Thắng chọn mua thiết bị công nghệ cho các khâu này là công nghệ châu Âu, Nhật Bản.. còn khâu dệt chỉ cần dùng máy của Trung Quốc, Đài Loan. Công ty cao su miền Nam (Casumina), hiện nay các nhà máy đều chạy hết công suất 6.000 vỏ và 2 triệu ruột xe gắn máy phục vụ tiêu dùng trong đó 40% là xuất khẩu. Trong 30 năm qua công ty không có sự thay đổi lớn nào về công nghệ, nhưng có sự thay đổi về thiết bị máy móc, vì lý do là thiết bị thế hệ mới thường có trình độ tự động hoá cao hơn, nhiều hơn và sử dụng ít lao động hơn và có năng suất lao động cao hơn. Tuy nhiên với điều kiện doanh nghiệp cao su Việt nam việc nhập những thiết bị cũ của các nước thuộc nhóm G7 được sản xuất cách khoảng 10-20 năm tương đối phù hợp, một thiết bị này giá chỉ bằng một nửa thiết bị mới do Đài Loan sản xuất nhưng chất lượng lại không thua kém. Mặc dù thiết bị máy móc cũ nhưng công nghệ không lạc hậu, do đó các doanh nghiệp sản xuất với năng suất lớn, chất lượng sản phẩm cao. Thứ ba: Tận dụng được nhiều nguồn công nghệ, bước đầu xâm nhập vào thị trường công nghệ : Có hai hướng để công nghệ mới có thể thâm nhập vào các doanh nghiệp: Một là: Các doanh nghiệp cùng với các cơ quan nghiên cứu khoa học sáng tạo hay nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới từ những nghiên cứu nhỏ và từ nghiên cứu cơ bản. Trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp Việt nam đã phối hợp với các cơ quan nghiên cứu và triển khai thực hiện được nhiều đề tài nghiên cứu cải tiến và đưa vào áp dụng trong các doanh nghiệp, vừa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất trong nước, vừa tiết kiệm được chi phí cho chuyển giao công nghệ và có thể làm chủ công nghệ một cách nhanh chóng. Một số nghiên cứu (năm 1995-1996, theo Sở Khoa học công nghệ và Môi trường) và được triển khai ở Tp Hồ Chí Minh: + Công nghệ lọc Condensate (cặn của dầu) với công suất 1.000 tấn/ngày, giá thành thấp hơn giá nhập khẩu (tiết kiệm 22 USD/tấn). + Chế tạo thành công lò nấu thép trung tần bán dẫn, đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhưng giá thành chỉ bằng 1/3. + Nghiên cứu chế tạo thêm một số bị để đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất áo len xuất khẩu. Tiết kiệm so với thiết bị nhập là 10.000 USD. + Nghiên cứu thiết kế và chế tạo máy khoan đá 3 phương bằng khí nén thay thế máy khoan đá 1 phương, thiết bị này tiết kiệm so với thiết bị nhập khoảng 7.000 USD. Hai là: Các doanh nghiệp nhập công nghệ từ nước ngoài dưới nhiều hình thức như đầu tư 100% vốn nước ngoài, liên doanh hợp đồng hợp tác kinh doanh, mua dây chuyền công nghệ, mua lixăng hoặc cử người đi học nước ngoài. Hiện nay, khoảng 80-90% công nghệ đang sử dụng là được nhập từ nước ngoài. Nhìn chung công nghệ được nhập trong thời gian qua có trình độ cao hơn công nghệ hiện có trong nước hoặc công nghệ chúng ta chưa có. 4. Những tồn tại và nguyên nhân trong hoạt động đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp công nghiệp Việt nam: Thứ nhất: Trình độ và năng lực công nghệ nhìn chung được nâng lên ở mức độ nhất định nhưng với tốc độ còn chậm: Trong mấy năm qua, việc đổi mới công nghệ còn chậm được thực hiện trong nhiều ngành. Hệ số đổi mới chung cho toàn ngành công nghiệp chỉ đạt khoảng 810%/năm trong đó ngành cơ khí đạt mức 6-7% là rất thấp, trong khi đó các nước trong khu vực có tốc độ đổi mới công nghệ gấp đôi khoảng 15-20%. Công nghệ tiên tiên mới chỉ ở mức 20,5-28,5%, công nghệ trung bình chiếm 50%. Một số ngành công nghệ lạc hậu chiếm trên 50% như ngành công nghiệp nhựa, cao su (54%), chế biến thực phẩm (65,5%). Tình trạng này bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau đây: + Do đặc điểm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ít vốn nên các doanh nghiệp sản xuất chủ yếu nhập các thiết bị đã qua sử dụng và được sản xuất trung bình khoảng 2030 năm trước. + Khả năng tiếp nhận công nghệ của các doanh nghiệp còn thấp, việc đổi mới công nghệ buộc doanh nghiệp phải thay đổi cơ cấu tổ chức, tiến hành đào tạo nguồn nhân lực cho tiếp nhận công nghệ, điều này còn chưa được chú trọng ở Việt nam. + Các chính sách, biện pháp của nhà nước đối với các ngành, các doanh nghiệp. Nhà nước chưa kiểm tra chặt chẽ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành, của doanh nghiệp, có những máy móc thiết bị quá cũ hoặc đã lạc hậu dùng không hiệu quả hoặc có những tác hại đối với môi trường. Đối với các loại công nghệ này nhà nước phải loại bỏ và buộc các doanh nghiệp đổi mới các công nghệ khác có hiệu quả hơn. Thứ hai: Tình trạng chuyển giao công nghệ còn gặp nhiều khó khăn: Trong quá trình mở cửa hợp tác đầu tư, vấn đề chuyển giao công nghệ rất được quan tâm không chỉ ngành mà các doanh nghiệp cũng vậy. Tuy nhiên đối với nước ta yếu tố chuyển giao công nghệ còn thấp, nhiều trường hợp công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ được nhập vào nước ta gây ảnh hưởng đến năng suất lao động và môi trường sinh thái. Bên cạnh đó việc giám định công nghệ không chặt chẽ làm cho giá công nghệ nhập thường cao hơn trình độ và chất lượng của nó gây tổn thất lớn về kinh tế. Những nguyên nhân gây ra tình trạng này là: + Do sự thiếu thông tin về thị trường công nghệ. Các doanh nghiệp ít có sự hiểu biết về thị trường công nghệ làm cho việc lựa chọn công nghệ cho phù hợp với điều kiện Việt nam là rất khó khăn, việc không nắm rõ được công nghệ sản xuất khi nào, so sánh công nghệ này với công nghệ khác, của thị trường này với thị trường khác dẫn đến nhập khẩu những công nghệ lạc hậu, giá cả cao nhưng chất lượng lại kém. + Do sự thiếu chặt chẽ của các văn bản qui định về việc chuyển giao công nghệ của nhà nước. Điều này dẫn đến sự lợi dụng sơ hở này của bên chuyển giao để thực hiện chuyển giao không chính thức, còn các doanh nghiệp trong nước thì không định hướng được các thủ tục cho chuyển giao công nghệ. + Việc quản lý xuất nhập khẩu công nghệ còn thiếu chặt chẽ. Điều này đã làm cho nhiều công nghệ không đạt tiêu chuẩn hoặc lạc hậu được đưa vào nước ta. Thứ ba: Vai trò quản lý, hướng dẫn các doanh nghiệp của các cơ quan nhà nước về khoa học- công nghệ còn nhiều hạn chế: Điều này thể hiện trong các vấn đề sau: + Việc đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp chưa gắn với quy hoạch và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của nhà nước. Nhà nước chưa có văn bản cụ thể để hướng dẫn, quản lý trong việc đổi mới công nghệ, qui định cụ thể đối với các loại công nghệ được đổi mới, qui định các thông số kinh tế-kỹ thuật cho công nghệ được đổi mới. Trong các chủ trương, chính sách của nhà nước chưa có những khuyến khích đối với các doanh nghiệp trong hoạt động đổi mới công nghệ + Trong quá trình đổi mới công nghệ các doanh nghiệp còn lúng túng trước những vấn đề như lựa chọn cơ hội, lĩnh vực đầu tư; lựa chọn công nghệ, thiết bị; lựa chọn đối tác; vấn đề hợp đồng chuyển giao… các doanh nghiệp rất cần sự hướng dẫn giúp đỡ của nhà nước và các cơ quan tư vấn. Nhưng thực tế trong những năm qua vai trò này của nhà nước là rất mờ nhạt và chưa được coi trọng. + Cơ chế kiểm soát chuyển giao công nghệ chưa hiệu quả. Các qui định của nhà nước đối với đổi mới công nghệ nói chung và chuyển giao công nghệ nói riêng là chưa cụ thể và có hiệu lực thấp. Điều này làm cho công việc kiểm soát các công nghệ được nhập là rất khó khăn, do đó sẽ nhập vào những công nghệ kém chất lượng ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên và kinh tế, vì không có văn bản qui định những khoản mục về hợp đồng chuyển giao công nghệ nên các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc làm thủ tục chuyển giao, bên bán công nghệ lợi dụng sơ hở này trong khi ký hợp đồng và thực hiện những điều khoản có lợi cho họ. Khi có sự cố xảy ra không ràng buộc được trách nhiệm đối với bên giao công nghệ. Thứ tư: Chưa có mối quan hệ chặt chẽ giữa các doanh nghiệp và các cơ quan nghiên cứu khoa học, công nghệ: Trong những năm vừa qua công tác nghiên cứu và triển khai ở Việt nam đã bắt đầu phát triển, số lượng bằng phát minh sáng chế tăng lên, từ năm 1990-1997 có 698 sáng chế và giải pháp hữu ích được đăng ký tại Cục sở hữu công nghiệp (SHCN) và hơn 4.000 sáng chế của nước ngoài được lưu trữ ở Cục SHCN. Ngoài số lượng được đăng ký tại Cục SHCN, còn nhiều phát minh sáng chế chưa được đăng ký vì các nhà nghiên cứu Việt nam chưa quen với luật bản quyền hoặc do thủ tục đăng ký còn phiền hà và quá tốn kém. Hiện nay tổng số sáng chế và giải pháp hữu ích của các cá nhân và tổ chức Việt nam đang lưu trữ tại Cục SHCN là trên 15.000 bản. Nhưng lượng cầu theo thống kê được tính bằng số giấy chứng nhận đã cấp cho các đối tượng mua bán lixăng và chuyển giao sở hữu đối tượng SHCN giữa các cá nhân, tổ chức Việt nam với nhau là khoảng 100 giấy chứng nhận. Như vậy việc áp dụng những phát minh sáng chế của các doanh nghiệp ở Việt nam là quá thấp. Điều này có thể xuất phát từ một số nguyên nhân sau: + Do sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất của Việt nam chưa chịu nhiều hoặc mới bắt đầu chịu sức ép mạnh của cạnh tranh nên chưa kích thích được nhu cầu về sản phẩm sáng tạo. + Do sự thiếu thông tin về thị trường công nghệ trong nước, do đó một số trường hợp cần đến sản phẩm sáng tạo lại không biết tìm kiếm và mua ở đâu. việc thiếu thông tin về những thành quả sáng tạo còn dẫn đến tình trạng lãng phí tiền đầu tư vào nghiên cứu phát triển, một số cơ sở nghiên cứu vẫn đang đầu tư tiền và nhân lực để nghiên cứu những đề tài mà đã có kết quả nghiên cứu từ lâu. Thứ năm: Trình độ nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế: Nước ta hiện có một đội ngũ lao động trong ngành công nghiệp khá lớn, có kinh nghiệm và kỹ năng thành thạo ứng với trình độ công nghệ và tổ chức quản lý hiện tại. Nhưng trong điều kiện hiện nay khi trình độ công nghệ tăng trưởng nhanh và cơ chế thị trường ngày càng phát triển thì đội ngũ lao động lại tỏ ra còn yếu kém. Đối với cán bộ lãnh đạo thì thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý kinh tế, quản lý công nghệ, điều hành không linh hoạt, thiếu chính xác nên hiệu lực và hiệu quả kém. đối với bộ phận kĩ sư thì một bộ phận đáng kể không còn đủ kiến thức kỹ năng để thực hiện nhiệm vụ quản lý sản xuất, xử lý những vấn đề kỹ thuật công nghệ có tính phức tạp. còn đối với bộ phận công nhân bậc cao, khoảng 50% có bậc thợ cao là do làm việc lâu năm, do chính sách…nên khả năng tiếp cận với công nghệ mới là hạn chế. Nhìn chung tác phong công nghiệp, tinh thần trách nhiệm, tính kỹ luật là còn yếu. Điều này có thể xuất phát từ một số lý do sau đây: + Do cơ chế chính sách của các doanh nghiệp nước ta đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước đối với người lao động là chưa bình đẳng, chưa thực sự tuyển dụng người theo đúng nghĩa của nó, vẫn đang còn tình trạng chi phối bởi tình cảm, thậm chí còn có những tình trạng tiêu cực. Vì vậy nhiều người có năng lực vẫn chưa được sử dụng. + Chưa có sự liên kết giữa các doanh nghiệp với các trường đại học về đào tạo nguồn nhân lực. Hầu hết nguồn nhân lực đó khi về các doanh nghiệp đều phải đào tạo lại, khiến cho các doanh nghiệp phải mất thời gian và chi phí để đào tạo và mất nhiều thời gian cho việc tiếp nhận công nghệ mới. + Các doanh nghiệp còn thiếu cơ sở để đào tạo, bổ sung và nâng cao kiến thức cho đội ngũ cán bộ công nhân hiện có để có thể thích nghi với các công nghệ được đổi mới. III. Giải pháp nhằm nâng cao hiêu quả của hoạt động đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp Việt nam: 1. Các giải pháp vĩ mô: Thứ nhất: Nhà nước phải gắn chặt hoạt động đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp với các quy hoạch và chính sách phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Muốn vậy Nhà nước, ngành, địa phương cần tập trung xác định các chương trình dự án trọng điểm, các lĩnh vực cần được đầu tư, từ đó có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ để phục vụ cho các mục tiêu kinh tế-xã hội mà nhà nước đề ra. Các chính sách đó như là giảm thuế suất hoặc giảm thuế trong một số năm nào đó, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, cung cấp thông tin… Thứ hai: Nâng cao chất lượng thẩm định các dự án đổi mới công nghệ. Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Bộ KHCN&MT, Bộ Kế Hoạch Và Đầu Tư, Bộ Tài chính, các cơ quan địa phương…) cần phối hợp với nhau tổ chức đánh giá các dự án đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư. Đồng thời ban hành các văn bản qui định trình tự xây dựng và đánh giá dự án, những tiêu chuẩn cho một dự án cho mỗi lĩnh vực đầu tư nhất định. Một số văn bản qui định về thủ tục kiểm tra, đánh giá, lựa chọn công nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ giúp cho các chủ đầu tư thực hiện chuyển giao công nghệ dễ dàng hơn, từ đó các chủ đầu tư ra quyết định chuyển giao công nghệ. Thứ ba: Xây dựng đầy đủ hệ thống thông tin về thị trường công nghệ trong nước và nước ngoài. Đối với thị trường công nghệ nước ngoài Nhà nước xây dựng các cơ quan thông tin về công nghệ ở nhiều nước khác nhau, giúp cho các doanh nghiệp trong nước có nhu cầu đổi mới có thể tìm hiểu, so sánh về giá cả, chất lượng để tránh tình trạng nhập công nghệ với giá cao mà công nghệ thì lạc hậu, chất lượng kém. Đối với thị trường công nghệ trong nước, Nhà nước phải có cơ chế gắn chặt các doanh nghiệp với các cơ quan nghiên cứu và triển khai để giúp cho các doanh nghiệp có thể áp dụng các sáng chế, cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tiết kiệm được chi phí nhập khẩu từ nước ngoài. Ngày nay với sự phát triển của công nghệ thông tin toàn cầu, các thông tin về công nghệ có thể được công bố trên mạng, hoặc qua các phương tiện nghe nhìn (sách, báo, đài, tivi…). Thứ tư: Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhằm giúp cho các doanh nghiệp có thể chuyển giao công nghệ một cách dễ dàng mà đạt hiệu quả cao. Cải cách thủ tục hành chính, nhập khẩu cho nhanh gọn hơn, nhưng đồng thời tăng cường công tác kiểm tra giám sát tránh tình trạng đưa máy móc thiết bị cũ, lạc hậu vào nước ta gây thiệt hại về kinh tế và môi trường. Thứ năm: Hoàn thiện hệ thống giáo dục đào tạo trong, tạo điều kiện thuận lợi cho những người đi học ở nước ngoài về làm việc. Nước ta hiện có hơn 100 trường ĐH và THCN trong đó các trường đào tạo kỹ thuật và quản lý chiếm một tỷ lệ lớn. Tuy nhiên do chất lượng đào tạo chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tế. Do đó Nhà nước cần có những biện pháp nhằm hoàn thiện hệ thống giáo dục đào tạo sao cho phù hợp với thực tế trong nước và thế giới hiện nay. Bên cạnh đó hàng năm có một số lượng lớn những người đi học ở nước ngoài, với môi trường đào tạo tốt những người này có điều kiện tiếp thu những kiến thức mới về khoa học công nghệ. Đây là lực lượng rất cần thiết cho quá trình phát triển nền khoa học công nghệ trong nước và tiếp thu nguồn công nghệ từ bên ngoài vào nước ta. Vì thế Nhà nước cần có những chính sách cho những người này trở về trong nước làm việc. Có như vậy mới nâng cao được năng lực công nghệ trong nước và tiếp nhận thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra trên thế giới. 2. Các giải pháp vi mô (các biện pháp thuộc về doanh nghiệp): Thứ nhất: Các doanh nghiệp phải kết hợp chặt chẽ với các cơ quan bộ phận nghiên cứu khoa học. Nếu doanh nghiệp có bộ phận nghiên cứu, thiết kế, cải tiến thì phải liên tục áp dụng những phương pháp và những cải tiến mới này. Nó sẽ giúp cho doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình cụ thể là doanh nghiệp có thể hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, …Trong trường hợp khác các doanh nghiệp có thể tìm hiểu thông tin về thị trường công nghệ trong nước qua các phương tiện thông tin hoặc các cơ quan có liên quan, từ đó tìm những công nghệ hoặc những cải tiến liên quan đến lĩnh vực sản xuất của doanh nghiệp và áp dụng nó vào trong doanh nghiệp. Qua việc liên kết này có thể giúp cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ một cách nhanh chóng và nâng cao năng lực sản xuất cho doanh nghiệp. Thứ hai: Tìm hiểu những thông tin về thị trường công nghệ và về những thủ tục liên quan đến vấn đề chuyển giao công nghệ. Việc tìm hiểu thông tin về thị trường công nghệ sẽ giúp cho các doanh nghiệp biết được những thông tin về công nghệ mà doanh nghiệp đang cần như có bao nhiêu loại công nghệ như vậy, ở những nước nào, chất lượng và giá cả của loại đó ở mỗi nước như thế nào…từ đó doanh nghiệp so sánh, lựa chọn các phương án công nghệ có hiệu quả và quyết định chuyển giao. Bên cạnh đó doanh nghiệp còn phải tìm hiểu về thủ tục chuyển giao công nghệ. Từ trước đến nay các doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong việc ký hợp đồng, chuyển giao, lắp đặt…Trong nhiều hợp đồng bên chuyển giao áp đặt những điều kiện có lợi cho họ và khi có sự cố xảy ra đối với công nghệ thì không biết được trách nhiệm thuộc về ai. Vì vậy doanh nghiệp cần tìm hiểu những thông tin về thủ tục liên quan đến chuyển giao công nghệ để cho việc chuyển giao được tiến hành thuận lợi. Thứ ba: Chuẩn bị một lực lượng lao động có trình độ để tiếp nhận công nghệ mới. Khi tiến hành đổi mới công nghệ, trình độ công nghệ sẽ thay đổi và có xu thế là cao hơn trình độ công nghệ hiện tại. Do đó để làm chủ được các công nghệ mới này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lực lượng cán bộ kỹ thuật có trình độ cao hơn. Lực lượng này có thể được đào tạo tại các cơ sở đào tạo của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể mời các chuyên gia trong nước và nước ngoài về cơ sở để giảng dạy cho cán bộ công nhân viên. Các doanh nghiệp cũng có thể gửi cán bộ đi học ở các trường đào tạo. Bên cạnh đó ngay từ khi doanh nghiệp có kế hoạch đổi mới công nghệ thì có thể liên hệ với các trường ĐH hoặc các trường dạy nghề để đào tạo về ngành nghề mà doanh nghiệp đang cần. Như vậy việc chuẩn bị một lực lượng lao động có trình độ là cơ sở cho việc đổi mới công nghệ đạt hiệu quả. Thứ tư: Doanh nghiệp phải tiến hành đánh giá những nguồn lực hiện có trong và ngoài doanh nghiệp. Việc đánh giá các nguồn lực hiện có trong doanh nghiệp là làm rõ khả năng thực sự của doanh nghiệp (mặt mạnh, mặt yếu), khả năng phản ứng kịp thời, thích nghi với sự biến động của môi trường nhất là trước các nguy cơ và cơ hội. Nội dung của việc đánh giá này là về năng lực sản xuất của doanh nghiệp (tình trạng máy móc hiện tại) và về các yếu tố liên quan đến nguồn nhân lực (trình độ nghề nghiệp của công nhân, cơ cấu lao động, trình độ cán bộ lãnh đạo,…). Còn đánh giá các nguồn lực ngoài doanh nghiệp là việc đánh giá thị trường đối với sản phẩm, nguồn nguyên liệu, các đối thủ cạnh tranh…Việc đánh giá này giúp cho doanh nghiệp xem xét nên đổi mới hay mở rộng sản xuất, qui mô như thế nào cho phù hợp với thị trường và với nguồn nguyên liệu, đổi mới ở khâu nào, và chính sách đối với nguồn nhân lực ra sao…Như vậy căn cứ vào việc phân tích này, doanh nghiệp thực hiện một cách có hiệu quả hoạt động đổi mới công nghệ. Thứ năm: Doanh nghiệp phải tăng cường phối hợp với các tổ chức tài chính, tăng cường liên kết hợp tác, liên doanh với nước ngoài. Ngày nay trong điều kiện chuyên môn hoá, phân công lao động xã hội ngày càng cao, một doanh nghiệp không thể có đủ các nguồn lực để có thể thực hiện tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh mà do đó doanh nghiệp phải liên doanh liên kết, hợp tác để có thể nâng cao năng lực sản xuất của mình và sử dụng nguồn lực hiện có một cách có hiệu quả. Với điều kiện liên doanh, liên kết các doanh nghiệp có thể huy động thêm vốn hoặc liên doanh góp vốn với nước ngoài để tăng cường hoạt động đổi mới công nghệ. Kết luận Tóm lại, đổi mới công nghệ là hoạt động không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh công nghiệp. Nước ta trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đổi mới công nghệ đã góp phần đem lại những kết quả to lớn, đất nước đã có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và đời sống kinh tế xã hội được cải thiện. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế và yếu kém trong quá trình đổi mới công nghệ, chưa phát huy được tối đa vai trò của đổi mới công nghệ trong quá trình hợp tác kinh tế rộng rãi và phát triển kinh tế của đất nước. Đối với nước ta, sự yếu kém này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân trong đó có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Nền kinh tế nước ta từ một nền nông nghiệp lạc hậu, lại phải trải qua một thời kỳ dài chiến tranh nên điểm xuất phát là rất thấp. Do đó hạn chế về các nguồn lực cần thiết cho sự phát triển như nguồn vốn, nguồn nhân lực…từ đó hoạt động đổi mới công nghệ gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa một phần cũng do cơ chế chính sách của nước ta. Nước ta mới chỉ thực hiện nền kinh tế mở cửa hơn 10 năm nay và có quan hệ kinh tế thực sự với thế giới bên ngoài nên cơ chế chính sách còn chưa được hoàn thiện và chưa tạo được những điều kiện để hoạt động đổi mới công nghệ phát huy hết vai trò của nó. Vì vậy trong những năm tới nước ta phải có những biện pháp và phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đổi mới công nghệ. Những biện pháp này có ý nghĩa đối với sự phát triển các doanh nghiệp sản xuất trong đó đặc biệt là ngành công nghiệp. Theo văn kiện đại hội IX, mục tiêu của ngành công nghiệp phải đạt được là: tốc độ tăng bình quân 13%. Như vậy các biện pháp công nghệ là một trong những giải pháp nhằm đạt được phát triển kinh tế nói chung và phát triển ngành công nghiệp nói riêng. Mục lục: Lời mở đầu Nội dung I.Cơ sở lý luận: 1.Công nghệ và đổi mới công nghệ: 1.1.Công nghệ. 1.2.Đổi mới công nghệ: 1.2.1.Thực chất của đổi mới công nghệ. 1.2.2.Vai trò của đổi mới công nghệ. 1.2.3.Các giai đoạn đổi mới công nghệ. 1.2.4.Thời điểm đổi mới công nghệ. 2.Nội dung chủ yếu của đổi mới công nghệ: 2.1.Lựa chọn công nghệ thích hợp: 2.1.1.Tính tất yếu khách quan của lựa chọn công nghệ thích hợp. 2.1.2.Những căn cứ lựa chọn công nghệ thích hợp. 2.1.3.Nội dung của lựa chọn công nghệ thích hợp. 2.2.Đánh giá công nghệ: 2.2.1.Quan niệm về đánh giá công nghệ. 2.2.2.Vai trò của đánh giá công nghệ. 2.2.3.Các bước tiến hành đánh giá công nghệ. 2.3.Phân tích năng lực công nghệ: 2.3.1.Năng lực công nghệ và vai trò của việc phân tích năng lực công nghệ. 2.3.2.Phương pháp phân tích năng lực công nghệ. 2.4.Đổi mới công nghệ: 2.4.1. Đánh giá trình độ công nghệ hiện tại. 2.4.2.Các hình thức đổi mới công nghệ. 2.4.3.Yêu cầu của đổi mới công nghệ. II.Thực trạng đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp ở Việt nam: 1.Tình hình công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở Việt nam: 1.1.Tình hình công nghệ chung của nền kinh tế quốc dân. 1.2.Tình hình công nghệ trong ngành sản xuất công nghiệp ở nước ta. 2.Thực trạng công nghệ và đổi mới công nghệ ở một số ngành: 2.1.Ngành cơ khí: 2.1.1.Thực trạng công nghệ của ngành cơ khí. 2.1.2.Thực trạng đổi mới công nghệ ngành cơ khí. 2.2.Ngành dệt may: 2.2.1.Thực trạng công nghệ ngành dệt may. 2.2.2.Thực trạng đổi mới công nghệ ngành dệt may. 2.3.Ngành chế biến mía đường: 2.3.1.Thực trạng công nghệ ngành mía đường. 2.3.2.Thực trạng đổi mới công nghệ ngành mía đường. 3.Những kết quả đạt được trong hoạt động đổi mới công nghệ ở nước ta trong những năm qua: 4.Những tồn tại và nguyên nhân trong hoạt động đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp công nghiệp Việt nam: III.Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở Việt nam: 1.Các giải pháp vĩ mô: 2.Các giải pháp vi mô: Kết luận
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan