MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................3
PHẦN 1: KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH DỆT MAY VÀ TÌNH HÌNH
HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU................................................5
1.1. Khái quát về ngành dệt may..................................................................5
1.1.1 Đặc điểm cơ bản của ngành và vai trò trong nền kinh tế quốc
dân...................................................................................................5
1.1.2. ảnh hưởng của ngành đến quá trình tăng trưởng kinh tế
hướng về xuất khẩu.........................................................................6
1. 2. Tình hình hàng dệt may xuất khẩu......................................................7
1.2.1. Kim ngạch xuất khẩu......................................................................7
1.2.2. Thị trường xuất khẩu khái quát chung...........................................8
1.2.3. Đánh giá tình hình xuất khẩu dệt may những năm qua..................9
PHẦN 2. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY SANG THỊ
TRƯỜNG MỸ.............................................................................11
2.1. Thị trường hàng dệt may Mỹ.............................................................11
2.1.1. Đặc điểm thị trường hàng dệt may Mỹ........................................11
2.1.2. Đặc điểm nhập khẩu hàng dệt may của thị trường Mỹ................12
2.2. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường
Mỹ...........................................................................................................17
2.2.1. Tình hình xuất khẩu những năm gần đây.....................................17
2.2.2. Đánh giá chung tình hình thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng
dệt may vào thị trường Mỹ............................................................18
2.2.3. Những thời cơ và thách thức đặt ra đối với hàng dệt may
xuất khẩu vào thị trường Mỹ:........................................................22
PHẦN 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
HÀNG DỆT MAY VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ...........................26
3.1. Giải pháp đối với doanh nghiệp..........................................................26
3.1.1. Nâng cao khả năng cạnh tranh......................................................26
1
3.1.2. Tập trung sản xuất hướng về xuất khẩu........................................28
3.1.3. Tích cực nghiên cứu thị trường....................................................29
3.2. Các giả pháp tầm vĩ mô.......................................................................30
3.2.1. Hỗ trợ các doang nghiệp dệt may xuất khẩu vào thị trường
Mỹ.................................................................................................30
3.2.2. Tăng cường đầu tư để nâng cao chất lượng vải, đảm bảo
nguyên vật liệu thay thế và hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp
cung cấp phụ liệu, nguyên liệu may mặc trong nước....................32
3.2.3. Phát huy hơn nữa vai trò của Hiệp hội dệt may Việt Nam............32
KẾT LUẬN....................................................................................................34
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................35
2
Lời Nói Đầu
Hội nhập kinh tê quốc tế và đẩy mạnh xuất khẩu đang trở thành vấn đề
cấp bách của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta. Nhất là, khi bước sang
năm 2003- năm bản lề thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2001 -2005 và thời điểm cắt giảm thuế quan theo lộ trình hội nhập AFTA,
thực hiện bước hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 8 nêu rõ: “Đẩy mạnh
xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối
ngoại... Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập
toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và đối tác”. Như vậy, xuất khẩu được
coi là hướng chính trong kinh tế đối ngoại, được ưu tiên hàng đầu. Do đó, các
ngành có khả năng xuất khẩu được hỗ trợ rất nhiều để phát triển.
Trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam ngành dệt may chiếm một tỉ trọng
khá lớn, luôn giữ được giá trị kim ngạch xuất khẩu cao hơn cả. Vì thế trong
chiến lược phát triển công nghiệp từ nay đến năm 2010 thì ngành dệt may là
một trong mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Chính phủ xác
định rõ ngành công nghiệp dệt may giữ vị trí là ngành công nghiệp trọng điểm
trong cơ cấu ngành. Với những lợi thế riêng biệt như: thu hút nhiều lao động,
tạo công ăn việc làm, tạo nguồn hàng xuất khẩu có giá trị cao... Do đó ngành
dệt may Việt Nam hiện nay được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và phát
triển khá hiệu quả. Nó sẽ là ngành thu hút ngoại tệ góp phần tạo đà cho nền
kinh tế cất cánh.
Tuy hàng dệt may xuất khẩu nước ta đang bước những bước đi đầu khá
vững chắc và đầy triển vọng nhưng so với tiềm năng vốn có và so với vị thế
xuất khẩu của các nước trong khu vực thì Việt Nam còn cần phấn đấu rất
nhiều. Một trong những vấn đề đặt ra đối với ngành dệt may xuất khẩu hiện
nay là vấn đề tìm kiếm và phát triển thị trường. Chúng ta đã và đang xuất
khẩu sang các thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Đông Âu... nhưng Mỹ là thị
trường nhập khẩu dệt may lớn nhất thế giới thì ta chưa khai thác được triệt để
so vơí các nước trong khu vực và so với chính tiềm năng vị thế của nó. Vì thế
đề án này đã đề xuất một số giẩi pháp cho vấn đề thúc đẩy xuất khẩu dệt may
sang thị trường Mỹ trên cơ sở phân tích thời cơ và thách thức trên thị trường
này.
3
Hơn nữa, tuy chúng ta đã ký kết và đi vào thực hiện Hiệp định thương mại
Việt - Mỹ nhưng hiệu quả mang lại vẫn chưa được như mong đợi. Hiện nay
chúng ta đang xúc tiến đàm phán để đi đến ký kết một Hiệp định dêt may
song phương giữa ta và Mỹ, nhất là việc Mỹ áp dụng hạn ngạch với hàng dệt
may Việt Nam, với số lượng bao nhiêu, thời gian áp dụng... Do đó đề án này
cũng mang tính thực tiễn rất cao.
Nội dung của bài viết gồm 3 phần:
Phần 1: Khái quát về ngành dệt may và tình hình hàng dệt may xuất
khẩu.
Phần 2: Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ.
Phần 3: Các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị
trường Mỹ.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô bộ môn Kinh Tế Công Nghiệp và
đặc biệt là thạc sỹ Trần Thị Thạch Liên đã hướng dẫn để em hoàn thành bài
viết của mình.
4
Phần 1: Khái quát về ngành dệt may và tình hình hàng dệt
may xuất khẩu
1.1. Khái quát về ngành dệt may. 1
Với kinh nghiệm của các nước đã phát triển và những nước công nghiệp
mới ở Châu á, ngành dệt may đã và đang được coi là ngành mũi nhọn trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt nam từ nay đến năm 2020. Thời
kì đầu thế kỉ 20, các nước Anh, ý, Pháp, Đức, Mỹ có ngành dệt may tương đối
phát triển. Đến thập kỷ 70, ở các nước này xu hướng tiêu thụ tăng nhưng sản
xuất giảm, trong lúc đó các nước NICs, Châu á lại phát triển mạnh ngành sản
xuất này. Nhưng xu hướng những năm gần đây, sự phát triển ngành dệt may
lại đang chuyển sang các nước có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ
như Trung Quốc, Malaixia, Việt Nam. . .
1.1.1 Đặc điểm cơ bản của ngành và vai trò trong nền kinh tế quốc dân.
Công nghiệp dệt may là ngành có ý nghĩa trọng tâm trong giai đoạn
chuyển đổi của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh
tế thị trường. Dệt may là một phần cấu thành quan trọng trong chính sách
định hướng xuất khẩu của đất nước, nói một cách chung hơn, là một trong
những nỗ lực của Việt Nam để hoà nhập vào nền kinh tế quốc tế. Sự thành
công về xuất khẩu trong ngành này thường mở đường cho sự xuất hiện của
một chiến lược phát triển định hướng xuất khẩu có cơ sở rộng hơn với đặc
điểm cơ bản của ngành là thu hút nhiều lao động, chiếm hơn 1/5 lực lượng lao
động làm việc trong ngành công nghiệp chế tác của đất nước. Do đó góp phần
làm giảm tỷ lệ thất nghiệp tạo thu nhập và ổn định đời sống cho người lao
động. Mặt khác đây là ngành đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu không lớn, ít rủi ro,
thời gian thu hồi vốn nhanh và có điều kiện mở rộng thị trường sản xuất của
nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Ngành công nghiệp dệt may ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong
nền kinh tế quồc dân, vì nó không chỉ phục vụ nhu cầu thiết yếu của con
người mà còn là ngành giải quyết nhiều việc làm cho lao động xã hội, có thế
mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển và đóng góp
ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước. Như vậy ngành dệt may hiện đang
5
chiếm một vị trí khá quan trọng trong đóng góp cho xuất khẩu và nâng cao
giá trị sản lượng của toàn bộ ngành công nghiệp Việt Nam.
1.1.2. ảnh hưởng của ngành đến quá trình tăng trưởng kinh tế hướng về xuất
khẩu.
Thực chất của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu là đặt sản xuất trong
nước trong quan hệ cạnh tranh với thị trường quốc tế nhằm phát huy những
lợi thế so sánh, buộc các nhà sản xuất trong nước phải luôn luôn đổi mới công
nghệ nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm... đẩy mạnh việc tiêu thụ sản
phẩm trên thị trường thế giới và đem lại nguồn ngoại tệ cho đất nước.
Điều này thể hiện rõ ở ngành dệt may Việt Nam: xuất khẩu hàng dệt may
đã và đang là ngành xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam trong những năm đầu
thế kỷ 21. Với mức tăng trưởng cao và ổn định từ 30% đến 40%. Suốt hơn
chục năm qua, xuất khẩu hàng dệt may đã lần lượt vượt qua các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực khác. Trong giai đoạn hiện nay hàng dệt may là một trong
mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam hàng năm đem lại nguồn thu ngoai tệ
khá lớn cho đất nước, ngành này còn góp phần tích cực giải quyếtviệc làm
cho hàng triệu người lao động trên mọi miền của đất nước. Điều đó rất có ý
nghĩa trong lúc chúng ta đang thiếu vốn thừa lao động.
Với đường lối mở cửa và hội nhập vào cộng đồng thế giới nói chung và
các nước trong khu vực nói riêng, ngành dệt may phải trực tiếp tham gia hợp
tác về các lĩnh vực lao động mậu dịch, tham gia tiến hành cắt giảm thuế quan
của khu vực mậu dịch tự do ASEAN, AFTA và tham gia vào các tổ chức quốc
tế khác, ngành dệt may của chúng ta cần phải tích cực đổi mới với mức chi
phí sản xuất thấp, công nhân cần cù sáng tạo cùng với việc nâng cao chất
lượng đặc biềt là quan tâm tới thị hiếu, mẫu mốt thời trang của thế giới.
Việt Nam sẽ phát triển sản phẩm dệt may của mình trong quá trình tự do
hoá mậu dịch và thích ứng được với xu thế chuyển dịch hàng dệt may của thế
giới.
6
1. 2. Tình hình hàng dệt may xuất khẩu.
1.2.1. Kim ngạch xuất khẩu.
` Bắt đầu từ năm 1993, hàng dệt may đã giữ vị trí thứ hai chỉ sau ngành dầu
khí trong xuất khẩu, trong khi đó chỉ mới đứng thứ tư sau gạo và thuỷ sản.
Năm 1994 kim ngạch xuất khẩu đạt 554 triệu USD, chiếm khoảng 13%-14%
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 1995 vẫn giữ tỉ trọng nàynhưng
về mặt giá trị đã tăng lên mức700 triệu USD. Đến năm 2002 kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may đạt 2, 7 tỉ USD, chiếm gần 16,3% tổng kim ngạch xuất
khẩu, tăng 7,2% so với năm 2001, gấp hai lần năm 1998 và là mức tăng
trưởng cao nhất trong mười năm qua. Điều này chứng tỏ tỷ trọng xuất khẩu
hàng dệt may trong tổng xuất khẩu của Việt Nam đang ngày càng lớn. Nhất là
trong hai tháng đầu năm 2003 xuất khẩu sang Mỹ đạt 590 triệu USD, tăng
350% so với cùng kỳ và chiếm 19,2% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
trong đó kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt là 405 triệu USD. Như vậy kim
ngạch xuất khẩu của nước ta không những ngày càng tăng mà còn tăng với
tốc độ rất cao.
Bảng 1: Giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Đơn vị: Triệu USD.
Năm
Kim ngạch xuất
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
khẩu hàng dệt may
211
350
550
750
1150
1349
1351
1682
1892
2000
2700
Tổng kim ngạch
Tỷ trọng /Tổng số
xuất khẩu
2581
8,1%
2985
11,7%
4051
13,6%
5200
14,4%
7255
15,2%
8759
15,4%
9361
14,4%
11532
14,6%
14455
13,08%
15100
13,25%
16565
16,3%
Tạp chí phát triển kinh tế năm 2002.
7
1.2.2. Thị trường xuất khẩu khái quát chung.
Trong hơn mười năm qua, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước
tiến vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân
23,8%/ năm, vươn lên đứng thứ hai trong các nước về kim ngạch xuất khẩu
sau ngành dầu khí. Nếu như năm 1990, hàng dệt may Việt Nam mới chỉ có
mặt ở gần 30 nước trên thế giới thì đến nay đã hiện diện ở hầu hết các châu
lục với trên 100 nước và vùng lãnh thổ.
Trong hai năm gần đây, xuất khẩu hàng dệt may vào hai thị trường lớn
hàng đầu là Nhật và EU đều tụt giảm. Giá trị xuất khẩu hàng dệt may đi EU
năm 2002 chỉ đạt 550 triệu đô-la Mỹ, so với mức 660 triệu đô-la Mỹ của năm
2001.
Tại thị trường Nhật Bản, hàng dệt may Việt Nam xuất sang thị trường
này giảm: Ba tháng đầu năm 2003, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam đạt 850 triệu USD, tăng tới 90% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi
các doanh nghiệp Việt Nam đang tăng hết tốc lực để làm hàng xuất khẩu vào
thị trường Mỹ trước khi thị trường này áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt
may Việt Nam thì tại thị trường Nhật Bản, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam lại có chiều hướng giảm. Theo bộ Thương Mại, kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam vào nhật Bản năm 2002 giảm gần 20% so với
năm 2001 và trong 3 tháng đầu năm 2003, dấu hiệu suy giảm này vẫn đang
tiếp tục diễn ra. Theo phân tích của các chuyên gia Bộ Thương Mại, sự giảm
sút của hàng dệt may Việt Nam vào Nhật Bản nói trên có phần do kém sức
cạnh tranh với hàng Trung Quốc. Các chuyên gia Nhật Bản cũng cảnh báo xu
thế sụt giảm hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật là đáng lo ngại.
Theo đó, nếu bỏ lỡ các thị trường đang có để chạy theo thị trường mới thì lúc
quay lại sẽ không dễ dàng bởi với bất cứ thị trường nào cũng vậy, vào được
rồi mà không lo lắng, chăm chút cho sản phẩm đứng vững thì khách hàng
cũng chẳng ngần ngại mà chuyển từ việc dùng sản phẩm “made in Việt Nam”
sang dùng các sản phẩm khác, nếu là thị trương tương đối khó tính như Nhật
Bản.
Tại EU, từ năm 1995 đến năm 1999, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng
dệt may Việt Nam sang thị trường này đều tăng lên. Nhưng trong 03 năm trở
lại đây, khối lượng xuất khẩu sang thị này tăng tương đối ổn định trong tổng
giá trị lại giảm. Tuy nhiên một tin vui với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
8
trong năm 2003 là EU chấp thuận tăng hạn ngạch dệt may của Việt Nam vào
thị trường EU khoảng 50%-70%. Như vậy nước ta có thể mở rộng thị trường
EU hơn trước kia. Nhưng mặt khác nếu EU bỏ dần để tiến tới bỏ hẳn hạn
ngạch nhập khẩu hàng dệt may từ các nước WTO vào năm 2005 thì đó lại là
một bất lợi lớn đối với xuất khẩu hàng dệt may nước ta vì Việt Nam vẫn còn
chịu chế độ hạn ngạch do chưa gia nhập WTO.
Ngoài ra nước ta còn xuất khẩu dệt may sang Singapo, Đài Loan, Nga và
các nước Đông Âu.
Hiện nay Mỹ là bạn hàng lớn nhất của dệt may Việt Nam. Năm 2002
lượng hàng xuất sang thị trường này chiếm tới 1/3 hàng xuất khẩu, tương
đương 900 triệu USD. Riêng trong quý một năm 2003 Mỹ đã nhập tới 500
triệu USD trong tổng số 850 triệu USD hàng dệt may xuất khẩu của Việt
Nam. Như vậy Mỹ là thị trường giàu tiềm năng nhất. Do đó nếu biết khai thác
tốt thì thị trường này sẽ mang lại nhiều cơ hội cho ngành dệt may chúng ta và
có thể trở thành thị trường xuất khẩu chủ lực những năm tới.
1.2.3. Đánh giá tình hình xuất khẩu dệt may những năm qua.
Cho đến nay ngành dệt may Việt Nam đã đạt được thành công đáng kể.
Tăng trưởng xuất khẩu từ mức thấp đã tăng lên: từ dưới 100 triệu USD năm
1989 tăng lên 1, 3 tỷ USD năm 1997.
Theo Hiệp hội dệt may Việt Nam, hai năm trở lại đây ngành dệt may Việt
Nam đã có bước phát triển đáng kể: năng lực sản xuất sợi tăng từ 01 triệu cọc
lên 1, 5 triệu cọc. Năng lực sản xuất vải từ 40 triệu mét vuông lên 600 triệu
mét vuông. Năng lực sản xuất may công nghiệp từ 500 triệu sản phẩm lên 600
triệu sản phẩm. Xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đã tăng trưởng từ 1,
75 tỷ đồng năm 2000 lên 2, 75 tỷ đồng năm 2002 và đang hướng tới chỉ tiêu
4, 5 tỷ USD năm 2005.
Dệt may được coi là một trong các ngành có lợi thế nhất của Việt Nam bởi
nó sử dụng nhiều lao động, mang về nhiều ngoại tệ cho đất nước. Năm 2001
giá trị xuất khẩu của ngành đạt 2, 1 tỷ USD, tạo công ăn việc làm cho rất
nhiều lao động trình độ thấp. Phát triển tốt ngành dệt may đồng nghĩa với việc
hội nhập vào khu vực và thế giới một cách hiệu quả hơn bởi chính những đặc
điểm “toàn cầu” của nó. Do vậy, để phát triển một ngành có lợi thế này của
Việt Nam, đáp ứng được mục tiêu của chiến lược tăng tốc đã được chính phủ
9
phê duyệt đến năm 2005 kim ngach xuất khẩu ngành dệt may phải đạt 4-5 tỷ
USD, đến năm 2010 là 7-8 tỷ USD với tỷ lệ nội địa hoá là 75%.
Biểu 2: các chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu.
Chỉ tiêu
Sản xuất
- Vải lụa
- Dệt kim
- May mặc
Kim ngạch xuất khẩu
Sử dụng lao động
Tỷ lệ nội địa hoá
Đơn vị
2005
2010
Triệu m
1330
2000
Triệu sản phẩm
150
210
Triệu sản phẩm
780
1200
Triệu USD
5000
8000
Nghìn người
3000
4000
%
50
75
Tạp chí kinh tế và phát triển năm 2002
10
Phần 2. Tình hình xuất khẩu hàng Dệt May
sang thị trường Mỹ.
2.1. Thị trường hàng dệt may Mỹ.
Mỹ là một trong những nước có sức tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất thế
giới. Do những tác động của xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tê Mỹ, ngành may mặc của nước này đang mất dần
lợi thế so sánh. Đây là ngành sử dụng nhiều lao động, tuy nhiên từ năm 1970
tới nay lực lượng lao động trong ngành này ở Mỹ giảm 40%. Các nhà kinh tế
dự đoán ngành may gia công Mỹ sẽ không còn tồn tại trong vòng mười năm
tới. Ngành may gia công sẽ nhường chỗ cho ngành may hàng cao cấp với các
nhãn hiệu nổi tiếng và nhân công có tay nghề cao. Vì thế có thể đánh giá Mỹ
là mảnh đất lý tưởng và là thị trường đầy tiềm năng đối với các nước sản xuất
và xuất khẩu hàng Dệt -May công nghiệp trong đó có Việt Nam.
2.1.1. Đặc điểm thị trường hàng dệt may Mỹ.
Các nền kinh tế trên thế giới đều lấy Mỹ làm thị trường chủ lực bởi vì thị
trường Mỹ có tổng giá trị buôn bán lớn nhất toàn cầu, hàng nhập khẩu đa
dạng. Các doanh nghiệp có thể biết được năng lực cạnh tranh của mình thông
qua việc xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ. Qua đó tạo điều kiện thâm
nhập thuận lợi vào các thị trường khác.
Mặt khác, với diện tích khoảng 9, 4 triệu kilômet vuông và dân số
khoảng 274, 8 triệu người đã làm cho Mỹ trở thành cường quốc kinh tế số
một với sức mua lớn nhất thế giới. Mỹ cũng là nước nhập khẩu dệt may lớn
nhất thế giới, hàng năm Mỹ có nhu cầu nhập khẩu trên 60 tỷ USD dệt may.
Hơn nữa Mỹ lại là một quốc gia đa sắc tộc, đa văn hoá nên nhu cầu hàng may
mặc rất đa dạng, ta có thể khai thác lợi thế này từ đặc điểm của thị trường Mỹ.
Như vậy Mỹ là thị trường tiềm năng lớn cho mọi nhà sản xuất và xuất
khẩu dệt may thế giới cũng như đối với các doanh nghiệp dệt may nước ta.
11
2.1.2. Đặc điểm nhập khẩu hàng dệt may của thị trường Mỹ.
2.1.2.1 Quy mô nhập khẩu hàng năm.
Mỹ là thị trường xuất khẩu chính của các nước xuất khẩu sản phẩm dệt
may ở Đông á và là nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc.
Hàng năm Mỹ nhập khoảng 50 đến 60 tỷ USD hàng may mặc và hàng dệt.
Quy mô nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ ngày càng tăng.
Bảng 3: Quy mô nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ qua các năm.
Đơn vị: triệu USD
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
Sản phẩm dệt
8369
8705
9029
9973
9310
Sản phẩm may
50190
53 210
59114
67505
68655
Tổng
58559
61915
68143
77478
77965
(Nguồn: Bộ thương mại Mỹ)
2.1.2.2 Các quy định cho hàng dệt may.
Mỹ là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO), có tham gia
hiệp định đá sợi MFA nên hàng dệt may vào Mỹ phải tuân thủ theo những
nguyên tăc chung của MFA. Vì thế khi đưa hàng dệt may vào thị trường Mỹ
cần nắm được hai quy định quan trọng cho hàng dệt may là: quy định chung
của hiêp định đa sợi MFA và qui định hệ thống hạn ngạch hàng dệt may Mỹ
+ Qui định chung của Hiệp định đa sợi MFA: Hiệp đinh cho phép mỗi
thanh viên của MFA được xây dựng những thoả thuận song phương giữa nước
xuất khẩu và nước nhập khẩu hàng dệt. Các nước được đơn phương định đoạt
các biên pháp khi thấy rằng thị trường dệt của mình bị phương hại. Hiệp định
còn cho phép áp dụng hạn ngạch để hạn chế số lượng hàng dệt may nhập
khẩu vào quốc gia mình. Hạn ngạch này sẽ được xoá bỏ vào năm 2006 giữa
các nước thành viên Hiệp định đa sợi.
+ Qui định hệ thống hạn ngạch hàng dệt may Mỹ: Tính đến năm 1998,
Mỹ đã ký Hiệp định song phương với 45 nước trong đó có 37 nước là thành
viên của WTO và hiệp định này đươc xây dựng trên cơ sở thương lương với
thời hạn có hiệu lực từ 3-6 năm. Về cơ bản, mức quota nhập khẩu hàng dệt
12
may vào thị trường Mỹ sẽ được xác định dựa trên cơ sở hay khối lượng hàng
dệt đã được đưa vào thị trường Mỹ vào thời điểm đàm phán. Nếu khối lượng
hàng dệt đưa vào Mỹ đạt 100000 tá sản phẩm thì hải quan của Mỹ bắt đầu
theo dõi và khi khối lượng này đã tang lên gấp đôi thì phía Mỹ sẽ chính thức
đề nghị đàm phán để xác định hạn ngạch nhập khẩu. Như vậy, để việt Nam có
thể nhận được hạnh ngạch nhập khẩu lớn thì trong từ một đến hai năm đầu kể
tư khi Hiệp định có hiệu lực các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may
Việt Nam phải nỗ lực tối đa để đưa khối lượng hàng hoá lớn sang thị trường
này.
2.1.2.3 Chính sách thương mại cửa Mỹ đối với hàng dệt may nói chung và
hàng dệt may Việt Nam nói riêng.
Xuất khẩu vào thị trường Mỹ đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của các
doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu của Việt Nam. Mỹ là một thị trường lớn rất
“tự do” nhưng cũng được đánh giá là nhiều bất trắc nếu không nắm vững
“luật chơi”. Do đó trước khi xuất khẩu hàng sang Mỹ các doanh nghiệp phải
nghiên cứu kỹ pháp luật của Mỹ.
Về quy chế tối huệ quốc (MFN): gần như tất cả các bạn hàng buôn bán
của Mỹ đều được hưởng quy chế này. Hàng hoá đi từ tất cả các nước được
hưởng quy chế này đều chịu cùng một mức thuế. khi Mỹ giảm thuế, loại bỏ
hay có những thay đổi trong hệ thống thuế thì những sự thay đổi đó được áp
dụng đối với tất cả các nước thành viên được hưởng MFN. Các mặt hàng
nhập khẩu từ các nước chưa được hưởng MFN phải chịu mức thuế cao hơn.
Với quy định này, khi xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, doanh nghiệp Việt Nam
(khi được hưởng MFN) có thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường Mỹ nhưng
phải đối mặt với hàng hoá được xuất khẩu từ các nước khác sang thị trường
Mỹ cũng đươc hưởng những ưu đãi tương tự.
Về trị giá hải quan, Mỹ áp dụng cách thức tính giá hải quan của tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Để bảo vệ các công ty Mỹ trước các hoạt động
nhập khẩu không bình đẳng, Mỹ áp dụng hai luật thuế là luật thuế đối kháng
và luật thuế chống phá giá. Hai loại luật thuế này đòi hỏi phải áp dụng các
mức thuế bổ xung khi có tình trạng buôn bán không lành mạnh.
Luật thuế đối kháng thực thi bằng cách tăng thuế nhập khẩu để bù vào
hay để đổi lại với khoản trợ cấp của hàng hoá nước ngoài gây thiệt hại vật
13
chất cho các nhà sản xuất hàng hoá tương tự ở Mỹ. Các khoản trợ cấp chịu
thuế đối kháng chủ yếu được các chính phủ nước ngoài cung cấp trực tiếp hay
gián tiếp. Với luật thuế này, các doanh nghiệp Việt Nam khi được hưởng
những ưu đãi của chính phủ cần thận trọng khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ
vì có thể vi phạm các quy định của đạo luật này.
Luật thuế chống bán phá giá được sử dụng ở Mỹ rộng rãi hơn so với luật
thuế đối kháng. Thuế chống bán phá giá là thuế được áp dụng đối với các sản
phẩm nhập khẩu khi hàng hoá nước ngoài được xác địng là bán phá gía hàng
đã bán hoăc chắc chắn sẽ bán ở Mỹ với mức thấp hơn giá trị thị trường của
nó.
Về hệ thống hạn ngạch, Mỹ áp dụng hạn ngạch để kiểm soát về khối
lượng hàng hoá nhập khẩu trong một thời gian nhất định. Luật thương mại
Mỹ cho phép sản phẩm Mỹ đơn phương áp đặt các hạn ngạch mang tính hành
chính đối với các loại hàng dệt may. Có hai loại hạn ngach: Hạn ngạch tuyệt
đối và hạn ngạch tính theo thuế suất.
Hạn ngạch tuyệt đối là hạn ngạch hạn chế về số lượng. Vì vậy trong suốt
thời gian áp dụng hạn ngạch, chỉ một số lượng hàng hoá đã được ấn định mới
được phép nhập khẩu. Một số hạn ngạch tuyệt đối được áp dụng trên toàn thế
giới, còn một số chỉ áp dụng với một vài quốc gia nào đó. Số hàng nhập khẩu
dư lại so với hạn ngạch sẽ bị giữ lại tại một” khu ngoại thương “ để bổ xung
cho kỳ hạn ngạch sau đó hay được đưa vào kho ngoại quan, cũng có thể bị trả
về hoăc tiêu huỷ dưới sự giám sát củ nhân viên hải quan. Các Hiệp định về
hàng dệt may có quy định gia tăng các hạn ngạch theo từng thời điểm.
Hạn ngạch tính theo thuế suất áp dụng cho một số lượng hàng nhập khẩu
được quy định với một mức thuế thấp trong một thời hạn nào đó. Không có
giới hạn về số lượng hàng nhập khẩu trong suốt thời hạn này, nhưng nếu hàng
nhập khẩu vượt quá số lượng cho phép hưởng mức thuế thấp thì số hàng dư
đó sẽ phải chịu mức thuế cao hơn.
Về chế độ visa xuất khẩu, hàng dệt may cần có visa mới được vào Mỹ.
Visa này được dùng để kiểm soát hàng dệt may và sản phẩm từ hàng dệt từ
nước ngoài vào Mỹ hoặc dùng để ngăn cấm việc nhập lậu mặt hàng này vào
Mỹ. Một visa hàng dệt may có thể bao gồm hàng có hạn ngạch hoậc không có
hạn ngạch. Hàng dệt có hạn ngạch có thể cần hoặc không cần visa tuỳ thuộc
14
vào nước xuất xứ. Nếu thời gian hạn ngạch chấm dứt mà visa cho hàng dệt
may được cấp sau đó bởi chính phủ nước ngoài và hàng đã nhập vào Mỹ, lô
hàng nhập này sẽ không được giải phóng cho nhà nhập khẩu cho đến khi hạn
ngạch mới được cấp phép.
Về nguyên tắc xuất xứ và ghi nhãn hiệu sản phẩm dệt may.
Quy định về xuất xứ hàng nhập khẩu vào Mỹ: Khi xuất khẩu vạo thị
trường Mỹ, muốn được hưởng thuế suất ưu đãi theo nước xuất xứ, luật Mỹ
quy định trên sản phẩm phải ghi rõ nhãn của nước xuất xứ. Quy định này chỉ
bắt buộc đối với sản phẩm hoàn chỉnh, khi nhập vào Mỹ có thể bán thẳng cho
người tiêu dùng. Có một quy định đặc biệt là hàng hoá gốc từ Mỹ đưa sang
nước khác để sắp xếp lại, gia công thêm khi nhập khẩu vào Mỹ sẽ không phải
đóng thuế nhập khẩu. Dựa vào qui định này một số nước nhận vải cắt sẵn từ
các công ty Mỹ may thành quần áo rồi xuất khẩu trở lại cho Mỹ chỉ phải chịu
thuê nhập khẩu đối với phần phí gia công.
Quy định về nhãn mác hàng: ở Mỹ có hai bộ luật quy định về nhãn mác
hàng là TFPIA và WPLA. Hai bộ luật này được áp dung cho hầu hết các sản
phẩm dệt may nhập khẩu vào Mỹ với quy định:
1. Phân biệt tỷ trọng các loại sợi trong sản phẩm. Những loại sợi nào có
tỷ trọng >5% thì phải được ghi rõ tỷ trọng từng loại và đề là “otherfiber”ở
cuối, các loại sợi có tỷ trọng <= 5% sẽ được đề là “other fibers”.
2. Tên của nhà sản xuất hoăc số hiệu đăng ký tại FTC cho những thành
viên tham gia phân phối và buôn bán sản phẩm. Thương hiệu phải được đăng
ký tại cơ quan sáng chế Mỹ.
3. Quy định ghi tên quốc gia sản xuất hay gia công sản phẩm được quy
định trong điều luật về chứng thực sản phẩm dệt TPIA. Đối với những lô hàng
nhâp vào Mỹ có giá trị từ 500USD trở lên phải tuân thủ những điều kiện sau:
Liệt kê tên các loai sợi cấu thành sản phẩm ; tỷ trọng các loại sợi cấu thành;
tên quốc gia đăng ký theo FTC hoặc theo mục 3 của TFPIA ; tên của quốc gia
sản xuất hoặc gia công sản phẩm đó.
15
Như vậy, để nhanh chóng tiêp cận thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Viêt
Nam không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, đảm bảo sản phẩm có
sức cạnh tranh về chât lượng cũng như giá cả mà còn phải có sự hiểu biết về
pháp luật Mỹ, các chính sách thương mại cũng như hiểu biết về phong cách
làm ăn của thương nhân Mỹ
2.1.2.4 Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
Ngày 13/7/2000, Hiệp định thương mại song phương Việt -Mỹ đã được
ký kết, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế -thương mại giữa
hai nước, kết thúc một quá trình đàm phá n lâu dài và kiên trì của cả hai bên
qua 4 năm thương lượngvới 9 vòng đàm phán.
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 10-12-2001
sẽ đem lại cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam những cơ hội và thách thức
mới. Điều đó đòi hỏi chính phủ, đặc biệt là các nhà kinh doanh Việt Nam phải
tính tới và xây dựng cho được lộ trình bước đi thích hợp để đưa hoạt động
xuất khẩu đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế gay
gắt để hàng hoá Việt Nam có được chỗ đứng xứng đáng trên thị trường đầy
tiềm năng này.
2.1.2.5 Đàm phán Hiệp định dệt may Viêt -Mỹ.
Khi hiệp định trương mại có hiệu lực, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang
Mỹ sẽ được hưởng quy chế thương mại bình thường. tuy nhiên trong hiệp
định cũng quy định rằng hàng dệt may sẽ bị hạn chế bằng kim ngạch Hiệp
định về hàng dệt may giữa Việt Nam - Mỹ, trong đó sẽ xác định các mức xuất
khẩu hàng dệt may từ Việt Nam sang Mỹ.
Khi hiệp định về hàng dệt may được ký kết thì những vấn đề cơ bản cho
việc nhập khẩu hàng dệt may vào Mỹ cần tuân theo là: Tuân thủ các quy định
về hạn ngạch và visa, nộp các bản kê khai về xuất sứ hàng hoá, các quy định
về nhãn hàng hoá... Các sản phẩm nhập khẩu không đáp ứng được các quy
định của chính phủ sẽ bị giữ lại và có thể bị phạt hoặc bị tịch thu. Ngoài việc
phải tuân theo các quy định trên người xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ còn
phải tìm hiểu và tuân theo các hạn chế của Mỹ về nhập khẩu hàng dệt may.
16
Điều quan trọng là Việt Nam không thể không bàn sâu để ký hiệp định vì
phía Mỹ có thể đơn phương áp đặt hạn ngạch bất kỳ lúc nào theo yêu cầu của
giới sản xuất dệt may Mỹ vì Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO.
2.2. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ.
2.2.1. Tình hình xuất khẩu những năm gần đây.
2.2.1.1 Tình hình xuất khẩu trước khi ký Hiệp định thương mại Việt -Mỹ.
Trước khi ký kết hiệp định thương mại Việt -Mỹ hàng Dệt -May của Việt
Nam chịu mức thuế thông thường, có nghĩa là từ 48%-90% đối với một số sản
phẩm.
Bảng2: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ xuất khẩu hang dệt may của Việt Nam
sang Mỹ (1996-2000)
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Kim ngạch xuất khẩu
19740
20000
26343
34700
49570
(Tr USD)
Tốc độ tăng trưởng
39,90
9,70
1,97
31,44
7,95
xuất khẩu (%)
Tạp chí kinh tế và phát triển
Qua bảng trên ta thấy: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
sang thị trường Mỹ tăng dần lên qua các năm. Tuy nhiên với quy mô rất
khiêm tốn so với các nước cùng khu vực và có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
không ổn định qua các năm.
2.2.1.2 Tình hình xuất khẩu sau khi Hiệp định thương mại Việt -Mỹ có hiệu
lực.
Ngay sau khi Hiệp định thương mại Việt -Mỹ có hiệu lực, hàng Việt
Nam có cơ hội rất lớn trong việc tiếp cận thị trường Mỹ. Nhất là đối với hàng
dệt may: Tỷ trọng của hàng dệt may Việt Nam trong tổng hàng dệt may nhập
khẩu của Mỹ đã tăng lên trong những tháng đầu năm 2002. Các mặt hàng dệt
may xuất khẩu sang Mỹ cũng đa dạng hơn so với trước đây. Vào tháng
1/2001, Việt Nam mới chỉ có khảng 17 chủng loại có số kim ngạch xuất khẩu
17
đáng kể. Nhưng đến tháng 7/2002 đã có đến 42 chủng loại khác nhau xuất
khẩu vào Mỹ. Đồng thời tỷ trọng của hàng dệt may trong tổng xuất khẩu của
Việt Nam sang Mỹ tăng lên rõ rệt. Năm 2001, hàng dệt may chỉ chiếm 4,7%
tổng xuất khẩu của Việt Nam thì đến tháng 7/2002 đã lên đến 24,2%, chỉ đứng
sau nhóm hàng hải sản, vượt qua các nhóm hàng truyền thống là khoáng sản
và giày dép. Mặc dù đã có sự đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, nhưng tỷ trọng
hàng dệt may tập trung chủ yếu vào các loại quần áo dệt kim và đệt thoi. Các
tỷ trọng khác chiếm tỷ trọng không lớn.
Như vậy, sau một năm Hiệp định thương mại Việt -Mỹ có hiệu lực, các
doanh nghiệp dệt may đã xuất khẩu sang Mỹ 975 triệu USD trong tổng số 2,
75 tỷ kim ngạch xuất khẩu năm 2002. Tính đến hết quý 1/2003, kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đã đạt 850 triệu USD, tăng 90% so với
cùng kỳ năm trước. Trong đó kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ đạt
hơn 500 triệu USD, tăng gấp 20 lần so với cùng kỳ 2002. Dự kiến trong năm
2003, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ đạt 1, 4 tỷ USD, trong tổng
số 3, 2 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu dự kiến trong năm 2003. Mỹ đã thực sự
trở thành thị trường lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam, vượt qua các thị
trường truyền thống như EU, Nhật Bản.
Điều đó khẳng định khi một cơ chế “nhập cuộc’’mang tính khuyến khích
và công bằng được mở ra và thực hiện thì các doanh nghiệp Việt Nam thuộc
mọi thành phần kinh tế sẽ chứng minh được năng lực “chơi”và giành thắng
lợi trên thị trường thế giới.
2.2.2. Đánh giá chung tình hình thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
vào thị trường Mỹ.
2.2.2.1. Thuận lợi.
Mỹ là thị trường đầy tiềm năng với sức mua lớn và đa dạng về các sản
phẩm dệt may. Châu á là khu vực xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất sang thị
trường Mỹ với tổng giá trị xuất khẩu năm 1999 là 30, 8 tỷ USD chiếm 55%
tổng chi phí nhập khẩu của Mỹ cho các mặt hàng này. Có thể nói yếu tố quan
trọng nhất giúp cho hành may mặc của các nước đang phát triển thiết lập và
củng cố vị trí vững chắc của họ trên thị trường Mỹ là nhờ lợi thế chi phí nhân
công thấp. Nước ta cũng không nằm ngoài thuần lợi này.
18
Ngành công nghiệp dệt may Việt Nam có lợi thế tương đối về nguồn nhân
công dồi dào và mức lương tương đối thấp so với các nước trong khu vực.
Tính đến nay dân số Việt Nam khoảng 80, 3 triệu người trong đó người trong
độ tổi lao động lớn. Hàng năm tốc độ phát triển dân số bình quân từ 1,85-2%,
với tốc độ này theo các chuyên gia thì đến năm 2005 dân số Việt Nam khoảng
87, 6 triệu người. Như vậy, nguồn lao động của Việt Nam ngày càng tăng.
Mặt khác, bên cạnh lực lượng lao động dồi dào chi phí cho lao động của
Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, giá sản
phẩm các mặt hàng dệt may của Việt Nam tương đối thấp so với các nước.
Ví dụ: nếu so với các nước Đông Nam á thì giá công may của Việt Nam
thấp từ 2 đến 48 lần và nếu so với Đức là 25,86 USD/h Nhật Bản là 19,2
USD/h Mỹ là 16,73 USD/h thì giá công may của Việt nam là từ 0,16-0,19
USD/h, thấp từ 100-150lần.
Để giảm tối đa chi phí cho dệt may xuất khẩu, tạo mọi điều kiện cho sản
phẩm dệt may cạnh tranh trên thị trường thế giới, chính sách thuế suất nhập
khẩu nước ta đã có nhiều ưu đãi cho ngành dệt may nh ư: áp dụng mức thuế
suất 0% đối với sản phẩm dệt may xuất khẩu. Thuế giá trị gia tăng cũng áp
dụng thuế suất 0%. Miễn thuế đối với vật tư nguyên liệu nhập khẩu để gia
công hàng cho nước ngoài. Không áp đặt giá tính thuế tối thiểu để xác định
giá tính thuế nhập khẩu đối với vật tư nguyên liệu sản xuất hàng dệt may thuế
suất đối với nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ ngành dệt may hầu hết là
0%, vật tư nguyên liệu của hàng dệt may có thuế suất thấp từ 0%-10%.
2.2.2.2. Khó khăn.
Trong nhứng năm gần đây, công nghiệp dệt may Viêt Nam đã có bước
tăng trưởng đáng kể. Ngành sử dụng nhiều lao động, giải quyết việc làm, có
đóng góp lớn vào xuất khẩu, tạo điều kiện ổn định cán cân thu chi ngoại tệ
theo hướng có tích luỹ. Thành công đó đạt được là nhờ những thuận lợi mà
ngành có, nếu phát huy cao độ tiềm năng và lợi thế so sánh về xuất khẩu
ngành công nghiệp dệt may Việt Nam có thể tăng trưởng nhanh hơn nhiều.
Bên cạnh những thuận lợi trên các doanh nghiêp dệt may còn găp rất nhiều
khó khăn khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Thứ nhất: dệt và sản xuất phụ liệu chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu của
ngành may xuất khẩu.
19
Theo hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) nguồn vốn đầu tư trong và
ngoài nước đổ vào ngành sợi, dệt đã đưa năng lực sản xuất của ngành này
tăng vọt.
Tuy nhiên quy mô của ngành sợi, dệt trong mấy năm qua tuy tăng nhanh
nhưng vẫn chưa theo kịp nhu cầu của ngành may. Ông Lê Quốc Ân, chủ tịch
hiệp hội cho biết các nhà máy dệt, sợi trong nước hiện đã chạy hết công suất
nhưng mới đáp ứng được khoảng một nửa nhu cầu vải của thị trường. Riêng
lĩnh vực may xuất khẩu, tỉ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước chỉ khoảng
25-30%. Hiện ngành trồng bông vải trong nước chỉ đáp ứng khoảng 11% nhu
cầu bông thiên nhiên của ngành kéo sợi, còn xơ tổng hợp phải nhập khẩu toàn
bộ.
Thứ hai: về thuế xuất. Hiện nay đã có trên 100 quốc gia được hưởng
GSP khi xuất khẩu dệt may vào thị trường Mỹ. Những sản phẩm được miễn
thuế phải thoả mãn yêu cầu là hàng được xuất khẩu từ chính nước được
hưởng GSP và được chế biến toàn bộ sản phẩm hoặc ít nhất là trên 30% giá trị
gia tăng tại chính nước này. Trong khi đó hiện nay Việt Nam vẫn chưa được
hưởng ưu đãi GSP. Việc ưu đãi GSP chỉ được thực hiện sau khi Việt Nam đạt
được quy chế tối huệ quốc với Mỹ và thành viên của WTO và IMF.
Thứ ba: Chưa có đội ngũ thiết kế mẫu mã hợp với thị hiếu tiêu dùng trên
thế giới.
Công tác thiết kế mẫu mốt còn yếu, chưa được chú trọng mặc dù nước ta
có một đội ngũ các nhà thiết kế trẻ giầu năng lực thế nhưng mẫu mã thiết kế
chưa thật sự đi vào cuộc sống. Còn thời trang hàng ngày phần lớn lại được
sưu tầm từ các cataloguc nước ngoài, khâu thiết kế còn nhiều hạn chế, chưa
xây dựng được thương hiệu mang nét đặc trưng và đạt tầm cỡ quốc tế. Đó
cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến hàng dệt may Việt Nam dù
có ưu thế nhưng vẫn chưa thể tự chủ để phát triển và hội nhập với thương
trường quốc tế.
Mặt khác, một sản phẩm sau khi được đưa ra thị trường lại được duy trì
trên thị trường khá lâu. Chỉ khi nào thấy người tiêu dùng đã chán sản phẩm
đó, doanh nghiệp mới thôi không sản xuất nữa. Điều này có tác hại rất lớn là,
mặc dù khi doanh nghiệp phát hiện ra sự đi xuống trong chu kỳ sống của sản
phẩm thì dừng lại không sản xuất nữa nhưng thực ra trên thị trường vẫn tồn
20
- Xem thêm -