Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ảnh hưởng của giáo dục gia đình tới hành vi phạm tội của trẻ vị thành niên hiện ...

Tài liệu ảnh hưởng của giáo dục gia đình tới hành vi phạm tội của trẻ vị thành niên hiện nay nghiên cứu trường hợp tại trường giáo dưỡng số 02 ninh bình luận văn ths. xã hội học

.PDF
105
663
124

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN CÙ THỊ THANH THỦY Ảnh hưởng của giáo dục gia đình tới hành vi phạm tội của trẻ vị thành niên hiện nay : nghiên cứu trường hợp tại Trường Giáo dưỡng số 02 Ninh Bình Luận văn ThS. Xã hội học Mã số :60 31 30 Nghd. : PGS.TS. Vũ Hào Quang MỤC LỤC. Trang PHẦN MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài 1–2 Mục đích – nhiệm vụ nghiên cứu 3 Đối tượng – khách thể – phạm vi nghiên cứu 3 Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết 4–5 Phương pháp nghiên cứu 6 Kết cấu luận văn 6–7 PHẦN NỘI DUNG CHÍNH CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI. 1.1: Tổng quan tình hình nghiên cứu. 8 – 11 1.2: Các khái niệm công cụ. 11 – 23 1.3: Các lý thuyết, quan điểm của các nhà Xã hội học vận dụng nghiên cứu. 23 – 31. 1.4: Quan điểm của Đảng – Nhà nước về giáo dục với trẻ em. 31 – 37 1.5: Nghiên cứu gia đình có trẻ vị thành niên phạm tội dưới góc độ văn hoá. 37 – 41 1.6: Một số nét về tình hình phạm tội và tệ nạn xã hội ở Việt Nam hiện nay. 41 – 43 1.7: Sơ lược về thực trạng trẻ vị thành niên phạm tội. 43 – 48 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC TRONG CÁC GIA ĐÌNH CÓ TRẺ VTN PHẠM TỘI. 2.1: Một số đặc điểm xã hội của địa bàn khảo sát. 49- 50 2.2: Tình hình trẻ VTN phạm tội ở trường Giáo dưỡng số 02 – Ninh Bình 50 – 53 2.3: Thực trạng công tác giáo dục trong các gia đình có trẻ VTN phạm tội 53 – 75. 2.4: Công tác giáo dục trẻ VTN phạm tội ở trường Giáo dưỡng số 02 75 – 85 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ + Kết luận: 86- 87 + Khuyến nghị: 87- 88 Danh mục tài liệu tham khảo. 89 -90 Phụ lục: Bảng hỏi. 91 -97 NHỮNG TỪ – CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN. VTN: Vị thành niên TNHS: Trách nhiệm hình sự UBDSGD &TE: Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em BVCS&GDTE: Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em BCHTW: Ban chấp hành Trung ương VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao CNH – HĐH: Công nghiệp hóa – Hiện đại hoá THCS: Trung học cơ sở PTTH: Phổ thông trung học TTĐC: Truyền thông đại chúng VPPL: Vi phạm pháp luật Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ ẢNH HƢỞNG CỦA GIÁO DỤC GIA ĐÌNH TỚI HÀNH VI PHẠM TỘI CỦA TRẺ VỊ THÀNH NIÊN HIỆN NAY. ( Nghiên cứu trƣờng hợp tại trƣờng Giáo dƣỡng số 02 – Ninh Bình) PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Trong một vài năm trở lại đây, tình trạng trẻ vị thành niên phạm tội ngày càng tăng, tính chất phạm tội ngày càng phức tạp và nghiêm trọng. Chính trong bối cảnh đất nƣớc đang nỗ lực cố gắng thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH HĐH, xây dựng đời sống nhân dân ấm no - hạnh phúc thì tình hình phạm tội của trẻ em lứa tuổi vị thành niên đã gây ra những cản trở rất lớn. Thực trạng này đã và đang đặt ra những bức xúc, lo lắng không chỉ cho riêng từng gia đình mà còn đối với toàn xã hội. Nhiều vụ án hình sự mà lực lƣợng công an khám phá gần đây cho thấy sự hiện diện của nhiều băng nhóm tuổi đời rất nhỏ nhƣng gian manh không hề thua kém ngƣời lớn. Chỉ tính riêng năm 2000, cả nƣớc có 11.538 em là vị thành niên vi phạm pháp luật (nam chiếm 97.57%) và con số này không hề giảm trong các năm 2001 - 2002. Từ năm 2000 - 2002 có tới 9.411 vị thành niên bị đƣa ra xét xử, 16.555 em bị xử lý hành chính. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên nhƣng có thể nói rằng, số trẻ vị thành niên phạm tội, hƣ hỏng là có một phần nguyên nhân từ sự giáo dục của gia đình. Gia đình đƣợc xem là tổ ấm của mỗi con ngƣời, là nơi sẻ chia tình cảm và nâng đỡ cho mỗi thành viên, gia đình có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền tảng cho sự hình thành nhân cách ở mỗi cá nhân. Nhƣng hiện nay, vấn đề giáo dục trong gia đình đã bị giảm sút. Văn hoá gia đình đang có biểu hiện xuống cấp vì những tác động xấu của đời sống xã hội. Chúng ta không phủ nhận tính tích cực của nền kinh tế thị trƣờng trong việc đem lại lợi nhuận và thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhƣng cũng phải thấy mặt trái của nó không phải là nhỏ. Những quan hệ hàng hoá, tiền bạc cũng nhƣ lối sống tính toán thực dụng đã len lỏi vào trong mối quan hệ gia đình và làm mai một những giá trị đạo đức gia đình tốt đẹp, làm giảm đáng kể nền nếp gia phong vốn đã đƣợc gìn giữ từ bao đời nay. Các bậc phụ huynh vì mải lo làm ăn mà không có nhiều 1 Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ thời gian dành để dạy bảo, giáo dục con cái hoặc vì có điều kiện nên đã quá nuông chiều các em. Các em sống trong những gia đình không hoàn thiện, không đầy đủ…nhƣ cha mẹ không có hạnh phúc, ly dị hoặc mất cha - mất mẹ…đều phải chịu những ảnh hƣởng rất lớn. Giai đoạn vị thành niên là giai đoạn có rất nhiều những biến động cả về mặt thể chất và tinh thần, chính vì vậy giáo dục gia đình đối với trẻ vị thành niên cần phải đặc biệt coi trọng. Cách giáo dục và nuôi dƣỡng sai lạc có thể đe doạ cả một đời ngƣời, làm hỏng cả một thế hệ. Giáo dục và nuôi dƣỡng đúng đắn là nền tảng của hạnh phúc lâu bền. Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài " Ảnh hƣởng của giáo dục gia đình tới hành vi phạm tội của trẻ vị thành niên hiện nay” để nghiên cứu với mục đích thông qua các kết quả nghiên cứu sẽ mô tả đƣợc những mặt ảnh hƣởng tiêu cực của giáo dục gia đình tới hành vi phạm tội của trẻ vị thành niên, từ đó đề ra một số giải pháp góp phần nâng cao hơn vai trò, vị trí cũng nhƣ tính tích cực của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ sống có ích và lành mạnh theo đúng nghĩa "Thanh niên là rƣờng cột của quốc gia". 2 Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 2.1. Mục đích nghiên cứu. Tìm hiểu mặt tác động tiêu cực của giáo dục gia đình tới những biểu hiện nhân cách lệch lạc của trẻ vị thành viên. Làm rõ nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của trẻ vị thành niên dƣới góc độ giáo dục của gia đình từ đó đƣa ra những khuyến nghị góp phần nâng cao vai trò gia đình đối với việc hình thành nhân cách cho trẻ vị thành niên trong điều kiện hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. + Tìm hiểu, làm rõ những khái niệm, cơ sở lý luận và thực tiễn, phƣơng pháp luận nghiên cứu về ảnh hƣởng của giáo dục gia đình tới hành vi phạm tội của trẻ vị thành niên. + Nhận diện thực trạng phạm tội ở trẻ vị thành niên. + Làm rõ mặt tác động tiêu cực của giáo dục gia đình đối với thực trạng trẻ vị thành niên phạm tội hiện nay. + Nghiên cứu và cung cấp những cơ sở khoa học để góp phần nâng cao vai trò của gia đình đối với việc giáo dục trẻ vị thành niên. 3. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu. 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu. Ảnh hƣởng của giáo dục gia đình tới hành vi phạm tội của trẻ vị thành niên. 3.2. Khách thể nghiên cứu. Trẻ vị thành niên phạm tội đang ở trong trƣờng giáo dƣỡng số 02 - Ninh Bình. 3.3 Phạm vi nghiên cứu. - Địa bàn khảo sát: Trƣờng giáo dƣỡng số 02- Ninh Bình. - Thời điểm: Từ tháng 7 đến tháng 9/2006. 3 Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ 4. Giả thuyết nghiên cứu và sơ đồ tƣơng quan giữa các biến. 4.1. Giả thuyết nghiên cứu. - Môi trƣờng văn hóa – xã hội bị biến đổi bởi tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trƣờng. Môi trƣờng giáo dục gia đình cũng không nằm ngoài sự tác động đó. Một bộ phận gia đình không có thời gian, điều kiện để quan tâm đến con cái, họ sao nhãng và phó thác việc nuôi dạy con cái cho các thiết chế xã hội khác, họ dần đánh mất vai trò của mình trong việc chăm sóc giáo dục con cái. Đó là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của trẻ vị thành niên. - Do hạn chế về mặt nhận thức nên một số gia đình đã không có đƣợc cách thức, phƣơng pháp giáo dục con cái một cách khoa học và những cách quan tâm đúng mức, điều này cũng gây ra những phản ứng và hành vi tiêu cực ở con cái. 4.2. Sơ đồ tƣơng quan giữa các biến. 1. Biến số độc lập. Đặc điểm gia đình.  Địa bàn cƣ trú.  Nghề nghiệp chính của bố mẹ.  Trình độ học vấn của bố mẹ.  Tình trạng hôn nhân của bố mẹ.  Mức sống (thu nhập).  Số con trong gia đình. 2. Biến phụ thuộc. Ảnh hƣởng của giáo dục gia đình tới hành vi phạm tội của trẻ vị thành niên. 3. Biến trung gian. - Môi trƣờng Kinh tế. - Môi trƣờng Văn hoá - xã hội. 4 Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ Khung lý thuyết Môi trƣờng Kinh tế - Văn hoá Xã hội Nhận thức của các gia đình Ảnh Đặc điểm gia đình hưởng của giáo dục gia - Địa bàn cư trú đình tới - Nghề nghiệp chính hành vi của bố mẹ Giáo dục nhận thức phạm tội của trẻ vị - Trình độ học vấn của bố mẹ - Tình trạng hôn nhân thành Giáo dục thái niên độ cuả bố mẹ Giáo dục - Mức sống hành - Số con trong gia đình vi 5 Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ 5. Phƣơng pháp nghiên cứu. 5.1 Phƣơng pháp luận. - Vận dụng phƣơng pháp luận Macxit cùng những quan điểm, tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nƣớc về giáo dục trẻ em. - Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống: con ngƣời là một chỉnh thể thống nhất, chịu ảnh hƣởng của nhiều yếu tố văn hóa – xã hội. Do đó, kết quả của hành vi con ngƣời cũng là tập hợp của nhiều nhân tố khác nhau, mỗi nhân tố đó đóng một vai trò khác nhau, có nhân tố trực tiếp, nhân tố gián tiếp, có nhân tố là nguyên nhân chính, có nhân tố là nguyên nhân phụ. - Vận dụng lý thuyết và tƣ tƣởng của một số nhà Xã hội học nghiên cứu về giáo dục gia đình, trẻ em. 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu. * Phương pháp định lượng. Thu thập thông tin bằng bảng Anket. Đề tài điều tra trên mẫu 150 trẻ vị thành niên ở trƣờng giáo dƣỡng số 02 – Ninh Bình theo phƣơng pháp chọn mẫu điển hình chia theo 02 cấp độ tuổi (dƣới 15 tuổi và từ 15 tuổi đến dƣới 18 tuổi). Số phiếu hợp lệ thu về là 143 phiếu. Kết quả xử lý bằng SPSS 13.0. * Phương pháp định tính. - Phỏng vấn sâu: Đề tài tiến hành 20 cuộc phỏng vấn sâu trong đó 03 cuộc đối với giáo viên trƣờng Giáo dƣỡng số 02, 10 đối với trẻ vị thành niên ở trƣờng giáo dƣỡng, 07 đối với một số gia đình có con em phạm tội đang ở trong trƣờng Giáo dƣỡng. - Quan sát: Quan sát thái độ, hành vi của trẻ vị thành niên trong trƣờng Giáo dƣỡng. Thái độ của phụ huynh khi nhận xét về con cái họ. - Phân tích - tổng hợp đối với những tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu để có đƣợc cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn, so sánh đối chiếu với những thông tin thu thập đƣợc. 6 Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ 6. Kết cấu luận văn. - Phần mở đầu. - Phần nội dung chính. Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài. 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu. 1.2. Thao tác hoá các khái niệm. 1.3. Các lý thuyết, quan điểm của các nhà xã hội học vận dụng để nghiên cứu. 1.4. Quan điểm của Đảng - Nhà nƣớc về giáo dục gia đình với trẻ em. 1.5. Nghiên cứu gia đình dƣới góc độ văn hoá. 1.6. Một số nét về tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội ở Việt Nam hiện nay. 1.7. Sơ lƣợc về thực trạng trẻ vị thành niên phạm tội. Chương 2: Thực trạng công tác giáo dục trong các gia đình có trẻ VTN phạm tội. 2.1. Một số đặc điểm xã hội của địa bàn nghiên cứu. 2.1. Tình hình trẻ vị thành niên phạm tội ở trƣờng Giáo dƣỡng số 02 – Ninh Bình. 2.2. Thực trạng công tác giáo dục trong các gia đình có trẻ VTN phạm tội. 2.3. Công tác giáo dục trẻ vị thành niên phạm tội ở trƣờng Giáo dƣỡng số 02. - Kết luận và khuyến nghị. + Kết luận. + Khuyến nghị. 7 Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ PHẦN NỘI DUNG CHÍNH CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu. Giáo dục trong gia đình là một mảng đề tài đƣợc nhiều nhà nghiên cứu khai thác từ trƣớc đến nay. Thứ nhất, xin đề cập đến một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề giáo dục trong gia đình. Viết về những ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo trong giáo dục gia đình, tác phẩm " Nho giáo và gia đình" của Giáo sƣ Vũ Khiêu (1995) đã mô tả đƣợc những mặt tích cực và tiêu cực của Nho Giáo trong cách giáo dục các thành viên, hình thành nhân cách cho con trẻ. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến văn hoá trong gia đình. Công trình nghiên cứu " Gia đình và giáo dục gia đình" ( Trần Đình Hƣợu) cho thấy tầm quan trọng của gia đình trong việc giáo dục con ngƣời, nhất là với trẻ em. Gia đình chính là nơi nuôi dƣỡng và để lại những ấn tƣợng sâu đậm nhất trong cuộc đời mỗi ngƣời. Tác giả Đặng Cảnh Khanh với nghiên cứu về " Vai trò của gia đình trong việc giáo dục các giá trị truyền thống cho thanh thiếu niên" đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của gia đình đối với việc giáo dục các giá trị truyền thống. Trong đó tác giả cũng đã chỉ ra sự biến đổi những chuẩn mực gia đình dƣới sự biến đổi của nền kinh tế thị trƣờng hiện nay. Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu " Giáo dục gia đình với trẻ em phạm pháp" (Phạm Thanh Vân ), " Mục tiêu giáo dục của gia đình thành phố" của Lê Quang Thƣởng, "Giáo dục luật pháp trong gia đình" của Lê Thị Quý... Những tài liệu trên đƣợc xem là dữ liệu vô cùng quý báu giúp ta có đƣợc những cơ sở bƣớc đầu trong việc so sánh, đối chiếu và tổng hợp. Thứ hai, xin nêu một số khảo cứu, một số đề tài khoa học Xã hội học về giáo dục gia đình đối với thanh thiếu niên. 8 Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ Theo nghiên cứu của Trần Bạch Đằng về " Thay đổi môi trƣờng nhân văn trong đô thị hoá Việt Nam hiện nay" cho thấy: tỷ lệ phạm tội ở thanh thiếu niên rất cao và cơ cấu chủ yếu là ở đô thị. Nguyên nhân của tình trạng này là do gia đình, hoặc là bỏ mặc hoặc là quá nuông chiều các em. Giáo dục gia đình đƣợc xem là một quá trình lâu dài và liên tục, trong thời kỳ chuyển đổi giai đoạn lứa tuổi, con cái rất cần sự uốn nắn của cha mẹ. Cũng theo nghiên cứu 104 đối tƣợng nghiện ma tuý ở tuổi thanh thiếu niên của thạc sỹ Phan Mai Hƣơng về " Địa vị gia đình của thanh niên nghiện ma tuý" thấy rằng sự thiếu trách nhiệm trong quản lý, quan tâm và thông cảm của cha mẹ là nguyên nhân làm cho con cái họ ngày càng xa tổ ấm gia đình. Cuốn sách " Tình hình ngƣời chƣa thành niên ở Hà Nội sử dụng trái phép ma tuý và nghiện ma tuý. Công tác phòng chống ( 1996 - 1998)" ( NXB Bộ Công An) dành một phần nói về công tác phòng chống của gia đình. Phần viết này cho rằng chức năng giáo dục của gia đình đối với trẻ em là chức năng không thể thay thế, nhƣng những thay đổi trong đời sống gia đình hiện nay đã làm cho chức năng này bị xem nhẹ . Gia đình chính là điểm tựa cho các em nhƣng đối với một bộ phận trẻ em thì vai trò của những "điểm tựa" này không còn chắc chắn nữa. Tác giả đi đến kết luận: việc ngăn chặn các tệ nạn xã hội, làm lành mạnh đời sống xã hội phải xuất phát từ phía gia đình, điều này đòi hỏi ý thức trách nhiệm của các bậc cha mẹ. Nghiên cứu về giáo dục thanh niên và trẻ em trong các gia đình, PGS – TS Vũ Hào Quang có tác phẩm “ Định hƣớng giá trị của sinh viên – con em cán bộ khoa học” NXB Đại học Quốc gia và bài viết “ Quan hệ giữa lối sống và cấu trúc của nhóm trẻ em lang thang”. Trong những nghiên cứu này tác giả đã nêu rõ gia đình là một bình diện không thể thay thế đƣợc trong việc hình thành nhân cách con ngƣời. Sự chăm sóc, quan tâm của gia đình làm cho đời sống tinh thần nâng cao. Sự nghèo hoá cuộc sống tình cảm, thiếu hụt sự chăm sóc của gia đình sẽ dẫn đến tổn thƣơng về mặt tinh thần cho con trẻ. Luận án tiến sĩ " Vai trò của gia đình đối với việc giáo dục trẻ em hƣ ở thành phố ( Qua nghiên cứu ở thành phố Hà nội ) của tác giả Nguyễn Đức Mạnh 9 Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ đã tập trung làm rõ những nguyên nhân từ giáo dục gia đình dẫn đến các thói hƣ tật xấu của trẻ em. Các gia đình ở thành phố bị cơn lốc của nền kinh tế thị trƣờng cuốn hút, họ không có điều kiện để quan tâm đến các con, tự đánh mất những giá trị đích thực của gia đình, một bộ phận dân cƣ không bắt kịp với những tiến bộ thời đại, không tiếp biến các giá trị văn hoá mới vào gia đình nên đã kìm hãm sự phát triển của trẻ em, tạo ức chế và dẫn đến phản ứng - hành vi tiêu cực không phù hợp với chuẩn mực xã hội. Trong cuốn tài liệu nghiên cứu về " Công tác xã hội với trẻ em làm trái pháp luật " (Trần Đức Châm - UBDSGĐ &TEVN - 2004) đã chỉ ra thực trạng đáng báo động về tội phạm chƣa thành niên, tỉ lệ này có xu hƣớng tăng nhanh và tăng mạnh ở đô thị. Đề cập đến nguyên nhân của tình trạng trẻ vị thành niên làm trái pháp luật ở nƣớc ta có nguyên nhân từ phía gia đình. Hiện nay nhiều gia đình chƣa làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với con cái, họ sống thiếu gƣơng mẫu và phƣơng pháp giáo dục không đúng cách đã làm cho con cái họ thiếu những phẩm chất đạo đức, xã hội tốt đẹp. Và qua nghiên cứu thực tế số trẻ vị thành niên làm trái pháp luật ở một số trƣờng giáo dƣỡng cho thấy: phần lớn những em phạm tội ở đây đều gặp phải những vấn đề trong gia đình nhƣ gia đình không đầy đủ bố mẹ, gia đình lục đục, có ngƣời nghiện hút, cờ bạc, phạm tội đi tù, các em hoặc đƣợc nuông chiều quá mức hoặc bị đối xử một cách hà khắc, bị dì ghẻ, cha dƣợng đánh đập. Luận án" Nguồn gốc xã hội của việc vi phạm pháp luật ở ngƣời chƣa thành niên hiện nay" của tác giả Hồ Diệu Thuý đã có một chƣơng nói về những nhân tố tác động tới hành vi phạm pháp của ngƣời chƣa thành niên, trong đó nhân tố đƣợc đề cập đến là môi trƣờng giáo dục trong gia đình, sự thiếu hụt về quản lý, giám sát và nuôi nấng, dạy bảo con cái trong gia đình cũng là nguồn gốc của việc vi phạm pháp luật ở ngƣời chƣa thành niên. Luận án Tiến sỹ “ Tội phạm ở tuổi vị thành niên tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” của tác giả Phạm Đình Chi đã mô tả sâu sắc bức tranh về tình hình tội phạm ở tuổi vị thành niên, đây là những con số đáng báo động. Tác giả nhấn mạnh: nguyên nhân và điều kiện của hiện tƣợng tội phạm liên hệ mật thiết 10 Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ với các biến cố, sự kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục...với những khuyết tật làm phát sinh hiện tƣợng tội phạm. Giáo dục trong gia đình có tác động lớn tới sự hoàn thiện nhân cách của con cái, sự thiếu hụt giáo dục và tình thƣơng trong môi trƣờng này là nguyên nhân dẫn đến những khuyết tật nhân cách của các em. Ngoài ra, còn có rất nhiều các công trình nghiên cứu ít nhiều đề cập đến vai trò của giáo dục gia đình và tình trạng tội phạm thanh thiếu niên nhƣ " Nuôi dạy trẻ em trong môi trƣờng xã hội không lành mạnh ", " Bƣớc đầu nhận xét về thái độ lao động của thanh niên công nhân Thủ đô" (Trần Kim Xuyến); " Một số ý kiến về nghiên cứu tội phạm" ( Thanh Đam) ;" Ký sự những vụ án trẻ em phạm pháp" ( Thuỷ Cúc - 2002). Những nghiên cứu kể ra trên đây đã chỉ ra rất rõ tầm quan trọng của giáo dục gia đình tới việc hình thành nhân cách cho các em. Tuy nhiên, nó chƣa nghiên cứu một cách cụ thể ảnh hƣởng của gia đình trong việc giáo dục trẻ vị thành niên phạm tội, nếu có thì cũng mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu đối tƣợng trẻ em - thanh thiếu niên nói chung mà chƣa quan tâm cụ thể đến lứa tuổi vị thành niên - lứa tuổi có sự chuyển đổi tâm lý và sinh lý rất lớn, đây đƣợc xem là giai đoạn quan trọng trong việc định hƣớng giá trị cuộc sống và nhân cách của mỗi con ngƣời. Lựa chọn đề tài “ Ảnh hƣởng của giáo dục gia đình tới hành vi phạm tội của trẻ vị thành niên hiện nay" để nghiên cứu với mong muốn góp phần làm hoàn thiện hơn bức tranh về giáo dục gia đình, nâng cao trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục trẻ em - đặc biệt là lứa tuổi vị thành niên. 1.2. Các khái niệm công cụ. 1.2.1. Trẻ vị thành niên. Trẻ vị thành niên là một giai đoạn trong cuộc đời mỗi con ngƣời. Đây là giai đoạn đánh dấu sự chuyển đổi từ trẻ con sang ngƣời lớn xét cả về mặt tâm lý xã hội và nhận thức. 11 Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ Tuỳ thuộc vào đặc điểm lãnh thổ quốc gia, từng giai đoạn lịch sử và cách tiếp cận của mỗi ngành nghiên cứu mà khái niệm trẻ vị thành niên có những cách định nghĩa, phân chia không giống nhau. ERIK ERICKSON trong lý thuyết tâm lý xã hội của mình đã xếp vị thành niên là giai đoạn thứ 5 trong số 8 giai đoạn phát triển nhân cách con ngƣời. Ông cho rằng giai đoạn này đƣợc tính từ khi trẻ dậy thì đến 20 tuổi, “ Sự phát triển cơ thể và sự chín muồi giới tính nhanh chóng đã tạo ra một cuộc cách mạng sinh lý” trong các em, tựa nhƣ chúng đang đứng bên bờ của tuổi ngƣời lớn, chúng tìm kiếm một cảm giác về bản sắc riêng của mình, một tính liên tục và đồng nhất với bản thân nó, đồng thời tránh sự rối nhiễu vai trò có thể hình thành trong con ngƣời trẻ tuổi – một con ngƣời không chịu học hỏi để thành ngƣời” [3, tr 21,22]. Theo định nghĩa chính thức của Liên hợp Quốc thì trẻ vị thành niên là những ngƣời từ 10 đến 19 tuổi. Định nghĩa này cũng giống với định nghĩa của tổ chức Y tế thế giới (WHO). Theo Từ điển Tiếng Việt: “ Trẻ vị thành niên là ngƣời chƣa đến tuổi trƣởng thành, chƣa đƣợc pháp luật công nhận là công dân” [4, tr1261]. Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì trẻ vị thành niên là khái niệm đƣợc dùng để chỉ ngƣời “ chƣa đủ tuổi để đƣợc pháp luật công nhận là công dân” [5, tr1814]. Theo công ƣớc của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em quy định: “ Trong phạm vi công ƣớc này, trẻ em có nghĩa là ngƣời dƣới 18 tuổi, trừ trƣờng hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [6, tr13]. Còn trong điều 11, phần II Những quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp quốc về bảo vệ ngƣời chƣa thành niên bị tƣớc quyền tự do nêu rõ “ Những ngƣời chƣa thành niên là ngƣời dƣới 18 tuổi” [6, tr13]. Ở Việt nam, trẻ vị thành niên là đối tƣợng đƣợc nghiên cứu khá nhiều, khái niệm này đƣợc đề cập nhiều nhất trong các Bộ luật. Trong những quy định của pháp luật Việt Nam có sự thống nhất về độ tuổi vị thành niên với pháp luật quốc tế. Theo quy định của Bộ luật dân sự về “ Năng lực pháp luật dân sự, năng 12 Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ lực hành vi dân sự của cá nhân thì tại điều 18, chƣơng III, mục 1 quy định“ Ngƣời chƣa đủ 18 tuổi là ngƣời chƣa thành niên”. Về đặc điểm của trẻ vị thành niên, ở vào giai đoạn này trẻ có sự biến đổi về mặt tâm sinh lý, bắt đầu có những suy nghĩ và hành động mong muốn đƣợc là ngƣời lớn. Có ngƣời nhận xét rằng lúc này trẻ vị thành niên có những nghi ngờ về mọi cách giải quyết trƣớc đây của chúng trƣớc các vấn đề lòng tin, sự tự chủ và khả năng lao động, khởi sự công việc. “ Những ngƣời thành niên là ngƣời chƣa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm sinh lý. Hoàn cảnh và mức độ phát triển của từng ngƣời là khác nhau. Nhƣng nói chung đây là thời kỳ chuyển tiếp từ lứa tuổi trẻ em sang lứa tuổi ngƣời lớn, ngƣời chƣa thành niên không còn thoả mãn với vai trò thụ động của ngƣời đƣợc giáo dục, dạy dỗ mà bắt đầu hình thành ý thức độc lập trong việc quyết định cuộc sống riêng của mình”[8, tr 458]. Khi ở vào giai đoạn này, các em luôn thể hiện sự tò mò, muốn khám phá bản thân và thế giới bên ngoài để chứng tỏ sự trƣởng thành của mình với mọi ngƣời xung quanh. Nếu nhƣ trƣớc đây, các em luôn cần có bố mẹ ở bên cạnh, luôn muốn nhận sự chăm sóc, giúp đỡ của bố mẹ thì ở giai đoạn này các em có xu hƣớng thoát khỏi sự kiểm soát của gia đình, đôi khi sự chăm sóc một cách quá tỉ mỉ của ngƣời thân lại gây cho các em sự ức chế. Giai đoạn vị thành niên cũng là giai đoạn hay xảy ra khủng hoảng về mặt tâm lý, rối nhiễu hành vi. Ở tuổi này rất cần có sự uốn nắn, định hƣớng và quan tâm của gia đình, nhà trƣờng và xã hội bởi những tính cách của tuổi mới lớn nhƣ tính hung hăng, cáu giận... và nhất là những cảm xúc giới tính phát triển rất dễ đẩy các em đến những hành động tiêu cực, phạm pháp. Mặc dù có rất nhiều cách phân biệt, phân chia các giai đoạn phát triển của trẻ vị thành niên nhƣng nhìn chung: trẻ vị thành niên là những ngƣời chƣa đến tuổi trƣởng thành và có độ tuổi dƣới 18 tuổi. 1.2.2. Khái niệm “ Tội phạm”. Trong lịch sử xã hội loài ngƣời, tội phạm xuất hiện với tƣ cách là một hiện tƣợng xã hội tiêu cực, ảnh hƣởng xấu đến đời sống văn hoá xã hội và an ninh quốc gia. Tội phạm mang tính lịch sử và giai cấp. Khi xã hội càng phát triển thì 13 Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ loại hình và tính chất của tội phạm càng phức tạp và đa dạng hơn. Tuỳ vào mỗi giai đoạn lịch sử và luật lệ mỗi quốc gia mà khái niệm về “ tội phạm” có sự khác nhau. Theo quy định của Bộ luật hình sự Việt nam tại điều 8 - chƣơng III ghi rõ “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật.”. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đƣợc quy định trong Bộ luật này, tội phạm đƣợc phân thành: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. - Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù. - Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù. - Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù. - Tội phạm đặc bịêt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. [10, tr 19,20]. Tội phạm là hành vi trái với pháp luật, đó là hành vi do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện “ Ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự là ngƣời mà tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, ở trong trạng thái bình thƣờng và hoàn toàn có khả năng nhận thức đƣợc đầy đủ tính chất thực tế và tính chất pháp lý của hành vi do mình thực hiện, cũng nhƣ khả năng điều khiển đƣợc đầy đủ hành vi đó. [9, tr 26]. 14 Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ Một hành vi đƣợc coi là tội phạm khi nó đƣợc thể hiện dƣới dạng hành vi, hành động và do ngƣời có đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định trong Bộ luật Hình sự: “ Ngƣời chƣa đủ 14 tuổi thì trong mọi trƣờng hợp đều không phải chịu TNHS. Chỉ ngƣời từ đủ 14 tuổi đến chƣa đủ 16 tuổi, ngƣời thực hiện hành vi cũng chỉ có thể phải chịu TNHS nếu họ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng do cố ý. Còn đối với tội phạm khác nghĩa là tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng do vô ý, ngƣời thực hiện hành vi chỉ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu vào thời điểm thực hiện hành vi ngƣời đó đủ 16 tuổi trở lên”.[11, tr162, 163]. 1.2.3. Trẻ vị thành niên phạm tội. Thực trạng phạm tội ở lứa tuổi vị thành niên đang là vấn đề bức xúc của xã hội và của các nhà quản lý. Trong các Bộ luật quốc tế cũng nhƣ của mỗi quốc gia, khi ban hành đều có những quy định cụ thể về những hình thức áp dụng, cách giáo dục đối với trẻ vị thành niên phạm tội. Ở mỗi nƣớc có những quy định khác nhau về tuổi chịu trách nhiệm hình sự . Ví dụ: “ Tuổi chịu trách nhiệm hình sự ở Bănglađét là 7 tuổi, ở Ấn Độ là 7 tuổi, ở Myanma là 7 tuổi, ở Nigenia là 7 tuổi, ở Pakixtan là 7 tuổi, ở Nam phi là 7 tuổi, ở Xuđăng là 7 tuổi, ở Thái Lan là 7 tuổi, ở Mỹ là 7 tuổi, ở Inđônêxia là 8 tuổi, ở Kenya là 8 tuổi, ở Scottlen là 8 tuổi, ở Etiopia là 9 tuổi, ở Iran là 9 tuổi, ở Philippin là 9 tuổi, ở Nepan là 9 tuổi, ở Anh là 10 tuổi, ở Ucraina là 10 tuổi, Thổ Nhĩ Kỳ là 11 tuổi, ở Hàn Quốc là 12 tuổi, ở Maroc là 12 tuổi, ở Uganda là 12 tuổi, ở Angieri là 13 tuổi, ở Pháp 13 tuổi, ở Ba lan 13 tuổi, ở Udơbêkixtan là 13 tuổi, Trung Quốc là 14 tuổi, ở Đức 14 tuổi, Italia là 14 tuổi, Nhật Bản 14 tuổi, Nga 14 tuổi, Ai cập 15 tuổi, Argentina 16 tuổi, Brazil 18 tuổi, Colombia 18 tuổi, Peru 18 tuổi”.[9, tr 34]. Còn ở Việt Nam, theo quy định của pháp luật về tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “1. Ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 15 Luận văn cao học xã hội học Cù Thị Thanh Thuỷ 2. Ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên nhƣng chƣa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.[10, T21]. Trách nhiệm hình sự của ngƣời chƣa thành niên phạm tội đƣợc quy định theo luật hình sự, đó là ngƣời chƣa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đƣợc luật hình sự quy định. Nói cách khác, ngƣời chƣa thành niên phạm tội là ngƣời đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự coi là tội phạm nhƣng chƣa đủ 18 tuổi: “ Vị thành niên phạm tội là ngƣời từ 14 tuổi đến dƣới 18 tuổi phạm một tội trong những tội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự” [3, tr 47 ]. Nhƣ vậy, với những em phạm tội mà vào tại thời điểm phạm tội chƣa đủ 14 tuổi thì đều không bị coi là tội phạm, ví dụ nhƣ em Nguyễn Văn A phạm tội cƣớp của giết ngƣời khi mới 13 tuổi, theo quy định của pháp luật thì hành vi đó của em A không bị coi là tội phạm. Khi trẻ vị thành niên phạm tội, do đặc điểm tâm lý và nhận thức còn hạn chế nên việc xử lý chủ yếu mang tính chất giáo dục, phòng ngừa. Cụ thể trong Bộ luật Hình sự của nƣớc ta quy định rõ: “ 1. Việc xử lý ngƣời chƣa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trƣờng hợp điều tra, truy tố xét xử hành vi phạm tội của ngƣời chƣa thành niên, các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. 2. Ngƣời chƣa thành niên phạm tội có thể đƣợc miễn trách nhiệm hình sự, nếu ngƣời đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và đƣợc gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. 3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời chƣa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ đƣợc thực hiện chỉ trong trƣờng hợp cần thiết và 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan