Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bước đầu tìm hiều văn hóa chính trị của hồ chí minh và vận dụng vào thực tiễn đổ...

Tài liệu Bước đầu tìm hiều văn hóa chính trị của hồ chí minh và vận dụng vào thực tiễn đổi mới của nước ta hiện nay

.PDF
96
750
135

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------- NGUYỄN THỊ MÂY BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội, 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------- NGUYỄN THỊ MÂY BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học Mã số: 60 31 02 01 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Chí Bảo Hà Nội, 2015 MỤC LỤC BẢNG DANH MỤC VIẾT TẮT CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA HỒ CHÍ MINH ................................................... 8 1.1. Lý luận chung về văn hóa chính trị ............................................................. 8 1.2. Vai trò của văn hóa chính trị đối với đời sống chính trị - kinh tế - xã hội. 12 1.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa chính trị ................................... 20 1.4. Những phương diện hợp thành, bản chất và đặc điểm văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh. ............................................................................................. 25 1.4.1. Những phương diện hợp thành văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh 25 1.4.2. Bản chất văn hóa chính trị và đặc điểm văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh ................................................................................. 26 TIỂU KẾT CHƯƠNG I ...................................................................................... 36 CHƯƠNG 2: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀO THỰC TIỄN ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY............................. 38 2.1. Thực trạng văn hóa chính trị nước ta hiện nay. ........................................ 38 2.1.1 Cơ sở hình thành văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay.................. 38 2.1.2. Thực trạng văn hóa chính trị ở nước ta trong công cuộc đổi mới. . 44 2.1.3. Những ưu điểm và hạn chế của văn hóa chính trị trong sự nghiệp đổi mới của nước ta. ................................................................................. 59 2.2. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu.............................................. 63 2.2.1 Phương hướng xây dựng văn hóa chính trị nước ta hiện nay.......... 63 2.2.2. Giải pháp xây dựng văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay. ............ 70 TIỂU KẾT CHƯƠNG II ..................................................................................... 83 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 88 BẢNG DANH MỤC VIẾT TẮT XHCN: Xã hội chủ nghĩa CNXH: Chủ nghĩa xã hội HTCT: Hệ thống chính trị MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh là cốt lõi lý luận trong di sản của Người, ở đó nổi bật quan niệm về chính trị và văn hóa chính trị. Đây là một vấn đề còn rất mới mẻ trong nghiên cứu khoa học về tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay. Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo qua gần 3 thập kỷ đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Có được thành tựu đó là nhờ có sự dẫn dắt của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã vận dụng sáng tạo trong thực tiễn đổi mới. Để làm cho Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam thì cần thiết phải nghiên cứu sâu sắc, thấu đáo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng của Người về văn hóa chính trị. Người là một nhà macxit sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Người đã có những kiến giải đặc sắc về chính trị, về văn hóa, đồng thời Người rất chú trọng làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống chính trị cũng như trong hoạt động sản xuất, kinh tế để phát triển dân tộc Việt Nam. Người nói: "Văn hóa không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị". Hồ Chí Minh còn là một nhà chính trị chuyên nghiệp như Người đã từng thừa nhận. Người không những sáng lập ra Đảng ta mà còn sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với bản tuyên ngôn độc lập nổi tiếng do Người trực tiếp soạn thảo và tuyên đọc ngày 02/9/1945 tại quảng trường Ba Đình để khai sinh ra nước Việt Nam mới. Người đặc biệt nhấn mạnh: "Chính trị là đoàn kết và thanh khiết". Luận điểm nổi tiếng này cho ta cảm nhận rõ Người đã sớm tiếp cận vấn đề chính trị từ đạo đức và văn hóa. Đặc biệt, ngay từ khi Đảng còn chưa ra đời, vào năm 1927 Người đã viết tác phẩm nổi tiếng "Đường Kách mệnh". Tác phẩm này có giá trị và ý nghĩa đặt nền móng tư tưởng lý 1 luận cho sự ra đời của Đảng. Mở đầu tác phẩm Người tập trung nói về "tư cách của người kách mệnh", trong đó đặc biệt nhấn mạnh "Đảng phải giữ Chủ nghĩa cho vững, phải ít lòng tham muốn về vật chất". Người còn nói "làm kách mệnh trước hết phải có Đảng, Đảng lại phải có Chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải tin, phải theo Chủ nghĩa đó". Cũng trong tác phẩm này, Người đã đem lại một định nghĩa rất độc đáo về kách mệnh: "Kách mệnh là phá cái cũ, đổi ra cái mới". Nõi rõ hơn, đó là phá cái cũ lạc hậu, lỗi thời, xây dựng cái mới tiến bộ và phát triển. Hơn nữa, Người còn nhấn mạnh: "Muốn làm kách mệnh trong xã hội thì phải kách mệnh chính bản thân mình đi đã". Những luận điểm nêu trên càng cho thấy Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh sau này, đã quan niệm về chính trị, về Đảng chính trị và hoạt động chính trị của những người kách mệnh từ yêu cầu của đạo đức và văn hóa. Bởi thế dù Người không dùng khái niệm văn hóa chính trị nhưng rõ ràng từ tư duy lý luận đến hoạt động thực tiễn Người rất chú trọng đến văn hóa chính trị. Đây là vấn đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của tác giả luận văn này. Tuy nhiên, xét về phương diện bản chất của khái niệm hay phạm trù văn hóa chính trị không nên rơi vào quan niệm giản đơn coi văn hóa chính trị như một tổng số hợp thành giữa văn hóa và chính trị. Văn hóa chính trị từ tư duy biện chứng Hồ Chí Minh, từ thực hành lý luận của Người cho thấy đó là sự tác động, sự thẩm thấu của văn hóa vào trong chính trị. Mặt khác, đó cũng là quá trình mà chính trị và hoạt động chính trị được phát triển tới trình độ văn hóa, tới tầm văn hóa làm cho chính trị thấm nhuần một chủ nghĩa nhân văn cao cả. Chủ nghĩa nhân văn ấy thể hiện đậm nét ở lý tưởng và mục tiêu mà Người suốt đời theo đuổi: "Vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì độc lập - tự do - hạnh phúc của nhân dân". Đó là điều thúc đẩy chúng ta nghiên cứu những quan niệm của Người về chính trị và văn hóa chính trị. 2 Từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã chính thức trở thành Đảng cầm quyền và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh sáng lập đã không ngừng phấn đấu, hoàn thiện để thực sự là Nhà nước dân chủ - pháp quyền, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh bản chất của Nhà nước là dân chủ và xây dựng chế độ dân chủ để thực hiện quyền làm chủ của người dân. Dân là chủ và dân làm chủ. Dân đã có quyền làm chủ thì cũng phải có nghĩa vụ của người làm chủ. Dân đã là chủ thì cán bộ đảng viên, công chức đều là đầy tớ, công bộc của dân, phải ra sức thực hành dân chủ không được biến dân chủ thành "quan chủ". Cũng như vậy, tận tụy, trung thành phục vụ nhân dân chứ không được lên mặt "quan cách mạng". Những chỉ dẫn sâu sắc đó của Hồ Chí Minh đối với Đảng, Nhà nước, với cán bộ đảng viên, công chức trong điều kiện Đảng đã cầm quyền có ý nghĩa vô cùng thiết thực và sâu sắc. Những tư tưởng đó của Người cho thấy Người đặc biệt quan tâm xây dựng và thực hành văn hóa chính trị trong Đảng, trong Nhà nước, trong các tổ chức đoàn thể của chế độ mới. Ngày nay, trước tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên suy thoái, biến chất làm mất lòng tin của nhân dân, làm tổn thương đến uy tín và thanh danh của Đảng cũng như nạn quan liêu, tham nhũng đang trở nên rất trầm trọng ở nước ta, làm tổn hại đến lợi ích của người dân và chế độ xã hội thì việc nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là tư tưởng của Người về văn hóa chính trị trở nên đặc biệt cần thiết, bức xúc. Đó là lý do thúc đẩy tác giả lựa chọn vấn đề "Bước đầu tìm hiểu Văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh và vận dụng vào thực tiễn đổi mới của nước ta hiện nay" làm đề tài nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ chính trị học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong gần 3 thập kỷ đổi mới vừa qua, nghiên cứu về văn hóa và văn hóa chính trị ở nước ta bắt đầu hình thành và phát triển. Những nghiên cứu về tư 3 tưởng Hồ Chí Minh cũng đã bước đầu có những tác giả đi sâu nghiên cứu tư tưởng văn hóa và văn hóa chính trị của Người. Có thể kể ra những tác giả và những công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây: Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh (2010), Giá trị bền vững và sức sống của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Chủ nghĩa Xã hội Khoa học (2012), Văn hóa Hồ Chí Minh - giá trị và ý nghĩa (Tạp chí Cộng sản, số 823, 2011) của GS.TS Hoàng Chí Bảo; Cơ sở khoa học và nền tảng văn hóa của tư tưởng Hồ Chí Minh (1998), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức (1996), Văn hóa lãnh đạo: triết lý phát triển bền vững trong tư duy văn hóa Hồ Chí Minh (Tạp chí Tuyên giáo, số 12/2012) của PGS.TS Thành Duy; Tìm hiểu nền tảng văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh (1995) của GS.TS Lê Văn Hóa; Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người (2005), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh (1997) của GS Đặng Xuân Kỳ; Phát triển văn hóa và con người Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh (2010) của các tác giả PGS.TS Phạm Ngọc Anh, Nguyễn Duy Bắc, Phạm Văn Thủy; Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa của Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương xuất bản năm 2003… Những kết quả, thành tựu nghiên cứu nói trên là rất quý báu đối với tác giả để có thể tham khảo, kế thừa và phát huy. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh cho đến nay vẫn còn ít tác giả và công trình nghiên cứu sâu để làm rõ quan niệm của Người về văn hóa chính trị, những nội dung cấu thành văn hóa chính trị, những đặc trưng hay đặc điểm tiêu biểu trong văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh. Với đề tài nghiên cứu và bản luận văn này, tác giả hi vọng được đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc giải quyết những vấn đề đặt ra về văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh. 4 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu Nghiên cứu những nội dung chủ yếu và đặc điểm văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng vận dụng văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh trong thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện mục tiêu nói trên, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: - Trình bày những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và văn hóa chính trị. - Phân tích những phương diện hợp thành nội dung văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh. - Luận chứng về bản chất và đặc điểm văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh. - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa chính trị trong thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay, nhất là trong thực tiễn xây dựng Đảng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng - Nghiên cứu văn hóa chính trị Hồ Chí Minh căn cứ vào tác phẩm cũng như hoạt động chính trị thực tiễn của Người. Nghiên cứu những tác phẩm tiêu biểu của Người thể hiện trực tiếp về quan niệm văn hóa chính trị như: Đường Kách mệnh (1927), Sửa đổi lối làm việc (1947), Đời sống mới (1947), Dân vận (1947), đặc biệt là Di chúc (1965 5 - 1969) và tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân (1969)... Nghiên cứu thực tiễn chú trọng vào những thực hành lớn của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể, nhất là những quan tâm của Người tới công tác cán bộ, tới cuộc sống của nhân dân, đấu tranh chống quan liêu, lãng phí, tham ô. 4.2. Phạm vi Vận dụng văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh vào thực tiễn đổi mới, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay theo tinh thần Văn kiện Đại hội XI và các Nghị quyết Trung ương khóa XI, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 về Những vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng, Nghị quyết Trung ương 7 về Công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới, Nghị quyết Trung ương 9 về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Đề tài đánh giá thực trạng văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay (từ Đại hội X đến Đại hội XI và hiện nay). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận và phương pháp luận Phương pháp luận nghiên cứu luận văn là Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc xem xét các hiện tượng, sự vật. Tức là xem xét, nghiên cứu các sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau, nhìn nhận sự vật, hiện tượng một cách khách quan, luôn vận động biến đổi trong từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Luận văn cũng dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị, văn hóa và văn hóa chính trị để chỉ ra những nội dung cơ bản, bản chất và đặc điểm văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh. Từ đó xem xét và 6 nghiên cứu những thực hành lý luận của Người trong hoạt động chính trị để làm rõ hơn tư tưởng của Người về văn hóa chính trị. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tiến hành nghiên cứu luận văn này, ngoài phương pháp luận chung, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể nhằm thu được kết quả một cách khách quan, khoa học. - Phương pháp phân tích và tổng hợp - Phương pháp logic và lịch sử - Phương pháp hệ thống hóa và khái quát hóa 6. Đóng góp của luận văn - Bước đầu luận chứng về nội dung, bản chất và đặc điểm văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh. - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu, cần thiết để vận dụng văn hóa chính trị của Hồ Chí Minh vào thực tiễn đổi mới, nhất là trong xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 02 chương, 06 tiết. 7 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA HỒ CHÍ MINH 1.1. Lý luận chung về văn hóa chính trị Chính trị là lĩnh vực hoạt động rộng lớn và quan trọng của con người. Lịch sử xã hội loài người từ khi phân chia thành giai cấp và hình thành nhà nước đến nay là lịch sử của chính trị, của nhà nước trong các xã hội chính trị. Đó là quá trình giành và kiểm soát quyền lực nhà nước, nói một cách quy giản thì chính trị là lý luận và thực tiễn, khoa học và nghệ thuật giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, thực hiện lợi ích giai cấp, dân tộc, quốc gia. Vấn đề quan trọng quyết định tính chất, đặc điểm chính trị là quyền lực chính trị nằm trong tay giai cấp nào, phục vụ lợi ích cho ai và phương thức giành quyền lực chính trị được thực hiện bằng cách nào. Sau khi giành được quyền lực chính trị vấn đề cốt lõi là việc thực thi quyền lực chính trị như thế nào trong việc sử dụng quyền lực, phân bổ quyền lực, tổ chức hệ thống chính trị, thiết chế chính trị, cơ chế vận hành để quyền lực chính trị được thực thi trong cuộc sống. Hoạt động chính trị và thực thi quyền lực chính trị còn được nhìn nhận từ lăng kính văn hóa chính trị. Văn hoá kết tinh toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần của con người và loài người. Do vậy, mục tiêu chính trị, cơ chế chính trị, phương thức tổ chức quyền lực, hành vi chính trị của chủ thể chính trị có hướng đích mục tiêu nhân văn, nhân bản, chân, thiện, mỹ hay không, có vì sự tiến bộ của con người và xã hội loài người hay không; đó chính là nội hàm văn hóa của nền chính trị. Văn hóa chính trị (Political culture) như một thuật ngữ trong khoa học chính trị xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng giữa thế kỷ XX, gắn với tên tuổi hai học giả Hoa Kỳ là Gabriel Almond và Sidney Verba. Theo hai 8 ông, văn hóa chính trị được hiểu như thái độ, cách thức ứng xử của một cộng đồng dân tộc (bao gồm cả chính giới và người dân) với quyền lực chính trị [30]. “Văn hóa chính trị là tập hợp các lập trường và các xu hướng cá nhân của những người tham gia trong một hệ thống nào đó, là lĩnh vực chủ quan làm cơ sở cho hành động chính trị và làm cho hành động chính trị có ý nghĩa” [38,Tr.216]. Có thể nói, trung tâm của văn hóa chính trị là vấn đề định hướng. Có ba cấp độ định hướng chính: Một, về phương diện nhận thức, nó bao gồm những hiểu biết về hệ thống chính trị cũng như vai trò của các thành phần tham dự vào hệ thống chính trị ấy, từ giới cầm quyền đến các đại biểu cũng như cả vai trò của truyền thông. Hai, về phương diện cảm xúc, nó phản ánh tình cảm của dân chúng đối với hệ thống chính trị, đối với những người tham gia vào hệ thống ấy cũng như đối với các hoạt động và các giá trị mà hệ thống ấy đại diện hoặc theo đuổi. Ba, về phương diện đánh giá, nó bộc lộ quan hệ cá nhân của con người đối với hệ thống chính trị trong nước, từ đó, định hình mức độ tham gia, dưới hình thức này hoặc hình thức khác, vào hệ thống ấy. Văn hóa chính trị là sự kết tinh văn hóa trong đời sống chính trị, trong nhận thức hành vi, phẩm chất năng lực của chủ thể chính trị và trong hoạt động của hệ thống chính trị.Văn hóa chính trị là sức sống, nguồn sức mạnh bên trong của chủ thể chính trị. Nó quy định năng lực nội sinh hướng tới những giá trị cao đẹp, văn minh và nhân đạo. Văn hóa chính trị biểu hiện ra trong đời sống chính trị, cương lĩnh chính trị, trong chính sách pháp luật của Đảng cầm quyền, của Nhà nước, là ý thức và hành vi của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, là khả năng thẩm thấu, hiện thực hóa văn hóa trong chính trị. Biểu hiện tập 9 trung nhất là trong con người chính trị - nhân tố quyết định chất lượng của tổ chức bộ máy và hoạt động của toàn bộ thể chế chính trị. Văn hóa chính trị phản ánh trình độ phát triển văn hóa trong mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, chính trị với văn hóa. Nó nói lên trình độ nhận thức, năng lực sáng tạo những giá trị văn hóa chân, thiện, mỹ của chủ thể chính trị, trực tiếp định hướng hoạt động lý luận và thực tiễn nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Văn hóa chính trị vừa là mục tiêu vừa là động lực, đồng thời là phương thức hoàn thiện và phát triển của bất cứ nền chính trị dân chủ nào. Muốn hướng tới một nền chính trị dân chủ đích thực, thì phải coi văn hóa ở đây là văn hóa chính trị, cầm quyền, văn hóa thực thi quyền lực là mục tiêu, là động lực của chính trị. Văn hóa xét đến cùng chính là con người, là quyền tự do dân chủ và quyền lực chính trị thuộc về nhân dân lao động. Nhân dân lao động là người làm chủ xã hội. Nghiên cứu chính trị và văn hóa chính trị trên lập trường, quan điểm Mác xít đòi hỏi phải quán triệt tinh thần ấy. Văn hóa chính trị vận động và phát triển trong mối quan hệ với sự vận động và phát triển của kinh tế, sự tác động của dân trí, truyền thống văn hóa, phương thức tổ chức hệ thống chính trị; quan hệ giao lưu và tiếp biến văn hóa đối với văn hóa và chính trị thế giới và sự chi phối của trình độ, nhân cách người cầm quyền. Văn hóa chính trị luôn gắn liền với chủ thể chính trị. Nói đến văn hóa là nói đến con người; nói đến văn hóa chính trị là nói đến con người chính trị - chủ thể chính trị. Văn hóa chính trị là thước đo khả năng sáng tạo của chủ thể chính trị trong nhận thức các quy luật vận động khách quan của xã hội và sự tác động qua lại với đời sống chính trị, các quy luật của chính trị và cầm quyền. Xét về 10 bản chất, văn hóa chính trị là tổng hòa các giá trị chính trị (bao hàm cả vật chất và tinh thần) do con người sáng tạo ra trong xã hội có giai cấp và nhà nước. Văn hóa chính trị là một bộ phận, một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai cấp nói lên chất lượng tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần với hạt nhân là các giá trị chính trị được con người sáng tạo và sử dụng trong thực tiễn chính trị, để thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước nhằm thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp thống trị, cầm quyền, trong tương quan với lợi ích của xã hội, của nhân dân phù hợp với những điều kiện xác định của xã hội. Văn hóa chính trị, với tư cách là một loại hình của văn hóa là khái niệm nói về sự thẩm thấu của văn hóa vào chính trị, là chính trị có tính văn hóa. Như vậy, văn hóa chính trị không phải là bản thân chính trị, bản thân văn hóa, hay là sự cộng gộp giản đơn hai lĩnh vực này, mà đó là chính trị bao hàm tính văn hóa từ bản chất bên trong của nó. Văn hóa chính trị thể hiện ở hai phương diện cơ bản sau đây: Một là, chính trị với ý nghĩa là chính trị dân chủ, tiến bộ phải hướng tới mục đích cao nhất là vì con người, giải phóng con người, tôn trọng quyền con người, tạo điều kiện cho con người phát triển tự do, toàn diện, hài hòa. Đây là tính nhân văn sâu sắc của một nền chính trị có văn hóa theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, những tư tưởng chính trị tốt đẹp không phải là những ý niệm trừu tượng mà phải thiết thực, cụ thể, có khả năng đi vào cuộc sống. Nghĩa là nó phải thấu triệt trong hệ tư tưởng chính trị, thể hiện qua đường lối chính sách của Đảng cầm quyền và nhà nước quản lý, trong ứng xử và trong việc triển khai các kế hoạch cụ thể nhằm phát triển xã hội và phục vụ cuộc sống của cá nhân cũng như của cộng đồng xã hội. 11 1.2. Vai trò của văn hóa chính trị đối với đời sống chính trị - kinh tế xã hội Văn hóa chính trị có vai trò rất to lớn đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Văn hóa chính trị giữ vị trí rất quan trọng trong việc tổ chức xã hội, định hướng điều chỉnh các hành vi của con người và quan hệ xã hội giữa người với người, cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng. Đồng thời, văn hóa chính trị có tác động cổ vũ, động viên, thúc đẩy hoạt động của cá nhân, giai cấp trong chính trị, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc. Hiện nay, trên thế giới, xu hướng toàn cầu hóa đang ngày càng trở nên phổ biến và sâu rộng. Nó mở ra cơ hội phát triển cho các nước song cũng tạo ra những thách thức mới cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Việc giữ vững những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đặc biệt là những giá trị văn hóa chính trị có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn định nền chính trị. Từ đó sẽ tạo ra động lực cho sự hòa nhập, phát triển, ổn định của đất nước. Văn hóa chính trị tác động vào hoạt động chính trị của cá nhân và tổ chức trong đời sống chính trị của mỗi một quốc gia. Nó phụ thuộc vào văn hóa chính trị của từng cá nhân, của người thủ lĩnh và văn hóa chính trị của tổ chức (cộng đồng). Văn hóa chính trị cá nhân được thể hiện trên ba mặt: Trình độ hiểu biết về chính trị. Khả năng, năng lực của cá nhân tham gia vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực chính trị và mức độ hoàn thiện nhân cách. Văn hóa chính trị cá nhân chịu sự chi phối bởi các tư tưởng xã hội, động cơ chính trị và lợi ích giai cấp; phụ thuộc vào trình độ dân chủ xã hội và truyền thống của dân tộc, đồng thời nó cũng phụ thuộc vào toàn bộ kinh nghiệm sống, kết quả đào tạo, tự đào tạo, sự phát triển trong hoạt động thực tiễn, sự tự ý thức, tự phát triển. Văn hóa chính trị cá nhân thường được bộc lộ qua văn hóa ứng 12 xử, giao tiếp, tranh luận, bởi vì giao tiếp, ứng xử, tranh luận không chỉ thuần túy là thái độ, quan điểm, lập trường chính trị đối với giai cấp, nhà nước, dân tộc và xã hội, mà còn là trình độ giác ngộ chính trị, là năng lực trí tuệ, là đạo đức và tác phong, là động cơ chính trị hướng về một lợi ích chính trị, một mục tiêu lý tưởng nhất quán cơ bản và lâu dài. Văn hóa chính trị cá nhân không chỉ thể hiện qua quan hệ giao tiếp, ứng xử, mà còn bộc lộ đầy đủ ở năng lực, khả năng hoạt động sáng tạo, đặc biệt trong việc tham gia vào quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực chính trị. Con đường đi tới hoạt động sáng tạo bắt đầu từ tri thức, sự hiểu biết chính trị, cơ sở để có hành động đúng; tiếp đến là tình cảm, động lực cho hoạt động, yếu tố tạo cho tri thức trở nên sống động; từ hiểu biết khoa học và tình cảm trong sáng, dẫn đến niềm tin mãnh liệt vào lý tưởng, con đường, mục tiêu đã chọn. Toàn bộ tri thức, tình cảm, niềm tin là cội nguồn cho hoạt động sáng tạo, đồng thời thông qua hoạt động sáng tạo mà tri thức được bổ sung, kiểm chứng và nâng cao, tình cảm thêm sâu sắc, niềm tin được củng cố và hành động trở nên tự giác hơn, mãnh liệt hơn, văn hóa hơn. Ở Việt Nam, văn hóa chính trị ở mỗi cá nhân, đặc biệt là đối với những nhà lãnh đạo, chính trị là sự thực hành văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với phương châm: thường xuyên trau dồi kiến thức, tư duy khoa học, thực hành đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, nghiêm khắc với mình, khoan dung, độ lượng đối với mọi người. Văn hóa chính trị của một tổ chức phụ thuộc vào văn hóa của từng cá nhân, vào văn hóa người thủ lĩnh (người đứng đầu), vào trình độ dân trí nói chung, vào trình độ tổ chức của tổ chức và suy đến cùng còn tùy thuộc vào bản chất của chế độ chính trị, trình độ chín muồi của chế độ dân chủ. Văn hóa chính trị của một tổ chức thể hiện ở nguyên tắc tổ chức, ở cơ cấu tổ chức, đặc biệt ở hiệu lực, hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Bản chất của chế độ xã hội quy định trình độ văn hóa dân chủ của tổ chức, cộng đồng. Trong 13 chế độ tư bản chủ nghĩa, xã hội dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, lấy việc bóc lột giá trị thặng dư làm phương thức tồn tại, dân chủ trước hết và chủ yếu dành cho những người có tài sản, có vị thế chính trị trong xã hội. Mặc dù vậy, dân chủ tư sản xét về mặt tác động và ý nghĩa khách quan của nó, nó là một nền dân chủ hiện đại, trong khi bảo vệ lợi ích và quyền lợi của giai cấp tư sản, nó cũng phải tính đến dân chủ của xã hội, đáp ứng những đòi hỏi của các công dân, của các thành viên trong xã hội và thường được giới hạn bởi luật pháp tư sản. Điều đó quy định trình độ hạn chế của văn hóa chính trị cộng đồng trong xã hội tư sản. Trái lại, trong chế độ XHCN, xã hội dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, xã hội lấy việc thủ tiêu bóc lột, bất công, bất bình đẳng làm cơ sở tồn tại, dân chủ XHCN được thực hiện trong thực tế. Do đó, văn hóa chính trị của mỗi tổ chức xã hội có môi trường và điều kiện để nảy nở, phát huy. Sự tác động qua lại thuận chiều giữa văn hóa chính trị cá nhân và văn hóa chính trị tổ chức là nét đặc trưng của văn hóa chính trị XHCN. Chính trị và phát triển xã hội là những khái niệm bộ phận cấu thành của chính trị học và khoa học chính trị. Trong quá trình phát triển của xã hội có giai cấp, chính trị và văn hóa chính trị trực tiếp tác động đến quá trình phát triển xã hội. Lịch sử còn ghi dấu ấn về các thể chế chính trị được tổ chức từ một trình độ văn hóa chính trị cao, dựa trên các tri thức khoa học, nắm vững và vận dụng các quy luật vận động của tự nhiên và xã hội trong quá trình phát triển. Đồng thời lịch sử cũng chứng kiến sự xuất hiện của các thể chế phản văn hóa chính trị đã kìm hãm sự phát triển của nhân loại như chế độ phong kiến chuyên chế ở Tây Âu thời kỳ Trung cổ với 900 năm trong đêm trường Trung cổ, chủ nghĩa Phát xít chuyên chế, độc tài và chế độ diệt chủng của Khơme đỏ trong thế kỷ XX. Các nhà chính trị học Mác xít quan niệm rằng con người chính là sản phẩm tiến hóa của giới tự nhiên. Con người xuất hiện là nấc thang cao nhất 14 của sự tiến hóa của tự nhiên. Con người còn là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử và bản chất con người là tổng hòa của tất cả các mối quan hệ xã hội. Con người trở thành nhân tố quyết định sự phát triển xã hội - mặc dù quá trình phát triển của xã hội cũng là quá trình lịch sử tự nhiên, vận động theo quy luật khách quan, tất yếu của xã hội, nhưng đó là quá trình phát triển thông qua hoạt động có ý thức của con người. Từ khi xã hội xuất hiện giai cấp và nhà nước, con người tồn tại với tư cách là con người chính trị - một thực thể chính trị, một chủ thể của văn hóa chính trị, của quyền lực nhà nước, con người luôn luôn có khát vọng vươn tới tự do, mỗi bước tiến trên con đường văn minh là một bước tiến tới tự do. Phát triển là một quá trình làm cho con người hoàn thiện nhân cách của mình, tự tin ở chính mình, là quá trình giải phóng con người khỏi sự áp bức về chính trị, kinh tế, xã hội. Văn hóa chính trị có vai trò thúc đẩy quá trình phát triển xã hội dựa trên quan điểm lấy con người làm trung tâm. Phát triển xã hội chính là quá trình tạo lập các điều kiện phát triển của con người về kinh tế, văn hóa, xã hội… vươn tới sự thoả mãn ngày càng cao nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Nói cách khác phát triển là quá trình tiến hóa đồng bộ của năm thành tố cơ bản: Tăng trưởng kinh tế, ổn định, công bằng, dân chủ, quyền con người. Trong các thành tố này, có tới bốn thành tố thuộc về văn hóa chính trị (ổn định, công bằng, dân chủ, quyền con người), đồng thời thành tố tăng trưởng kinh tế cũng do văn hóa chính trị (chiến lược, đường lối, chính sách phát triển) quy định, chi phối. Để đi tới một xã hội phát triển theo quan điểm chính trị lấy con người làm trung tâm, văn hóa chính trị phải hiện thực hoá các tiêu chí của sự phát triển xã hội: 15 - Tiêu chí tham gia: Tiêu chí này nói lên mức độ tham gia của nhân dân vào các công việc nhà nước và xã hội với tư cách là chủ thể của công việc đó, nhất là vai trò chủ thể chính trị - công dân trong việc quyết định các vấn đề của đất nước hay địa phương. Tiêu chí này chỉ có thể được thực hiện thông qua chế độ dân chủ được thiết lập và ngày càng mở rộng, trở thành hiện thực cuộc sống. Trong một nền dân chủ điều này nhất thiết phải được thực hiện thông qua bầu cử; tính pháp trị có nghĩa là các quyết định đưa ra về việc các cá nhân có vi phạm pháp luật hay không và hình phạt nào đối với họ phải dựa theo nguyên tắc chung. Có thể nhận thấy bản chất, thuộc tính của dân chủ theo quan niệm này về cơ bản là thống nhất với văn hóa chính trị. Ở chỗ, sự tham gia của công dân đã đòi hỏi: Thứ nhất, công dân phải có năng lực tham gia vào đời sống chính trị như vậy người công dân phải có tri thức và hành vi phù hợp nhất định. Thứ hai, hệ thống chính trị phải là một hệ thống “mở” đối với sự tham gia của người dân. Để có hệ thống mở đó, toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị mà trọng tâm là nhà nước phải tuân thủ những chuẩn mực của văn hóa chính trị hiện đại đó là dân chủ, pháp quyền. Dân chủ xã hội chủ nghĩa trong bản chất là dân chủ cho số đông (xét về mặt lợi ích và quyền lực) và vì vậy dân chủ là hình thái của văn hóa chính trị. - Tiêu chí đồng thuận xã hội: Là hệ quả của quá trình dân chủ hóa xã hội, làm cho mọi thành viên được tham gia vào hầu hết các công việc của nhà nước và xã hội, hình thành ý thức tự giác trong việc chấp hành pháp luật do sự tương đồng về lợi ích của các công dân quy định. Đồng thuận xã hội được coi là chìa khóa cho sự phát triển xã hội. Văn hóa chính trị thúc đẩy đồng thuận xã hội vì sự phát triển của xã hội. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan