ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------
NGUYỄN ANH THƯ
Bước đầu tìm hiểu về loại hình di tích hố đất đen
trong một số địa điểm văn hoá Phùng Nguyên
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHẢO CỔ HỌC
Hà Nội – 2005
Bảng các chữ viết tắt
BTLSVN
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
ĐH THHN
Đại học Tổng hợp Hà Nội
KCH
Khảo Cổ học
KHXH
Khoa học Xã hội
KHXH & NVQG
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia
Nghiên cứu lịch sử
NCLS
NPHMVKCH
Những phát hiện mới về khảo cổ học
VH TT-TT
Văn hoá Thông tin – Thể thao
VHDT
Văn hoá Dân tộc
Nxb
Nhà xuất bản
b.
Bảng thống kê
ba.
Bản ảnh
bd.
Bản dập hoa văn đồ gốm
bđ.
Bản đồ
bv.
Bản vẽ
h.
Hố đất đen
hc.
Hố cột
sđ.
Sơ đồ
7
Mục lục
Lời cam đoan
Bảng các chữ viết tắt
Danh mục các bảng thống kê
Danh mục phụ lục minh hoạ
Mục lục
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và những vấn đề cần giải quyết trong
luận văn.
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Kết quả đóng góp của luận văn
6. Bố cục
Chương 1. Tổng quan tư liệu
1.1. Điều kiện tự nhiên-xã hội
1.1.1. Vị trí địa lý, cấu tạo địa chất, địa hình, cảnh quan di chỉ
Gò Hội (Lập Thạch - Vĩnh Phúc).
1.1.2. Vị trí địa lý, cấu tạo địa chất, địa hình, cảnh quan di chỉ
Đình Chiền (Liên Hà - Đông Anh).
1.2. Quá trình phát hiện và nghiên cứu vấn đề
1.3. Kết quả khai quật di chỉ Gò Hội và Đình Chiền
1.3.1. Kết quả khai quật di chỉ Gò Hội
1.3.2. Kết quả khai quật di chỉ Đình Chiền
1.4. Tiểu kết chương 1
Chương 2. Đặc điểm các hố đất đen trong di chỉ Gò Hội và đình Chiền
2.1. Đặc điểm các hố đất đen di chỉ Gò Hội
2.2. Đặc điểm các hố đất đen di chỉ Đình Chiền
2.3. Tiểu kết chương 2
Chương 3. Đặc trưng di vật trong các hố đất đen trong di chỉ Gò Hội và đình
Chiền
3.1. Đặc trưng di vật di chỉ Gò Hội
3.1.1. Đồ đá
3.1.2. Đồ gốm
3.2. Đặc trưng di vật di chỉ Đình Chiền
3.2.1. Đồ đá
3.2.2. Đồ gốm
3.3. Nhận xét
3.4.Niên đại di chỉ Gò Hội và Đình Chiền
3.5.Tiểu kết chương 3
Chương 4. bước đầu tìm hiểu loại hình di tích hố đất đen trong một số địa
điểm văn hoá Phùng Nguyên
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Tr
1
2
3
4
9
10
7
11
14
17
24
26
43
53
54
77
94
99
101
120
8
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt chặng đường 45 năm phát hiện và nghiên cứu
văn hoá Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ học đã thu được một khối lượng di
vật khổng lồ, phong phú, phản ánh một giai đoạn phát triển văn hoá rực rỡ mở
đầu thời đại Kim khí ở Việt Nam. Đã có gần 70 địa điểm văn hoá Phùng
Nguyên được phát hiện, nghiên cứu, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các
loại hình di tích, di vật của văn hoá Phùng Nguyên, nhưng quanh văn hoá
Phùng Nguyên vẫn còn nhiều vấn đề chờ giải đáp. Cho đến nay, vẫn chưa có
một công trình nghiên cứu nào đề cập và tìm hiểu về quá trình hình thành,
công dụng, chức năng của những hố đất đen xuất hiện trong một số di chỉ hay
lớp văn hoá thuộc văn hoá Phùng Nguyên như Phùng Nguyên, Nghĩa Lập,
Lũng Hoà, Đồng Đậu (lớp Phùng Nguyên), Bãi Mèn, Gò Hội, Đình Chiền,
Thành Dền (lớp dưới cùng)... Do đó, việc hệ thống hoá tư liệu và tìm hiểu về
loại hình hố đất đen trong các di chỉ trên sẽ giúp chúng ta nhìn lại và nghiên
cứu kỹ hơn về một loại hình di tích trong văn hoá Phùng Nguyên.
Năm 2002-2003, chúng tôi có điều kiện tìm hiểu về loại hình di tích
này qua các cuộc khai quật tại hai địa điểm Gò Hội và Đình Chiền. Tác giả có
cơ may trực tiếp tham gia khai quật và chỉnh lý nguồn tư liệu thu được từ địa
điểm Gò Hội (Lập Thạch - Vĩnh Phúc) lần II, Đình Chiền (Liên Hà - Đông
Anh) lần II nên có điều kiện thuận lợi để “bước đầu tìm hiểu loại hình di tích
hố đất đen trong một số địa điểm văn hoá Phùng Nguyên” và chọn đó làm đề
tài luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Tập hợp, hệ thống hoá tư liệu và kết quả nghiên cứu về loại hình
di tích hố đất đen trong văn hoá Phùng Nguyên.
9
- Phân loại các hố đất đen trong di chỉ Gò Hội, Đình Chiền dựa trên
hình dạng, cấu trúc, đặc điểm phân bố di vật trong hố đất đen.
- Tìm hiểu chức năng, qui luật phân bố của các hố đất đen trong di chỉ
Gò Hội, Đình Chiền; Từ đó rút ra những đặc trưng cơ bản của loại hình hố đất
đen trong một số di chỉ thuộc văn hoá Phùng Nguyên.
3.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và những vấn đề cần giải quyết
trong luận văn
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là các hố đất đen trong di chỉ
Gò Hội (Lập Thạch - Vĩnh Phúc) và Đình Chiền (Đông Anh-Hà Nội).
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu trình bày kết quả nghiên cứu về
loại hình hố đất đen trong di chỉ Gò Hội và Đình Chiền qua hai lần khai quật.
Đây là những tư liệu mới, được tác giả trực tiếp chỉnh lý và tập hợp khá đầy
đủ. Bên cạnh đó, luận văn hệ thống và sử dụng các tư liệu và báo cáo khai
quật về loại hình di tích hố đất đen trong các di chỉ thuộc văn hoá Phùng
Nguyên từ trước tới nay, đồng thời tham khảo một số báo cáo về loại hình di
tích cùng thời ở Vân Nam - Trung Quốc.
Vấn đề chính cần giải quyết trong luận văn: Phân loại, xác định đặc
trưng và tìm hiểu quá trình hình thành, chức năng, công dụng các hố đất đen
trong di chỉ Gò Hội, Đình Chiền; mối liên hệ giữa Gò Hội, Đình Chiền với
cụm di tích đồng dạng trong văn hoá Phùng Nguyên và các văn hoá khác
trong khu vực.
4.
Phương pháp nghiên cứu
4.1. Để tiếp cận đề tài, luận văn sử dụng các phương pháp khảo cổ học
truyền thống, cụ thể là điều tra, điền dã, thám sát, khai quật, đo vẽ, chụp ảnh,
miêu tả, phân loại tư liệu, xử lý tư liệu địa tầng... nhằm phản ánh được một
cách đầy đủ, chính xác và khách quan mối tương quan giữa di tích và di vật.
4.2. Trong luận văn, phương pháp cơ bản là phương pháp phân loại, so
sánh loại hình di tích và di vật. Bằng phương pháp này, chúng ta có thể rút ra
đặc điểm phân bố, quá trình hình thành, phát triển của loại hình di tích hố đất
10
đen trong di chỉ Gò Hội và Đình Chiền và một số địa điểm khác thuộc văn
hoá Phùng Nguyên.
4.3. Luận văn áp dụng phương pháp thống kê, sử dụng các kết quả
phân tích bằng các phương pháp khoa học tự nhiên làm cơ sở cho việc xác
định đặc điểm và niên đại các hố đất đen và các di vật trong di chỉ Gò Hội,
Đình Chiền...
5.
Kết quả đóng góp của luận văn
- Luận văn tập hợp, hệ thống hoá tư liệu và kết quả nghiên cứu về loại
hình hố đất đen trong một số địa điểm thuộc văn hoá Phùng Nguyên.
- Trình bày kết quả nghiên cứu về đặc điểm loại hình di tích và đặc
trưng di vật trong các hố đất đen trong di chỉ Gò Hội, Đình Chiền. Từ đó rút
ra nội dung, tính chất di chỉ Gò Hội và Đình Chiền trong mối liên hệ với cụm
di tích đồng đạng.
- Xác định những đặc trưng cơ bản của loại hình di tích hố đất đen
trong một số địa điểm thuộc văn hoá Phùng Nguyên
6.
Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn bao gồm
4 chương:
Chương 1: Tổng quan tư liệu.
Chương 2: Đặc điểm các hố đất đen trong di chỉ Gò Hội và
Đình Chiền
Chương 3: Đặc trưng di vật trong hố đất đen trong di chỉ Gò Hội và
Đình Chiền
Chương 4: Bước đầu tìm hiểu loại hình di tích hố đất đen trong một số
địa điểm văn hoá Phùng Nguyên
Ngoài ra trong luận văn còn có các mục như: Bảng các chữ viết tắt,
mục lục, danh mục phụ lục minh họa, tài liệu tham khảo.
11
Chương 1
tổng quan tư liệu
1.1. Điều kiện tự nhiên-xã hội
1.1.1. Vị trí địa lý, cấu tạo địa chất, địa hình, cảnh quan di chỉ
Gò Hội (Vĩnh Phúc)
Địa điểm khảo cổ học Gò Hội nằm ở thôn Đồng Soi, xã Hải Lựu,
huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Là đỉnh đầu tiên của tam giác châu thổ Bắc
Bộ, lại nằm ở vị trí ngã ba hệ thống sông Hồng, sông Đà, sông Lô nên Vĩnh
Phúc sớm trở thành một trung tâm hội tụ nhiều di chỉ văn hoá thời Tiền – Sơ
sử [33].
Lập Thạch là một huyện miền núi ở phía Tây Bắc tỉnh Vĩnh Phúc,
phía Bắc và Đông Bắc có dãy núi Tam Đảo và núi Sáng làm ranh giới tự
nhiên với hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang; phía Tây có sông Lô bao
bọc; phía Đông và Đông Nam là con sông Phó Đáy ngăn cách địa giới với hai
huyện Tam Dương và Vĩnh Tường (bđ.1). Diện tích tự nhiên của Lập Thạch
là 41.205,8 ha.
Vĩnh Phúc có 3 loại địa hình chính: địa hình miền núi, địa hình vùng
đồi và địa hình vùng đồng bằng. Địa hình núi thấp ở Vĩnh Phúc rộng hàng
chục km, là vùng nâng liên tục do hoạt động của hai đứt gãy sông Lô và sông
Chảy, bắt đầu từ cuối giai đoạn Hecxini (300 triệu năm cách ngày nay). Lập
Thạch thuộc dạng địa hình núi thấp, một dạng địa hình xâm thực, bóc mòn mà
đại diện cho loại địa hình này là núi Sáng ở địa phận hai xã Đồng Quế và
Lãng Công (Lập Thạch), cao 633m [16, 69-70].
Về mặt địa tầng, các thành tạo trầm tích, phun trào phân bố ở Vĩnh
Phúc gồm có giới Proterozoi, Mezozoi và Kainozoi, tổng chiều dày hàng chục
km phân chia thành các phân vị địa tầng sau:
12
- Giới Proterozoi (trầm tích biến chất cao từ đá phiến kết tinh đến
Amphibolit) đại diện là hệ tầng sông Hồng phân bố ở 3 vùng: Lập Thạch, Yên
Lập, Việt Xuân (Vĩnh Tường) và Vĩnh Yên. Bề dày các thành tạo Proterozoi
khoảng 1200-1500m.
Tại Lập Thạch: đất đá hệ tầng sông Hồng phân bố quanh khu vực núi
Sáng ở các xã Quang Sơn, Hợp Lý, Bắc Bình, Liễn Sơn. Thành phần gồm có
đá phiến thạch anh mica, granit, gơnaibiotit, đá hoa bị biến chất nhiệt động rất
mạnh dẫn đến tướng Amphibolit.
- Giới Mezozoi được thành tạo chủ yếu vào giai đoạn Triat giữa-muộn
và Triat muộn. Hệ Triat thống giữa dày khoảng 1.200m, chủ yếu là các đá
phun trào axit lộ ra ở dải Tam Đảo, chiếm toàn bộ diện tích phần núi Tam
Đảo, nằm ở Đông Bắc đứt gãy sông Chảy. Hệ Triat trên, hệ tầng Văn Lãng
dày khoảng 500m được thành tạo ở môi trường đầm hồ vào giai đoạn biển
tiến lấn vào các cấu trúc sụt lún dọc theo các đứt gãy. Hệ tầng Văn Lãng có
tuổi Triat thống 3 bậc Nori-rêti chiếm một phần diện tích xã Đạo Trù (Lập
Thạch).
- Giới Kainozoi: Các đá thuộc giới này chủ yếu là các sản phẩm phong
hóa, các thành tạo aluvi, pronuvi, deluvi...). Hệ Neogen (N) thuộc giới
Kainozoi ở Vĩnh Phúc bao gồm nhiều hệ tầng như hệ tầng Phan Lương, hệ
tầng Xuân Hoà, hệ tầng Hà Nội, hệ tầng Vĩnh Phúc, hệ tầng Hải Dương và hệ
tầng Thái Bình [16, 85-89].
Về sông ngòi, huyện Lập Thạch có hai hệ thống sông chính là sông Lô
(ở phía Tây) và sông Phó Đáy (ở phía Đông Nam).
Sông Lô phát nguyên từ Vân Nam – Trung Quốc, chảy qua các tỉnh
Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ vào địa phận Vĩnh Phúc từ xã Quang Yên
– Lập Thạch, qua xã Việt Xuân (Vĩnh Tường) đến ngã ba Bạch Hạc thì đổ
vào sông Hồng. Sông Lô có lưu lượng dòng chảy bình quân 1.213m3/s, về
13
mùa mưa lên tới 3.230m3/s. Mực nước lúc cao nhất so với mực nước lúc thấp
nhất thường chênh nhau 6m. Hàm lượng phù sa trong mùa mưa 2.310kg/m3.
Sông Phó Đáy phát nguyên từ Bắc Kạn, chảy qua Tuyên Quang, vào
địa phận Vĩnh Phúc từ xã Quang Sơn (Lập Thạch) ở bờ phải và xã Yên
Dương ở bờ trái, chảy giữa huyện Lập Thạch và 2 huyện Tam Dương, Vĩnh
Tường rồi đổ vào sông Lô. Sông Phó Đáy có lưu lượng bình quân 23m3/s, lưu
lượng cao nhất là 833m3/s, mùa khô lưu lượng chỉ 4m3/s. Lưu lượng phù sa
của sông Phó Đáy cũng như sông Lô ở khoảng 2.440kg/m3.
Ngoài hệ thống sông ngòi, Lập Thạch còn có hệ thống đầm hồ lớn như
hồ Đá Ngang, hồ Khuôn, hồ Suối Sải, hồ Vân Trục, hồ Bò Lạc… [16, 76-77].
Về khí hậu, Vĩnh Phúc có hai mùa rõ rệt trong năm: Mùa khô bắt đầu
từ tháng 11 đến tháng 3 và mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10.
Mùa khô thường chịu ảnh hưởng của khối không khí lạnh thổi từ phương Bắc
đến từ cuối tháng 11 đến tháng Giêng. Mùa mưa thường có gió nồm theo
hướng Đông và Đông Nam đem theo nhiều hơi nước. Lượng mưa 6 tháng
mùa khô trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc dao động từ 330-360mm trong khi đó 6
tháng mùa mưa bình quân mưa tới 1.101mm. Nhiệt độ cao, mưa to, gió lớn,
hay có giông, mỗi năm có vài trận bão, độ ẩm cao. Nhiệt độ bình quân ở Lập
Thạch là 19-230C. Lượng mưa trung bình khoảng 2.600mm/năm, cường độ
mưa ở mùa mưa lớn nên đất đá đồi núi bị rửa trôi xói mòn mạnh và thường
gây ngập úng lũ lụt. Những tháng ít mưa, lượng mưa bình quân là 3894mm/tháng. Số giờ nắng 1034h-1420h/năm. Độ ẩm trung bình 87-91% [16,
107-112].
ở Lập Thạch có một số loại đất cơ bản sau:
- Phù sa sông Lô và sông Phó Đáy ở dọc theo sông Lô và sông Phó
Đáy. Có một số nơi phù sa sông Lô phân bố sâu vào nội tỉnh xen kẽ với loại
đất dốc tụ như ở Đôn Nhân. Nơi địa hình thấp hơn, thường xuyên có nước, sự
14
lắng đọng phù sa nhiều, tuy nhiên tính chất phù sa một phần bị pha trộn, phần
lớn từ độ sâu 50cm trở xuống đã có kết vón mangan và sản phẩm feralitic.
- Đất phù sa úng nước nội đồng được hình thành ở những nơi địa hình
trũng lòng chảo hoặc địa hình trũng sát ven đê.
- Đất dốc tụ trồng lúa bị bạc màu ở ven theo các đồi núi thấp. Loại đất
này chua nhiều, pha trộn nhiều cát, có nước thì tơi bở, ít lắng như đất bạc màu
[16, 94-101].
Như vậy, đất ở đây chủ yếu là loại đất bạc màu trên nền phù sa cổ, có
“sản phẩm feralitic” - còn gọi là đất laterit hoá.
Hải Lựu - nơi phát hiện di chỉ Gò Hội là một xã miền núi nằm về phía
Bắc của huyện Lập Thạch. Phía Bắc xã là núi cao, tiếp đó đến đồi thấp,
nghiêng dần về phía Nam tới những đồng chiêm trũng. Về phía Bắc, Hải Lựu
giáp với xã Bạch Lưu và xã Quang Yên, phía Đông giáp với xã Lãng Công,
phía Nam giáp với xã Đôn Nhân, phía Tây giáp với sông Lô. Tổng diện tích
đất tự nhiên của Hải Lựu là 1.061ha [1,7]. Tại Hải Lựu, năm 1982 các nhà
khảo cổ học đã phát hiện tại Gò Đồn một số công cụ bằng đá thuộc văn hoá
Sơn Vi, có niên đại 3–2 vạn năm cách ngày nay. Tại xã Đôn Nhân nằm ở phía
Nam xã Hải Lựu cũng phát hiện được hai di chỉ khảo cổ Gò Đặng và Gò Sỏi,
bước đầu xác định thuộc văn hoá Phùng Nguyên. Giáp với Hải Lựu, phía bên
kia sông Lô là di chỉ Xóm Rền (xã Gia Thanh, huyện Phù Ninh – Phú Thọ) –
một di chỉ thuộc văn hoá Phùng Nguyên (bđ. 3).
Như trên đã nói, di chỉ Gò Hội nằm ở thôn Đồng Soi, xã Hải Lựu,
huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là một gò đất đỏ có diện tích khoảng
2ha, nằm trên cánh đồng màu. Gò Hội có toạ độ 21°28’30” vĩ độ Bắc và
105°20’50” kinh độ Đông [23, 87], cách sông Lô khoảng 300m về phía Tây
và cách trung tâm xã Hải Lựu khoảng 1km về phía Tây Nam (ba.1).
15
Gò Hội nằm trong hệ thống những đồi gò thấp ở ven sông, xung
quanh được bao bọc bằng những dải ruộng trũng. Phía Bắc và Đông Bắc gò là
Đồng Trang; phía Đông và Đông Nam là Trũng Hóp, phía Tây Nam là đồng
Cây Xộp. Qua các dải ruộng trũng này, về phía Nam Gò Hội là Gò Rào, phía
Tây là Gò Ông Vựa và xa hơn - gần phía sông Lô là Gò Bỏi (ba.3). Gò Hội,
xét về độ cao, là thấp nhất so với các gò ở đây (Sđ.1).
1.1.2. Vị trí địa lý, cấu tạo địa chất, địa hình, cảnh quan di chỉ
Đình Chiền (Liên Hà - Đông Anh)
Địa điểm khảo cổ học Đình Chiền thuộc thôn Lỗ Khê, xã Liên Hà,
huyện Đông Anh, huyện ngoại thành nằm ở phía Bắc thủ đô Hà Nội có
diện tích 184,16km2 bao gồm 23 xã, 1 thị trấn. Phía Bắc giáp huyện
Sóc Sơn, phía Tây giáp huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc), phía Đông giáp hai
huyện Yên Phong và Từ Sơn (Bắc Ninh), phía Tây Nam và Đông Nam
có con sông Hồng là gianh giới tự nhiên với thủ đô Hà Nội và huyện
Gia Lâm (bđ.2).
Đông Anh nằm ở vị trí khá đặc biệt. Nếu phân chia tam giác châu sông
Hồng thành 3 vùng với giới hạn một bên là dãy Ba Vì, một bên là dãy Tam
Đảo và trục chính là sông Hồng: vùng cao (thượng), vùng giữa (trung), vùng
thấp (hạ) ứng với 3 đỉnh tam giác châu thì Vĩnh Phú là vùng đỉnh xưa nhất
của tam giác châu sông Hồng; ngã ba sông Hồng, sông Đuống gần Cổ Loa là
đỉnh thứ hai và thị xã Hưng Yên là đỉnh thứ ba mà cạnh đáy nằm ven biển từ
Yên Lập (Quảng Ninh) tới Nho Quan rìa Ninh Bình. Như vậy Đông Anh gần
như nằm trên trục chính của tam giác châu sông Hồng, là miền giáp ranh
trung du - đồng bằng [15]. Do nằm trong vùng đất cao Tây Bắc nên Đông
Anh có địa hình nghiêng từ Tây Bắc (Cổ Loa: cốt 11-12m) xuống Đông Nam
(Liên Hà: cốt 5-6m) [34, 7].
16
Đông Anh là cái gạch nối giữa miền trung du và miền đồng bằng Bắc
bộ nên tính chất giáp ranh này thể hiện rõ về mặt thổ nhưỡng: từ một vùng đất
feralitic vàng đỏ phát triển trên nền phù sa cổ đến một vùng bãi và phù sa trên
bãi ngoài đê, từ một vùng đất bạc màu đến một vùng cát pha, đến một vùng
đất thịt. Đông Anh là gờ cuối cùng của một miền Bắc thềm cổ nhìn ra một
vùng lõm võng của đồng bằng [32].
Về mặt địa chất, do Đông Anh nằm gọn trong tam giác châu sông Hồng
nên hầu như bị phủ bởi trầm tích Đệ Tứ, chủ yếu là bồi tích của sông Hồng
(bđ.4). Nằm dưới chúng là các trầm tích Nêôgen, chiều dày chung mặt cắt
Kainôzôi thuộc đới này lên tới 3.500m.
Các lỗ khoan thăm dò địa chất cho biết đây là vùng địa hình đá gốc có
bề mặt mấp mô kiểu đồi gò sót, nhưng do sự bồi đắp phù sa của hệ thống
sông Hồng đã làm cho địa hình bằng phẳng hơn. Ngoài các đồi gò, thềm cổ,
Đông Anh còn là vùng đất bồi cao của sông suối. Như vậy, do vị trí nằm ở rìa
đồng bằng, nên khu vực Đông Anh mang cả hai chế độ phù sa khác nhau, phù
sa cổ và phù sa hiện đại.
Về sông ngòi, Đông Anh có 2 hệ thống sông chính: Sông Cà Lồ ở phía
Bắc, sông Hồng ở phía Tây Nam.
Sông Hồng bắt nguồn từ dãy Nguy Sơn (Vân Nam - Trung Quốc), dài
1.160km, chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, vào nước ta từ Hồ Khẩu
(Lào Cai). Lưu lượng nước bình quân là 3.630m3/s, thấp nhất về mùa cạn là
840m3/s, mùa lũ là 7.020m3/s. Sông Hồng qua địa phận Hà Nội từ xã Phong
Vân (Ba Vì) đến xã Trung Châu (Đan Phượng). Đoạn từ xã Trung Châu đến
xã Liên Trung (Đan Phượng) là ranh giới giữa 2 huyện Từ Liêm và Đông
Anh.
Sông Cà Lồ là 1 nhánh của sông Hồng, tách ra từ xã Trung Hà (Yên
Lạc, Phú Thọ), là ranh giới tự nhiên giữa huyện Sóc Sơn và huyện Mê Linh,
Đông Anh.
17
Ngoài hệ thống sông chính, giang phận Đông Anh còn có sông Đuống
ở phía Đông Nam, sông Thiếp ở phía Đông Bắc, sông Ngũ Huyện Khê ở phía
Đông. Rải rác khắp nơi là hệ thống đầm, hồ, ao chuôm cổ từ chân núi Sóc đến
vùng thềm phù sa cổ. Đáng chú ý là dọc đôi bờ sông Ngũ Huyện Khê là địa
bàn tập trung dày đặc các di chỉ khảo cổ học thời đại Kim khí như Đồng Vông
(Cổ Loa), Xuân Kiều (Dục Nội), Tiên Hội (Đông Hội), Bãi Mèn (Cổ Loa),
Đình Tràng (Dục Tú), Đường Mây (Cổ Loa), Lỗ Giao (Liên Hà), Đình Chiền
(Lỗ Khê)… [34, 30].
Về khí hậu, Đông Anh cũng như các tỉnh đồng bằng Bắc bộ mang đặc
điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa đông lạnh, khô nhưng cuối mùa khá
ẩm ướt với hiện tượng thời tiết nồm và mưa phùn. Mùa hạ nắng nóng, nhiều
mưa. Nhiệt độ bình quân từ 23-240C. Lượng mưa trung bình khoảng 1.6001.800mm/năm, độ ẩm trung bình 82% [31].
Liên Hà là một trong 23 xã của huyện Đông Anh, ngoại thành
Hà Nội. Phía Đông giáp xã Vân Hà, phía Bắc giáp xã Thuỵ Lâm, phía Tây
giáp xã Uy Nỗ, phía Tây Nam giáp xã Việt Hùng, phía Đông Nam giáp xã
Dục Tú. Thời thuộc Hán, Liên Hà thuộc đất Phong Khê, quận Giao Chỉ, thời
nhà Triệu thuộc quận Vũ Bình, rồi huyện Bình Đạo thời Tây-Đông Hán,
thuộc đất Phong Châu thời Đường. Thời Trần và đầu Lê, Liên Hà thuộc
huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn. Thời Nguyễn, thuộc huyện Đông Ngàn, phủ
Từ Sơn, trấn (xứ) Kinh Bắc, năm 1822 (Minh Mạng) đổi là tỉnh Bắc Ninh.
Thời Pháp thuộc, năm 1905 sau khi lập tỉnh Phủ Lỗ, thực dân Pháp đổi thành
tỉnh Phúc Yên, bao gồm 2 phủ (Đa Phúc và Yên Lãng) và 2 huyện (Đông Anh
và Kim Anh). Năm 1948, xã Ngũ Hà nhập với xã Hà Vĩ thành xã Liên Hà,
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tháng 6-1961 huyện Từ Sơn giải thể, xã Liên
Hà thuộc huyện Đông Anh
18
Đình Chiền là tên gọi một cánh đồng nằm phía Tây Nam thôn Lỗ Khê,
xã Liên Hà, có toạ độ 21009’028’’ vĩ Bắc, 105053’250’’ kinh Đông, cách
huyện lỵ Đông Anh khoảng 5km (sđ. 2, ba.2). Thôn Lỗ Khê xưa gọi là Lỗ
Khê Trang, theo các nguồn sử sách xưa, đây là vùng đất có những điều kiện
tự nhiên khá đặc biệt, mang đặc trưng của vùng đồng bằng cao trước chân núi
xen lẫn những ô trũng đọng nước quanh năm. Đất Lỗ Khê có nhiều gò, đống,
địa hình giữa các khu cư dân bị chia cắt bởi nhiều khe lạch nhỏ, tương truyền
là dấu chân ngựa Gióng [14]. Tại Lỗ Khê, đã phát hiện vỉa than bùn trải dài
gần 2km, dày tới 2-3m, còn thấy cả dấu tích cành gai, thân lá cọ, rễ
cây...chứng tỏ khu vực này trước đây là rừng rậm, đầm lầy. Trong quá trình
khai thác than bùn, đã phát hiện một số mảnh gốm thô, một số rìu đá, vòng
trang sức bằng đá, rìu đồng và một mũi giáo đồng màu xanh đen [32]. Tại xã
Dục Tú nằm ở phía Đông Nam xã Liên Hà cũng phát hiện được di chỉ Đình
Tràng – nơi tìm thấy diện mạo của cả ba giai đoạn văn hoá nối tiếp nhau
Đồng Đậu – Gò Mun - Đông Sơn, niên đại 2.200-3.500 năm cách ngày nay.
1.2. Quá trình phát hiện và nghiên cứu vấn đề
Văn hóa Phùng Nguyên (giai đoạn hậu kỳ) xuất hiện một loại hình di
tích đáng chú ý với các hố đất đen lớn ăn sâu vào sinh thổ, phân bố dày đặc
trong các hố khai quật, trong khi tầng văn hoá tìm được khá mỏng, dấu vết cư
trú rất mờ nhạt. Loại hình di tích này đã được phát hiện từ những năm 1959 ở
các di chỉ Phùng Nguyên, Nghĩa Lập, Lũng Hòa, Đồng Đậu (lớp Phùng
Nguyên)... và gần đây là Gò Hội (Lập Thạch - Vĩnh Phúc), Đình Chiền (Lỗ
Khê - Đông Anh), Bãi Mèn (Cổ Loa-Đông Anh), Thành Dền (lớp dưới cùng)
(Mê Linh - Vĩnh Phúc)...
19
Di chỉ Phùng Nguyên (xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ)
được phát hiện năm 1959 và được khai quật 3 lần với tổng diện tích khai quật
hơn 3.960m2.
Đợt khai quật lần thứ nhất, năm 1959, Đội Khai quật đã đào 2 hố thám
sát, 6 hố khai quật, diện tích 158m2, phát hiện được 9 hố đất đen có kích
thước lớn, những người khai quật gọi đó là những bếp lò. Do là cuộc khai
quật đầu tiên nên có thể những hố đất đen nhỏ, đường kính từ 0,1m-0,2m
không được chú ý và đã bị đào đi cùng tầng văn hoá. Vì vậy, số lượng hố đất
đen trên thực tế có thể sẽ nhiều hơn số hố được thống kê trong báo cáo [19,
27-34].
Đợt khai quật lần thứ hai, năm 1961, Đội Khảo cổ đã đào
22 hố với tổng diện tích 3.700m2, phát hiện được 3.208 hố đất đen
(khu A: 1.450 hố; khu B: 1.758 hố). Các hố đất đen này phân bố dày đặc
trong các hố khai quật, chỉ riêng hố A5, diện tích 400m2 đã có tới 583 hố, hố
B6, diện tích 100m2 có 356 hố.
Đợt khai quật lần thứ ba, năm 1968, khoa Sử, đại học Tổng hợp tiến
hành đào 1 hố, diện tích 100m2 cũng đã phát hiện được 22 hố đất đen.
Các nhà khảo cổ cho rằng, những hố đất đen có lẫn nhiều than tro, đất
nung có nhiều khả năng là các bếp nguyên thuỷ. Những hố có kích thước lớn,
sâu, trong chứa nhiều mảnh gốm vỡ, công cụ đá, xương răng động vật, có thể
lúc đầu được đào làm chỗ cất dấu lương thực, dụng cụ, sau khi thôi không
dùng, bị đất bẩn, mùn rác lấp dần thành hố đất đen [4].
Di chỉ Đồng Đậu (xã Minh Tân, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc)
được phát hiện năm 1962 và khai quật 6 lần vào các năm 1965-1966, 1967,
1968-1969, 1984, 1987 và 1999 với tổng diện tích 758m2.
20
Tầng văn hoá di chỉ Đồng Đậu rất dày, phân bố không đều. Lớp dưới
cùng (lớp 4) có độ sâu 2,6-3,2m đã xuất lộ 148 huyệt đất hình dáng khác
nhau, ăn sâu xuống sinh thổ và nhiều vết tích bếp nguyên thuỷ chứa đầy than
tro, xương răng động vật, hiện vật đá, gốm các loại... có đặc điểm thuộc văn
hoá Phùng Nguyên [7].
Di chỉ Lũng Hoà (xã Lũng Hoà, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc)
được phát hiện năm 1963. Năm 1965-1966, Đội Khảo cổ đã đào 4 hố với diện
tích 365m2. Từ cuối lớp thứ 3 xuất hiện một số hố đất đen phân bố không theo
qui luật, hình dạng gần tròn, đường kính từ 0,3m-0,4m, sâu từ 0,1m-0,15m,
trong hố chứa công cụ đá, một số mảnh gốm thô, kích thước khá lớn và hai hố
tròn tương đối lớn, đường kính từ 1,2m-2,3m, sâu từ 0,7m-1,5m. Những
người khai quật cho rằng, những hố đất đen này lúc đầu được đào làm nơi cất
dấu lương thực, dụng cụ, sau khi không dùng nữa nó biến thành chỗ chứa
đựng những đồ gốm vỡ cũng như những vật hư hỏng hàng ngày [3]. Để
nghiên cứu thêm, năm 2000, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đã mở một hố thám
sát tại Lũng Hoà, diện tích 23m2. Trên bề mặt sinh thổ xuất hiện những hố đất
đen lớn hình vuông kích thước khoảng 1m, sâu trên dưới 2m, ăn sâu vào sinh
thổ, đất trong hố có màu đen lẫn nhiều than tro, đất nung, hiện vật đá và các
mảnh gốm lớn có thể phục nguyên hoặc gần nguyên. Hiện tượng này rất
giống với các hố đất vuông ở di chỉ Đồng Đậu [29, 203].
Di chỉ Nghĩa Lập (xã Nghĩa Hưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh
Phúc) được phát hiện năm 1962-1963, được Đội Khảo cổ khai quật năm 1967,
5 hố với tổng diện tích 180m2. Lớp thứ 3 đã phát hiện được 17 hố đất đen
rộng từ 0,8-1,0m, sâu khoảng 0,43-1,0m và 144 lỗ cọc, phân bố đều khắp diện
tích khai quật. Hiện vật trong hố đất đen không nhiều, chủ yếu là các mảnh
gốm vỡ và một số đồ đá. Có một số mảnh nồi vỡ còn tương đối lớn có thể
phục chế được. Đồ đá có rìu, vòng, bàn mài. ở một số hố có dấu vết của than
21
củi và một số tảng đất nung. Những người khai quật cho rằng những hố đất
đen này có thể là vết tích bếp của người đương thời [11].
Di chỉ Gò Hội (xã Hải Lựu, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc) được
phát hiện năm 2000 [5] và được Bộ môn Khảo cổ học khai quật hai lần năm
2002, 2003 với tổng diện tích là 267m2, gồm 6 hố khai quật và 1 hố thám sát.
Tư liệu địa tầng cho thấy di chỉ này có những hố/lỗ đất đen được khoét sâu
vào sinh thổ bên cạnh vết tích cư trú. Đợt khai quật lần thứ nhất phát hiện
được 26 hố đất đen, đợt khai quật lần thứ hai phát hiện được 11 hố đất đen.
Các hố đất đen này có hình dạng, kính thước và độ sâu khác nhau. Dựa vào
cấu trúc của các hố đất đen xuất hiện trong di chỉ, những người khai quật cho
rằng những hố đất đen lớn có khả năng là mộ, một số hố đất đen nơi có nhiều
than tro, đất nung... có thể là vết tích bếp, một số khác chỉ là đống rác hoặc
vết lan của một hố đất đen khác [8; 21].
Di tích Đình Chiền (xã Liên Hà, huyện Đông Anh - Hà Nội) được
phát hiện năm 2001 và được Bộ môn Khảo cổ học khai quật hai lần trong các
năm 2002-2003, tổng diện tích 302m2 . Tại địa điểm này đã phát hiện 34 hố
/lỗ đất đen ăn sâu vào sinh thổ với mật độ dày, phân bố không theo qui luật
[14; 9]. Trong các hố đất đen có hiện tượng gốm cháy, lẫn than tro và nhiều
cục đất nung, hiện vật tìm thấy gồm công cụ đá, phế liệu công cụ, đồ trang
sức đá, bi gốm, chạc gốm và nhiều gốm vụn. Một số hố đất đen khác tìm thấy
những nồi vò lớn đặt nghiêng hoặc úp có thể phục nguyên. So sánh với lần
khai quật đầu tiên và kết quả khai quật của địa điểm Gò Hội những người khai
quật Đình Chiền lần thứ hai đưa ra ý kiến có thể những hố đất thẫm màu
đào vào sinh thổ này là một loại mộ táng của văn hoá Phùng Nguyên giai
đoạn muộn [9].
Di chỉ Bãi Mèn (Cổ Loa-Đông Anh-Hà Nội) được phát hiện vào năm
1959, đến nay đã qua 4 lần thám sát và khai quật với tổng diện tích lên tới
trên 700m2. Đợt khai quật tháng 10-2003 của Viện Khảo cổ học, cũng tìm
22
thấy 23 hố đất đen đào sâu vào sinh thổ [12] trong đó có 1 hố có cấu trúc
tương tự như một số hố đất đen ở Đình Chiền. Di chỉ này đến nay chưa có
báo cáo khai quật.
Di chỉ Thành Dền (Tự Lập-Mê Linh-Vĩnh Phúc), được phát hiện năm
1970 và đã trải qua hai lần thám sát vào năm 1972, 1982, bốn lần khai quật
vào các năm 1983, 1984, 1996, 2004 với tổng diện tích 179,5m2 [26; 24; 20;
10; 22]. Cuộc khai quật lần thứ nhất, báo cáo khai quật có nhắc đến những hố
đất đen đào vào sinh thổ sâu tới 2,5m nhưng không miêu tả cụ thể về kích
thước và cấu trúc của chúng [26]. Cuộc khai quật năm 2004, tại hố HI đã phát
hiện 4 hố đất khá vuông xuất hiện từ lớp 11, có kích thước từ 0,8m-2,0m, sâu
từ 0,77m-1,26m đào sâu vào sinh thổ. Những người khai quật đưa ra giả thiết
rằng đây là những hố đào để lấy đất sét làm gốm, sau đó trở thành nơi vứt
những đồ gốm, công cụ đá vỡ, hỏng. Niên đại của các hố đất đen này thuộc
giai đoạn Phùng Nguyên muộn và Đồng Đậu sớm [10; 22].
Như vậy, những kết quả nghiên cứu về hố đất đen qua các cuộc khai
quật nêu trên cho thấy loại hình di tích hố đất đen xuất hiện khá phổ biến
trong một số địa điểm thuộc giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên muộn nhưng
hầu như chưa được chú ý đúng mức và tách riêng để nghiên cứu.
1.3. Kết quả khai quật di chỉ Gò Hội và Đình Chiền
1.3.1. Kết quả khai quật di chỉ Gò Hội
Di chỉ Gò Hội (toạ độ 21°28’30” vĩ độ Bắc, 105°20’50” kinh độ
Đông) được Hoàng Xuân Chinh và Nguyễn Văn Ninh phát hiện lần đầu tiên
tháng 5 năm 2000 và được Bộ môn Khảo cổ học -Khoa Lịch Sử - Trường ĐH
KHXH&NV Hà Nội khai quật hai lần vào năm 2002, 2003 [5; 8; 2; 21].
Lần khai quật lần thứ nhất (tháng 12-2002), ba hố khai quật được mở
ở khu vực Tây Nam và Đông Bắc Gò Hội (sđ. 1).
23
Hố I (ký hiệu 02.GH.HI) có diện tích 30m2 (6x5m) được mở theo
hướng Bắc-Nam, trên khu đất trống nằm sát đường đi và mương dẫn nước
(góc phía Tây Nam gò). Hố II (ký hiệu 02.GH.HII) mở theo hướng Bắc-Nam,
có diện tích 90m2 (15x6m) được mở cách hố 02.GH.HI khoảng 8,3m về phía
Bắc. Hố III (ký hiệu 02.GH.HIII) diện tích 30m2 (6x5m) được mở ở phía
0
Đông Bắc gò, hướng Bắc lệch Đông 55 .
Hố thám sát (ký hiệu 02.GH.TS) diện tích 1m2, được mở ở phía Đông
gò, cách hố I khoảng 100m.
Tổng diện tích thám sát và khai quật lần thứ nhất là 151 m2 [8]
Ngoài ra, đoàn khai quật còn tiến hành khảo sát xung quanh khu vực
gò, thám sát hai vách Đông Nam và Tây Bắc của di chỉ.
Diễn biến địa tầng giữa các hố trong đợt khai quật này có sự khác
nhau. Hố khai quật 02.GH.HI và 02.GH.HII có địa tầng giống nhau (bv.1, 2),
và khác với địa tầng hố 02.GH.HIII (bv.3) và 02.GH.TS (bv.4).
Diễn biến địa tầng hố 02.GH.HI và 02.GH.HII:
- Lớp đất canh tác dày 40-50cm, đất vàng đỏ tơi xốp lẫn một số mảnh
gốm thô và một vài mảnh gốm sứ muộn, đất khá mịn.
- Dưới lớp đất canh tác, trên bề mặt của cả hai hố I và II xuất lộ nhiều
vòng đất đầu ruồi sẫm màu (hố đất đen) trên mặt phẳng đất sét vàng đỏ, có
đường kính trung bình trên 1m và những lỗ đất đen nhỏ, có đường kính dưới
30cm (ba.4). Các hố đất đen đều ăn sâu xuống sinh thổ, trong hố chứa gốm
vụn nén chặt lẫn đất nung, than tro và đôi khi cả thổ hoàng. Những lỗ đất sẫm
màu nhỏ đa phần có dạng gần tròn giống lỗ cột, chỉ chứa vài mảnh gốm nhỏ
và ít than tro. Hiện vật thu được chủ yếu trên bề mặt, trong và dưới đáy những
hố đất đen, khu vực xung quanh hầu như không thấy hiện vật.
- Sinh thổ là đất laterit cứng, màu đỏ.
24
Diễn biến địa tầng hố 02.GH.HIII:
- Lớp đất canh tác màu vàng đỏ dày khoảng 30-40cm, đất tơi mịn lẫn
một số mảnh gốm thô, mảnh gốm sứ muộn.
- Tầng văn hóa là lớp đất đầu ruồi sẫm màu, dàn trải không đều, dày
khoảng 30-40cm ở góc A (phía gần vách ngoài của gò) và mỏng dần ở các
góc B và D của hố khai quật (phía trong gò). Không thấy hiện tượng hố đất
đen có chứa các cụm hiện vật như hai hố khai quật I và II ở phía Tây Nam gò,
do đó ở đây đã sử dụng phương pháp khai quật truyền thống bóc từng lớp dày
5cm. Hiện vật khá thưa gồm một số mảnh gốm vụn và một vài công cụ đá
như rìu, bàn mài... Xuất lộ một số đồ gốm nguyên rải rác ở các ô d5, d6.
Những đồ gốm này rất mỏng và bở nên rất khó phục dựng hình dáng. Hiện
vật đá và gốm của hố III không có sự khác biệt so với hố I và II.
- Sinh thổ là đất Laterit màu đỏ, cứng.
Hố thám sát được mở ở phía Đông, gần đỉnh gò. Tại đây không thấy
vết tích văn hoá. Các tầng đất diễn biến như sau: Trên cùng là lớp canh tác đất
màu nâu vàng, tơi xốp có lẫn một vài mảnh gốm thô và mảnh gốm sứ muộn.
Phía dưới là lớp đất màu nâu bị Laterit hoá cứng. Dưới cùng là lớp đất Laterit
cứng, màu đỏ lẫn sạn sỏi đá ong.
Để tìm hiểu kỹ hơn về tính chất, chức năng, cấu trúc của những hố đất
đen đã phát hiện trong đợt một, cũng như về loại hình di tích này trong văn
hóa Phùng Nguyên, Bộ môn Khảo cổ học, Khoa Lịch Sử-Trường ĐH
KHXH&NV Hà Nội đã tiến hành khai quật di chỉ Gò Hội lần thứ hai (tháng
12.2003). Lần này đoàn khai quật cũng mở ba hố khai quật ở các khu vực
Đông Nam và Tây Nam của Gò Hội (sđ. 1).
Hố I (ký hiệu 03.GH.HI) diện tích 50m2 (10x5m), mở theo hướng Bắc
0
Nam lệch Tây 4 . Hố I có vị trí gần với hai hố khai quật 02.GH.HI và
25
- Xem thêm -