Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu vấn đề quan hệ giữa cân bằng sinh thái v...

Tài liệu Ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu vấn đề quan hệ giữa cân bằng sinh thái với tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững ở việt nam

.PDF
51
240
136

Mô tả:

Ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu vấn đề quan hệ giữa cân bằng sinh thái với tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững ở Việt nam
Ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu vấn đề quan hệ giữa cân bằng sinh thái với tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam Lời mở đầu Phát triển là quy luật của cuộc sống, là quy luật tất yếu của tiến hoá đã và đang diễn ra trên hành tinh của chúng ta từ khi nó được hình thành . Vấn đề đang được quan tâm nghiên cứu là phải phát triển như thế nào để con người của thế hệ hiện nay cũng như trong tương lai có được cuộc sống hạnh phúc về vật chất cũng như về tinh thần đó là vấn đề tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững. Mối quan hệ giữa cân bằng sinh thái và tăng trưởng phát triển kinh tế bền vững là một vấn đề có tính cấp thiết liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và xuyên suốt nhiều thời đại. Quản lý môi tr−ờng, bảo vệ, cải thiện môi tr−ờng, sử dụng hợp lý các yếu tố môi tr−ờng và các điều kiện thuận lợi của môi tr−ờng nhằm phục vụ sự tồn tại và phát triển kinh tế xã hội loài ng−ời là những nội dung quan trọng trong hoạt động hiện nay và mai sau của toàn nhân loại. Ngày nay, nhiều n−ớc trên thế giới đã coi phát triển bền vững đ−ợc thể hiện tr−ớc tiên ở việc nâng cao, cải thiện chất l−ợng sống của con ng−ời theo phạm vi khả năng chịu đựng đ−ợc của các hệ sinh thái. Đó chính là mục tiêu về phát triển bền vững, chỉ thị đánh giá cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới. Một xã hội phát trển bền vững là một xã hội phát triển về mặt kinh tế với một nền môi tr−ờng trong lành và xã hội văn minh. Xã hội phát tiển bền vững dựa trên một hệ thống cấu trúc quan hệ biện chứng giữa kịnh tế - môi tr−ờng - xã hội, hệ thống này hoạt động theo các nguyên lý, các quy luật vận động của tự nhiên, kinh tế và xã hội. 1 Tăng tr−ởng kinh tế ch−a phải là phát triển kinh tế, tăng tr−ởng kinh tế đ−ợc đo bằng tốc độ, quy mô còn phát triển kinh tế bao gồm tăng tr−ởng kinh tế trong trạng thái cân đối. Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng trong t−ơng lai. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, tôi quyết định chọn đề tài này để nghiên cứu, tìm hiểu và góp phần nói lên thực trạng của vấn đề, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho vấn đề này. Với khả năng và trình độ hiện tại, và đặc biệt là những lý luận tích luỹ được từ môn kinh tế chính trị học của tôi, bản đề án này được tôi nghiên cứu dưới góc độ và quan điểm của môn kinh tế chính trị học. Do đề án này được nghiên cứu dưới góc độ và quan điểm của môn kinh tế chính trị học nên phương pháp được sử dụng để nghiên cứu,cũng giống như các lĩnh vực khác của môn kinh tế chính trị, đều là phương pháp sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá, phương pháp logic kết hợp với lịch sử… Phần I Quan hệ giữa cân bằng sinh thái với tăng trưởng và phát triển kinh tế kinh tế bền vững 1 – Thực trạng và giải pháp về cân bằng sinh thái : 1.1- Khái niệm về cân bằng sinh thái : 2 Cân bằng sinh thái hay còn gọi là cân bằng thiên nhiên tức là trạng thái các quần xã sinh vật , các hệ sinh thái ở tình trạng cân bằng khi số lượng tương đối của các cá thể , của các quần thể sinh vật vẫn giữ được ở thế ổn định tương đối. Điều đó đã làm cho tổng lượng toàn hệ có mối liên hệ ổn định. Nói ổn “ định tương đối “ là vì trong thực tế tự nhiên của toàn hệ không có sự ổn định tuyệt đối mà luôn có sự thay đổi , phát triển hoặc chết .Các cá thể sinh vật luôn luôn đáp ứng với sự tác động của các điều kiện môi trường tự nhiên như khí hậu, nhiệt độ , nước đất đai ... Một khi mà sự biến đổi của tổng hoà các quần xã sinh vật trong môi trường chưa đến mức quá lớn thì toàn bộ hệ sinh thái ở vào thế ổn định gọi là thế cân bằng . Đó không phải là thế cân bằng đứng yên mà là cân bằng động. Nghĩa là chúng có giao động nhưng không phá vỡ thế ổn định chung toàn cục ( chúng ta có thể ví dụ thô thiển giống như các vật trên hai đĩa cân, kim đĩa cân vẫn chỉ xung quanh sè 0 mà không nghiêng bên nào, nhưng không phải đứng yên hoàn toàn ). Mỗi hệ sinh thái môi trường nào đó đều còn tồn tại thì có nghĩa là còn đặc trưng bởi một sư cân bằng nhất định. Thế ổn định biểu hiện sự tương quan về số lượng các loài về chất lượng, về quá trình chuyển hoá năng lượng và thực phẩm toàn hệ... Nhưng nếu cân bằng bị phá vỡ vì một lÝ do nào đó .Cân bằng mới được thiết lập và tất nhiên cân bằng mới có thể tốt và cũng có thể không tốt cho sự tiến hoá khiến cho sự cân bằng sinh bị phá vỡ . Đó có thể là do nhiều nguyên nhân, nhưng quy tụ lại là do hai yếu tố : tự nhiên và nhân tạo. Bằng cách tiêu diệt một số loại thực vật hay động vật hoặc đưa vào hệ một hay nhiều loại sinh vật mới lạ, bằng quá trình gây ô nhiễm độc hại, bằng việc phá huỷ nơi cứ trú đã ổn định xưa nay của các loài hoặc bằng sự tăng nhanh số lượng và chất lượng một cách đột ngột của một loài nào đó trong hệ và cân 3 bằng môi trường sinh thái bị phá vỡ . Một thời gian ở Châu Phi chuột nhiều quá , người ta tìm cách diệt không còn một con nào . Tưởng là có lợi nhưng sau đó mèo cũng chết vì đói và bệnh tật. Vai trò huỷ hoại môi trường sinh thái đã và đang diễn ra rất mạnh . Bằng trí tuệ và sức lực của mình con người đã phá vỡ nhiều thế cân bằng, nhiều hệ sinh thái dẫn đến sự thay đổi môi trường rất lớn không đảo ngược được . 1.2- Các giải pháp cho việc đảm bảo cân bằng sinh thái: Mọi nghiên cứu của con người đều nhằm mục đích tối cao là bảo vệ sự sống và phát triển toàn diện của con người, sự sinh tồn và phát triển của xã hội .Với tư cách là một động vật xã hội, sự sống của con người không chỉ gắn với môi trường tự nhiên mà còn gắn bó chặt chẽ với môi trường xã hội vì chỉ có trong xã hội con người mới trở thành con người đích thực . Môi trường sống của con người phải là môi trường sống tự nhiên - xã hội . Môi trường sinh thái là môi trường có liên quan trực tiếp đến sự sống của con người và xã hội do vậy, vấn đề cân bằng sinh thái mà ngày nay con người đang tập trung nghiên cứu để tìm ra phương án tối ưu giải quyết thực chất là vấn đề mối quan hệ giữa con người , xã hội và tự nhiên . Mối quan hệ giữa con người , xã hội và tự nhiên là đối tượng nghiên cứu của một môn khoa học mới sinh thái học-xã hội . Vấn đề môi trường sinh thái mang tính toàn cầu và thời đại, trước hết là nhu cầu khách quan và tất yếu của việc nghiên cứu và giải quyết các vấn đề bảo vệ môi trường sống trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật trước đây và hiện nay là trong cuộc cách mạng khoa học công nghệ để đảm bảo sự tiếp tục phát triển và lâu dài của xã hội nhu cầu xem xét và định đoạt số phận của con người và xã hội trong những điều kiện phát triển mới ; nhu vầu nắm bắt và 4 vận dụng một cách hợp lý các quy luật tự nhiên vào hoạt động thực tiễn nhằm mang lại hiệu qủa sinh thái cao. Cần phân tích về mặt triết học các vấn đề sinh thái học hiện đại, xem xét tính tất yếu và những tiền đề cần mở rộng đối tượng nghiên cứu của sinh thái học và những phương hướng tiếp tục phát triển của nó , đặc biệt là việc nghiên cứu để nắm bắt những quy luật sinh thái học và tận dụng chúng vào hoạt động thực tiễn của con người nhằm đảm bảo những điều kiện tự nhiên cho sự tồn tại và phát triển của xã hội , ngày nay đang trở thành một vấn đề cấp thiết nhất . Trong lịch sử khoa học mối quan hệ giữa con người và tự nhiên về mặt truyền thống được quy về hoặc chỉ là sự tác động của con người lên tự nhiên hoặc là tác động của các nguồn tài nguyên thiên nhiên lên con người . Nhiệm vụ của sinh thái học hiện đại là tổng hợp các khuynh hướng cơ bản đó và làm rõ mối quan hệ ngược giữa tài nguyên và con người sự biến đổi của tự nhiên bởi tác động của con người ảnh hưởng của môi trường tự nhiên lên con người và khả năng thích nghi của con người khi môi trường biến đổi. Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường sống với tư cách môi trường dinh dưỡng của con người và sử dụng hợp lý môi trường đó với tư cách là môi trường hoạt động sản xuất của nó . Đòi hỏi thực tiễn của sinh thái học ngày nay là được nâng đến trình độ tự giác trong việc phân tích ảnh hưởng của nhân tố con người lên môi trường và sự ảnh hưởng ngược lại của tự nhiên đã được “ người hoá ” lên hoạt động sống của bản thân con người . 2.Tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững: 2.1- Khái niện tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững: Thuật ngữ về tăng trưởng kinh tế có nhiều cách định nghĩa khác nhau song có thể định nghĩa một cách khái quát nh sau : 5 Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về tổng sản phẩm xã hội và tăng thu nhập bình quân đầu người . Hiện nay các quốc gia luôn quan tâm đến sự tăng trưởng kinh tế liên tục trong một thời kì tương đối dài tức là tăng trưởng kinh tế bền vững. Tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao và ổn định trong một thời gian tương đối dài( thường là một thệ hệ từ 20-30 năm). Thuật ngữ “ Phát triển kinh tế bền vững” lần đầu tiên được sử dụng trong cuốn “ chiến lược bảo tồn thế giới “do tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới ( IUCN ) xuất bản năm 1980 với mục tiêu tổng quát là đạt được sự phát triển bền vững thông qua các nguồn tài nguyên sống. Hiện nay cũng có nhiều cách định nghĩa về nó. Song được thừa nhận và nhất trí cao nhất là cách định nghĩa của Hội đồng Thế Giới về Môi trường và Phát triển ( WEDC –World Commision on Environment and Development ) năm 1997 theo đó thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường tự nhiên và phát triển bền vững: “ Phát triển kinh tế bền vững là phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm thương tổn đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của thế hệ tương lai “. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là hai thuật ngữ khác nhau luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau . Tăng trưởng kinh tế là yếu tố cơ bản nhất của phát triển kinh tế . Nếu không có tăng trưởng kinh tế thì sẽ không có phát triển kinh tế . Phát triển kinh tế thì bao hàm trong đó có tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững hơn. Vì vậy các chuyên gia của WB cho rằng: Tăng trưởng chưa phải là phát triển, song tăng trưởng lại là một cách để có phát triển và không thể nói phát triển kinh tế mà trong đó lại không có tăng trưởng kinh tế . 2.2- Những yếu tố biện pháp để tăng trưởng kinh tế bền vững : 6 Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sư tăng trưởng kinh tế , song tăng trưởng kinh tế phụ thuộcc vào những yếu tố cơ bản nh sau : Một là vốn : Đây là yếu tố rất quan trọng trọng tăng trưởng kinh tế. Nói đến yếu tố vốn ở đây bao gồm cả tăng lượng vốn và đặc biệt là tăng hiệu quả sử dụng vốn. Hai là con người : yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững .Đó phải là con người có sức khoẻ , có trí tuệ , có tay nghề cao , có động lực và nhiệt tình lao động được tổ chức chặt chẽ. Ba là kĩ thuật và công nghệ : kỹ thuật tiên tiến , công nghệ hiện đại là nhân tố quyết định chất lượng của sự tăng trưởng kinh tế ,vì nó tạo ra năng suất lao động cao, do đó tích luỹ đầu tư lớn . Bốn là cơ cấu kinh tế : Xây dựng được cơ cấu kinh tế càng hiện đại thì tăng trưởng kinh tế càng nhanh và bền vững . Năm là thể chế chính trị và quản lý nhà nước : Thể chế chính trị càng ổn định, tiến bộ thì tăng trưởng kinh tế càng nhanh . Nhà nước càng đề ra được đường lối , chính sách phát triển kinh tế đúng đắn thì tăng trưởng kinh tế càng nhanh . Phát triển kinh tế phụ thuộc vào các yêu tố cơ bản sau: Một là lực lượng sản xuất : Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao tức công nghệ càng hiện đại và trình độ con người càng cao thì thúc đẩy kinh tế càng nhanh . Hai là quan hệ sản xuất : Quan hệ sản xuất mà phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh, bền vững và ngược lại kìm hãm sự phát tiển kinh tế . Ba là kiến trúc thượng tầng: Tuy là quan hệ phát sinh , nhưng kiến trúc có tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế, hoặc thúc đẩy sự phát 7 triển kinh tế hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế. Trong kiến trúc thượng tầng ảnh hưởng sâu sắc nhất là chính trị. 2.3- Những đe dọa của tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững hiện nay của thế giới : Suy giảm về độ lớn và chất lượng của một số loại tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa cơ bản đối với đời sống của con người như đất rừng , thuỷ sản, khoáng sản và các loại tài nguyên năng lượng .Sự suy thoái này trong các thập kỷ đầu của thế kỷ 21 có khả năng dẫn tới tình trạng thiếu thốn nghiêm trọng về lương thực cho nhân loại . Dân số thế giới đang tiệp tục tăng lên với tốc độ khoảng 1,7%, trong lúc đó tốc độ tăng trưởng của lương thực chỉ vào khoảng 1%. Nạn thiếu hụt trầm trọng về lương thực trên thế giới mà câu lạc bộ Roma đã dự báo vào năm 1970 có khả xảy ra trước hết tại các nước nghèo đông dân . Về năng lượng , trước hết là các nguồn năng lượng phi thương mại nh củi chất đốt cũng có tình trạng tương tự. Ô nhiễm môi trường sống của con người với tốc độ nhanh , phạm vi lớn hơn trước . Không khí , nước đất tại các khu đô thị và các khu công nghiệp và ngay cả ở nông thôn và vùng sản xuất nông nghiệp , vùng ven biển và đại dương ngày càng bị ô nhiễm, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và đời sống con người cũng như sự sinh tồn và phát triển của các sinh vật khác sống trên Trái đất. Các biến đổi khí hậu vì Trái đất đang nóng lên do hiện tượng nhà kính làm cho mực nước biển sẽ dâng lên, các khí CFC đang làm thủng lá chắn ozôn bảo vệ con người khỏi các tác động nguy hiểm của các bức xạ vũ trụ. Các vấn đề xã hội cấp bách : nạn nghèo đói đang lan tràn tại các nước chậm phát triển , nạn thất nghiệp như bóng ma ám ảnh cuộc sống của nhân dân , kể cả các nước phát triển nhất là sự cách biệt về thu nhập và mức sống giữa các quốc gia cũng như giữa các nhóm người khác nhau trong một nước 8 đang ngày càng mở rộng . Chiến tranh ở nhiều quy mô , nhiều hình thức , hàng ngày đang cướp đi sinh mạng của hàng vạn người , tàn phá huỷ diệt hàng nghìn đô thị , làng mạc và những tài nguyên thiên nhiên , tài sản vô giá của nhân loại . Phát triển được xem nh là phương thuốc để phòng chống các nguy cơ nói trên . Có thể nói rằng phát triển bền vững là niềm hy vọng của nhân loại đang bước vào thế kỷ 21 , ở từng quốc gia ,với những mức độ khác nhau đã có các chương trình, kế hoạch hành động nhằm bảo vệ môi trường , xúc tiến phát triển bền vững. Trên quy mô toàn thế giới các tổ chức của liên hợp quốc đã xây dựng “ Chương trình nghị sự 21 của quốc gia “. Nhiều công ước , thoả ước quốc tế nhằm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên , bảo vệ các giá trị môi trường chung của thế giới , nhằm giải quyết một cách có hiệu quả các vấn đề nêu trên đã được cộng đồng quốc tế ký kết và thực hiện. Sự bền vững của phát triển kinh tế xã hội có thể đánh giá được bằng các chỉ tiêu nhất định về kinh tế tài nguyên thiên nhiên , chất lượng môi trường và tình trạng xã hội là về kinh tế trong xã hội bền vững việc đầu tư và phát triển nói chung phải mang lại lợi nhuận nâng tổng sản phẩm trong nước. Về tài nguyên thiên : trong xã hội bền vững các tài nguyên tái tạo được phải được sử dụng trong phạm vi khôi phục được về số lượng và chất lượng , bằng các con đường tự nhiên hoặc nhân tạo . Trong xã hội bền vững tài nguyên tái tạo được phải được sử dụng một cách tiết kiệm hạn chế và được bổ xung thường xuyên bằng các tài nguyên thay thế thiên hoặc nhân tạo. Về chất lượng môi trường trong xã hội bền vững môi trường không khí nước, đất, cảnh quan liên quan đến súc khỏe của con người . 9 Những chỉ tiêu trên là những điều kiện cần và đủ để đảm bảo sự bền vững trong phát triển kinh tế. Nếu thiếu một trong các điều kiện trên thì sự phát triển sẽ dừng trước nguy cơ mất bền vững. 3-Mối quan hệ giữa cân bằng sinh thái với tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững: Tài nguyên và môi trường có vị trí đặc biệt quan trọng đối với con người và phát triển. Tạo hoỏ đó sinh ra chúng ta và hành tinh bé nhỏ để nuôi dưỡng chúng ta từ bao đời nay. Hàng ngày chúng ta sử dụng không khí, nước, thực phẩm để tồn tại và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của mình. Mỗi sự biến đổi của tự nhiên, của môi trường đều liên hệ mật thiết đến chúng ta, sự đe doạ nào đối với thiên nhiên, môi trường cũng chính là sự đe doạ đối với chúng ta. Sự ô nhiễm và suy thoái môi trường , cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên Nhìn từ góc độ phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình , tài nguyên môi trường là đầu vào của mọi nền kinh tế , mọi quá trình phát triển. Sự bất ổn của môi trường cạn kiệt các nguồn tài nguyên tất yếu sẽ dẫn đến sự suy soái của một nền văn minh của một quá trình phát triển . Mối quan hệ hữu cơ này đã được chứng minh trong quá khứ và ngày càng được thể hiện rõ hơn trong thời đại ngày nay , khi sự phát triển đang tiệm cận các giới hạn của tự nhiên . Việc mở rộng quy mô hoạt động của con người trong những năm gần đây đã gây ra những vấn đề ô nhiễm môi trường , buộc con người phải thừa nhận rằng phát triển kinh tế nhằm làm cho cuộc sống trở nên thịnh vượng hơn , nếu không được quản lý tốt có thể huỷ hoại cuộc sống của con người. Chúng ta cần thừa nhận rằng sự tồn tại của con người không thể tránh khỏi những tác động đến môi trường. Bản thân tự nhiên không phải luôn ở trạng 10 thái tĩnh mà trái lại nó luôn vận động. Chúng ta coi trọng công tác bảo tồn không có nghĩa là chúng ta xác định tình trạng lý tưởng mà tại đó con người không tác động gì đến môi trường . Điều tốt nhất mà chúng ta có thể làm là giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực do các hoạt động của chúng ta lên môi trường hiện nay còng nh trong tương lai . Phương pháp tăng trưởng và phát triển kinh tế của chúng ta hiện nay đã và đang làm suy thoái tài nguyên nghiêm trọng . Những con số thống kê gần đây cho ta một bức tranh rất đáng lo ngại về tình trạng suy thoái tài nguyên và môi trường trên phạm vi toàn cầu và ở nước ta. Đất là nguồn tài nguyên vô giá đang bị xâm hại nặng nề. Số liệu thống kê của Liên hợp quốc cho thấy cứ mỗi phút trên phạm vi toàn cầu có khoảng 10 ha đất trở thành sa mạc. Diện tích đất canh tác trên đầu người giảm từ 0,5 ha/ người xuống còn 0,2 ha/ người và dự báo trong vòng 50 năm tới chỉ còn 0,14 ha/ người. Nước là nguồn tài nguyên không thể thay thế cũng đang đứng trước nguy cơ suy thoái mạnh trên phạm vi toàn cầu , trong đó nước thải là nguyên nhân chính .Theo số liệu thống kê hàng năm có khoảng 500 tỷ m3 nước thải trong đó phần lớn là nước thải công nghiệp ) thải vào các nguồn nước tự nhiên và cứ sau 10 năm thì chỉ số này tăng gấp đôi. Khối lượng nước thải đã làm ô nhiễm hơn 40% lưu lượng nước ổn định của các dòng sông trên trái đất, ở nước ta hàng năm có hơn một tỷ m3 khối nước thải hầu hết chưa được sử lý thải ra môi trường. Rừng là chiếc nôi sinh ra loài người và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với con người cũng đang phải đối mặt với sự suy giảm nhanh về số lượng và chất lượng cùng với rừng đa dạng sinh học cũng đóng vai trò hết sức quan trọngđối với con người và thiên nhiên . Từ nhiều thập kỷ nay hoạt động của con người đã tác động mạnh tới thế giới sinh vật , được xem là 11 tương đương thậm chí là lớn hơn nhiều so với các đợt tiệt chủng lớn nhất trong thời tiền sử. Việt nam là nước có độ đa dạng sinh học đứng thứ 10 thế giới nhưng tốc độ suy giảm thì vào loại nhanh nhất. Nhiều hệ sinh thái tự nhiên bị xâm phạm, suy giảm diện tích. Tài nguyên môi trường và phát triển bền vững : Học thuyết Mác đã có quan điểm rất biện chứng về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên ,con người là một bộ phận không thể tách rời của giới tự nhiên. Chính Ănghen đã cảnh báo về “ sự trả thù của giới tự nhiên ” khi bị tổn thương. Từ khái niệm phát triển bền vững , thực chất là một sự phát triển có tính tổng hợp cho phép hai nhà môi trường học Canada là Jacobs và Sadler trình bày mối quan hệ biện chứng giữa phát triển và môi trường . + Cực môi trường : Cũng giống như sự phát triển của sinh vật , sự phát triển xã hội phải giải đáp được bài toán do môi trường đặt ra .Trong bất kỳ phương án quy hoạch phát triển nào theo hướng bền vững cũng đều phải tính toán kỹ mối tác động qua lại giữa con người và thiên nhiên sao cho sự phát triển kinh tế xã hội không làm suy thoái hoặc huỷ diệt môi trường , bảo tồn tài nguyên ngăn chặn ô nhiễm . + Cực kinh tế theo quan điểm của trường phái phát triển kinh tế bền vững , thì sinh lực kinh tế của một xã hội tuỳ thuộc vào khả năng giải quyết vấn đề về giá trị thặng dư để trao đổi và bù đắp những thiệt hại do sự phát triển kinh tế đơn thuần gây ra . Giá trị thặng dư có thể được tạo ra bằng cách nâng cao năng suất , đổi mới cộng nghệ ,…Đối với những sản phẩm được chế tạo từ nguồn gốc thiên nhiên , vấn đề chủ yếu là xét xem tài nguyên nhiên đó có khẳ năng tái tạo hay không . Nếu không thì phải tiến hành nghiên cứu và chế tạo ra các sản phẩm có khả năng thay thế . Muốn vậy , phải cộng thêm vào giá thành sản phẩm làm từ tài nguyên không tái tạo một 12 loại chi phí khác đủ để làm nghiên cứu và phát triển các sản phẩm thay thế . Trong cực này phải đảm bảo sự tăng trưởng , hiệu quả và ổn định . + Cực xã hội : Sự phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển xã hội , nghĩa là nâng cao và cải thiện chất lượng cuộc sống cho tất cả mọi người . Đó cũng là sự phát triển tự sinh do chính xã hội Êy chủ động thực hiện , chứ không phải là một sự phát triển ngoại sinh , sống nhờ hoàn toàn vào nguồn lực từ bên ngoài , muốn vậy phải giảm đói nghèo. Thường xuyên xây dựng thể chế tốt và bảo tồn di sản văn hoá dân tộc . Tổng hợp lại ta thấy: Phát triển bền vững là một sự phát triển cân đối giữa ba cực tăng trưởng kinh tế , xã hội và môi trường , không được xem nhẹ cực nào. 4- Cân bằng sinh thái với tăng trưởng kinh tế bền vững ở Trung Quốc: Quá trình tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc đã nhanh chóng nâng cao mức sống nhưng đồng thời cũng huỷ hoại môi trường . Song sự tăng trưởng trong tương lai không nên bị đánh đổi với sự chi phí ô nhiễm ngày càng tăng. Bằng các chính sách thúc đẩy thị trường, khuyến khích các giải pháp thay thế và tìm ra một khuôn khổ điều tiết phù hợp Trung Quốc có thể đạt được cả hai mục tiêu cân bằng sinh thái và tăng trưởng kinh tế . Không khí và nguồn nước ở Trung Quốc và đặc biệt là ở các khu đô thị , thuộc loại bị ô nhiễm nhất thế giới . Sự tập trung bao trùm khắp nơi của hầu hết các chất gây ô nhiễm vượt quá nhiều lần tiêu chuẩn quốc tế đã nhiều lần khiến Trung Quốc phải trá giá cao cả về nhân lực lẫn kinh tế. Có thể có tới 298.000 người được cứu sống một năm nếu như chỉ cần giảm mức ô nhiễm không khí xuống bằng mức tiêu chuẩn mà Trung Quốc đã đề ra xét về 13 tổng thể chi phí về ô nhiễm không khí và nước ở Trung Quốc ước tính chiếm 3% GDP/năm. Có hai nhân tố chính gây ra tình trạng xuống cấp môi trường ở Trung Quốc và vẫn sẽ tồn tại trong thế kỷ mới .Thứ nhất là sự phụ thuộc quá mức của Trung Quốc vào than. Hiện nay than đáp ứng 80% nhu cầu năng lượng của Trung Quốc ,biến Trung Quốc trở thành nước tiêu thụ than lớn nhất thế giới . Trữ lượng than khổng lồ cộng với sự do dự dễ hiểu của Trung Quốc trong việc dựa vào nhập dầu và khí tự nhiên sạch hơn cho thấy rằng than chắc chắn vẫn là nguồn nguồn nguyên liệu chính trong những năm tới, nhân tố thứ hai là sự bùng nổ của các đô thị ở Trung Quốc. Từ năm 1978 đến năm 1995, dân số thành thị đã tăng thêm 180 triệu người không kể 50 triệu người di dân tự do từ vùng nông thôn . Quá trình đô thị hoá nhanh chóng không chỉ đi kèm với lượng ô tô sử dụng , tăng lượng chất thải đô thị chưa được sử lý mà còn làm tăng cả tỷ lệ dân số phải chịu tình trạng ô nhiễm trầm trọng hơn ở các đô thị . Nhà nước đã nhận thức được những thách về môi trường đặt ra cho Trung Quốc trong thập kỷ trước và đã đưa khuôn khổ pháp luật toàn diện về bảo vệ môi trường . Những nỗ lực này đã đưa đến một số thành công: ví dụ nồng độ ô nhiễm lượng chất thải trên một đơn vị sản phẩm đã giảm trong vài năm gần đây. Tuy nhiên vẫn còn nhiều việc phải làm theo lời của Thủ tướng Lý Bằng: ”Chúng ta hiểu thực trạng môi trường ở nước ta rất nghiêm trọng . Nạn ô nhiễm môi trường ở các thành phố đang trở nên nghiêm trọng và lan dần sang các vùng nông thôn , quy mô của nạn huỷ hoại môi sinh đang ngày cằng tăng “ . 14 Việc phá huỷ các điều kiện môi trường: Quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và cơ khí hoá trong hai thập kỷ qua đã huỷ hoại nghiêm trọg chất lượng nước và không khí ở Trung Quốc . Hơn nữa các tập quán thâm canh trong công nghiệp cũng làm phát sinh những đe doạ mới về môi trường . Việc tháo nước ở các thửa ruộng có bón phân đã làm ô nhiễm nguồn nước và hệ thống thuỷ lợi cồng kềnh , kém hiệu quả làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu nước và làm phèn hoá những vùng đất rộng lớn . Những nỗ lực canh tác các dải thừa theo dâu bờ làm xấu thêm tình trạng xói mòn , sa mặc hoá đất và đe doạ đến các miền đồng cỏ , đất ngập nước ở Trung Quốc . Trước quá nhiều thách thức và đe doạ nh vậy , thật khó đề ra những ưu tiên vì một tương lai sạch đẹp hơn . Song trong bất kì trường hợp nào thì lợi Ých có được nhờ giảm ô nhiễm , đặc biệt đối với nguồn nước và không khí , cũng lớn hơn chi phí phải bỏ ra để làm sạch môi trường. Ô nhiễm không khí : Mặc dù hàm lượng khí thải ra hầu nh không thay đổi kể từ năm 1980 ( đây rõ ràng là một chiến công nếu tính đến số lượng than đã tằng gấp đôi ), song lượng khí sunphua đi ôxit thải ra ở Trung Quốc hiện lớn nhất thế giới . Mặc dù không có sẵn số liệu theo hệ thống nhưng riêng hàm lượng chì trong không khí cũng tăng : một thực tế gần đây cho thấy rằng hàm lượng chì trong máu của một nửa số trẻ em ở một vài nơi của Thượng Hải đã gia tăng mạnh . Có ba yếu tố gây nên tình trạng gây ra ô hiễm không khí ở các đô thị của Trung Quốc . Thứ nhất các nồi hơi công nghiệp nhỏ , kém hiệu quả chạy bằng than thường thải khí ra từ các ống khói thấp , chiếm tới 1/3 tới 1/2 lượng khí thải tầng thấp và khí sunfua đi ôxit . Thứ hai là việc dùng than thay cho sinh hoạt . Mặc dù lượng than dùng trong công nhgiệp chỉ chiếm 15% tổng lượng than dùng song nó lại chiếm tới hơn 1/3 lượng khí thải 15 cũng nh khí sunfua đi ôxit thải ra . Nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng khí trong nhà đe doạ trực tiếp đến sức khoẻ cũng nh hút thuốc lá. Thứ ba ở các thành phố lớn , số lượng tăng với tốc độ 10 %/năm . Nó làm tăng cả các khí thải khác lẫn khi sunfua đi ô xit và hiện giờ còn làm tăng hàm lượng chì trong khí quyển ở thành thị . Mối nguy này càng trầm trọng do tốc độ lái xe trung bình rất thấp và do các tiêu chuẩn về khí thải rất thấp . Do vậy mặc dù số lượnhg xe hơi ở Bắc Kinh chỉ bằng 1/10 số lượng xe hơi ở Los Angeles , song lượng khí thải từ hai thành phố này gần nh bằng nhau. Ô nhiễm không khí rất có hại cho sức khỏe .Tỷ lệ tử vong do bệnh phổi mãn tính , căn bệnh nguy hiểm gây tử vong nhiều nhất ở Trung Quốc cao hơn và điều kiện y tế kém hơn . Những nghiên cứu dịch tễ cho thấy sự chênh lệch trong hàm lượng khí thải ở Bắc Kinh và New York liên quan đến tỷ lệ tử vong ở Trung Quốc cao hơn ở New york . Nếu ô nhiễm ngoài trời được giảm xuống mức chỉ tiêu mà chính phủ Trung Quốc đặt ra thì trung bình mỗi năm có tới 178.000 ngươi được cứu sống. Nhưng chi phí do ô nhiễm không khí còn lớn hơn nhiều so với con số tổn hại về người . Ước tính có khoảng 560.000 ca nằm viện và gần 11 triệu ca cấp cứu trực tiếp do ô nhiễm không khí gánh nặng bổ xung này đè nặng lên hệ thống y tế của Trung Quốc đã làm tổn thất lượng giờ làm việc tương đương với 7,4 triệu lao động một năm . Rất nhiều nghiên cứu ở Trung Quốc và rất nhiều nơi khác cho thấy trẻ em có hàm lượng chì trong máu có nguy bị suy dinh dưỡng rối loạn chức năng và giảm chỉ số thông minh . Mưa axit là một số sản phẩm phụ nguy hại nữa của ô nhiễm không khí ở Trung Quốc . Khí sunfua đi ôxit nitơrat thải ra sẽ tạo phản ứng với nước vào trong không khí thành axit sunfuric và axit nitơric có thể rơi xuống những vùng lân cận hoặc những vùng cách xa nơi gây ô nhiễm hàng ngàn dặm . Mưa axit phá huỷ mùa màng , tàn phá những cánh rừng , phá hoại cấu 16 trúc các toà nhà và gây thiệt hại cho sức khoẻ con người . Những hậu quả này đặc biệt mghiêm trọng ở miền nam Trung Quốc, nơi hàng ngày có khối lượng lớn than và hàm lượnh sunfat cao . Một nghiên cứu của cơ quan bảo vệ môi trường Trùng Khánh cho thấy trong năm 1993 có gần 1/4 vô thu hoạch rau ở đây bị mưa axit tàn phá. Ô nhiễm nước : Chất thải công nghiệp , chất thải đô thị , nước thải ra từ các cánh đồng bón phân hoá học phân hữu cơ là nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm nước ở Trung Quốc . Theo báo cáo , lượng chất thải tăng vừa phải từ đầu những năm 1980, trong đó chất thải đô thị ngày càng tăng. Mặc dù ô nhiễm nước liên quan tới rất nhiều bệnh , nhưng ảnh hưởngcủa nó tới sức khỏe của người dân nhìn chung chưa được hạn chế bởi việc sử dụng rộng rãi nước uống sạch và các biện pháp vệ sinh . Các bệnh liên quan tới nước nói chung chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số bệnh dịch. Nhưng tình trạng ô nhiễm ngày càng trầm trọng đã làm tăng chi phí cho việc cấp nước sạch. Ví dụ tình trạng ô nhiễm do chất thải chưa qua sử lý đổ vào sông Hoàng Phố đã buộc chính quyền Thượng Hải chuyển vị trí nguồn cấp nước sạch lên thượng nguồn với chi 300 triệh USD , ở nhiều thành phố , các hộ gia đình phải đun nước sôi để uống , gây tốn kém hơn nhiều so với việc sử dụng bằng clorin . Trung Quốc là một trong những nước ô nhiễm nhất thế giới . Nếu tình hình không được cảt thiện thì tương lai môi trường ở Trung Quốc sẽ rất tối tăm. SongTrung Quốc có thể có một môi trường trong sạch hơn . Các chính sách khuyên khích nâng cao hiệu suất và bảo tồn sử dụng nguồn năng lượng kết hợp với giải pháp thay thế cho than , việc áp dụng rộng rãi những công nghệ xử lý ô nhiễm nước và không khí , việc sử dụng những phương tiện 17 giao thông công cộng thay vì ô tô riêng có thể đem lại cho Trung Quốc những cải thiện môi trường đáng kể. Có hai khía cạnh của tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục ảnh đến triển vọng môi trường ở Trung Quốc . Thứ nhất là nhu cầu năng lượng . Mặc dù mức sử dụng năng lượng tiêu dùng cho một đơn vị GDP có thể giảm so với mức rất cao hiện nay , song tổng tiêu dùng năng lượng sẽ tăng trong 25 năm tới . Do thiếu các giải pháp thay thế khả dĩ nên phần lớn nhu cầu năng lượng này vẫn sẽ được đáp ứng bằng than . Bởi vì than là nguyên nhân chính gây ô nhiễm đô thị nên đây sẽ là một thách thức lớn đối với môi trường. Thứ hai nếu theo kinh nghiệm của các nước khác và của cả Trung Quốc , thì thu nhập gia tăng sẽ đẩy nhanh quá trình đô thị hoá và việc sử dụng ô tô . Điều này sẽ tác động mạnh tới môi trường Trung Quốc trong 25 năm tới. Trước tình hình này có thể xem xét hai phương án thay thế sau: Giải pháp thứ nhất không tính tới sự thay đổi lớn trong chính sách môi trường hiện hành và việc thi hành chúng. Đây không phải là phương án hợp lý nhất . Những bước tiến của Trung Quốc trước đây trong việc vạch ra và tiến hành các cuộc cải cách chính sách môi trường đã hình thành nên một phương án mà trong đó không có bất kì một sự cải tiến nào là chắc chắn cả . Nhưng nó cũng nhấn mạnh đến chi phí rất lớn có thể phát sinh ra nếu động lực của các cuộc cải cách môi trường chững lại, theo giải pháp này cả hàm lượng năng lượng lẫn hàm lượng khí thải tính theo GDP đều sẽ giảm .Và cho dù không có những khuyến khích mới , thì tăng trưởng nhanh cũng đảm bảo rằng các công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm sẽ nhanh chóng được thay thế . Đến năm 2020 chưa đầy 10% máy công cụ hiện nay của Trung Quốc sẽ còn tiếp tục hoạt động . Tuy nhiên mặc dù hàm lượng khí thải có giảm song tổng ô nhiễm lại tăng mạnh. Do vậy lượng khí thải vào không khí sẽ tăng 18 30% gây ra những hậu quả nghiêm trọng làm giảm chất lượng không khí và gây ra mưa axit. Số người chết do ô nhiễm không khí ngoài trời sẽ tăng mạnh . Tuy nhiên những cải thiện chất lượng tư liệu sản xuất sẽ giúp làm giảm lượng chất thải gây ô nhiễm nguồn nước theo nghĩa tuyệt đối . Phương án thứ hai đề xuất việc cải cách mạnh công cuộc cải cách dần dần , nhiều chính sách có thể giúp nâng cao hiệu xuất sử dụng năng lượng và giảm lượng chất thải xuống bằng mức của Mỹ hay Châu âu vào những năm 80 . Trung Quốc có thể tăng trưởng đồng thời trở nên sạch đẹp hơn .Theo phương án” đẩy mạnh cải cách ” này lượng khí thải sẽ giảm một nửa, làm giảm tỷ lệ tử vong do ô nhiễm . Hoạch định các chính sách về một ngày mai tươi đẹp hơn : Ta đã thấy rõ những thách thức môi trường to lớn ở Trung Quốc . Hơn nữa chi phí cho chính sách môi trường rất lớn . Nhưng Trung Quốc đang là nước phát triển nghèo với vô vàn yêu cầu cấp bách đối với nguồn lực công cộng và tư nhân . Điều hoà những yêu cầu này và dành ưu tiên cho các chính sách môi trường cần phân tích cẩn thận chi phí kinh tế do việc xuống cấp môi trường gây nên. Đòi hỏi này được phản ánh trong cam kết của nhà nước về việc sẽ tăng ngân sách quốc gia cho môi trường. Trước mắt phân tích chi phí sơ bộ do môi trường gây nên có thể đưa ra lời chỉ dẫn hữu Ých cho chính sách . Những phân tích sử dụng cho bản báo cáo này cho thấy chi phí hàng năm cho môi trường là rất lớn. Chương trình hành động cho 25 năm tới dựa trên ba trụ cột chính sau : thúc đẩy các lực lượng thị trường , khuyến khích đầu tư vào công nghệ sản xuất sạch và phát triển các điều tiết hiệu quả. Thúc đẩy các thị trường: - Các lượng thị trường đã tạo nền tảng cho sợ tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc trong suốt 18 năm qua . Nếu thúc đẩy một cách đúng đắn, 19 chúng có thể trở thành một đồng minh quan trọng cho cuộc chiến vì một tương lai sạch đẹp hơn . Phụ thuộc hơn nữa vào các lực lượng thị trường đồng nghĩa với việc giá cả được sửa đổi để phản ánh chi phí xã hội đã trở thành những công cụ mạnh mẽ để thay đổi hành vi của nhà sản xuất và người tiêu dùng theo cách có lợi cho môi trường .Tuy nhiên bất chấp các cuộc cải cách gần đẩy việc định giá và đánh thuế đối với các tài nguyên thiên nhiên , các công cụ này vẫn chưa được sử dụng triệt để . Hầu hết giá cả hiện nay đã phản ánh được chi phi sản xuất nhưng chưa phản ánh được chi phí xã hội . - Ta lấy than làm ví dụ : Trong thập kỷ qua , giá than ở các vùng duyên hải đã tăng lên gần với mức giá thế giới nhưng giá Ên định không phản ánh đầy đủ sự chênh lệch về hàm lượng sunfua và bụi trong than nội địa , cho dù chi phí do ô nhiễm của than chưa rửa và than có hàm lượng sunfua cao và lớn hơn rất nhiều. Giá than ở các tỉnh sâu trong nội địa nhìn chung là thấp hơn rất nhiều nhờ chi phí vận chuyển thấp hơn mà chi phí này chiếm 70% giá than phân phối ở các vùng duyên hải .Song sự chênh lệch này còn cho thấy các tỉnh ở sâu trong nội địa Ýt có động cơ khuyến khích áp dụng các biện pháp bảo tồn hay các công nghệ làm sạch than bởi vì chúng chỉ kinh tế khi áp dụng mức giá cao hơn . Mặc dù khuyếnkhích dựa trên giá cả có thể rất hiệu quả song chúng lại không mang tính lựa chọn: chúng không thấy rằng chi phí cho việc bảo tồn và giảm ô nhiễm giữa các công ty là khác nhau . Chi phí cận biên cho việc giảm bớt khí thải ở các công ty nhỏ lớn gấp 20 lần so với ở các công ty lớn . Những mâu thuẫn này các nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của các biện pháp có chủ đích như đánh thuế đối với chất thải. Bên cạnh việc đưa ra các khuyến khích có sức thuyết phục , thuế được Ên định sao cho có thể phản 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng