Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đặc tính dân tộc trong việc giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên trong gia đ...

Tài liệu đặc tính dân tộc trong việc giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên trong gia đình (nghiên cứu trường hợp dân tộc tày, xã tân thanh, huyện văn lãng, tỉnh lạng sơn)

.PDF
76
518
124

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ AN NI ĐẶC TÍNH DÂN TỘC TRONG VIỆC GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CHO TRẺ VỊ THÀNH NIÊN TRONG GIA ĐÌNH (Nghiên cứu trường hợp dân tộc Tày, xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn) Chuyên ngành : Xã hội học Mã số : 60 31 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS. TS. Phạm Văn Quyết Hà Nội, 2009 MỤC LỤC Trang MỤC LỤC ................................................................................................................ 1 DANH MỤC CÁC BẢNG ......................................................................................... 3 DANH MỤC CÁC HÌNH ........................................................................................... 3 DANH MỤC CÁC HỘP ............................................................................................. 3 MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 4 1. Lý do lựa chọn đề tài .................................................................................... 4 2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài .......................................... 6 3. Mục tiêu nghiên cứu..................................................................................... 6 4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu ................................................... 6 5. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................. 7 6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết .................................................... 8 NỘI DUNG CHÍNH................................................................................................ 10 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ............................................................................................................................ 10 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.......................................... 10 1.2. Hệ thống lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu .......................................... 10 1.3. Hệ thống khái niệm sử dụng trong đề tài ................................................. 13 1.4. Tổng quan vấn đề nghiên cứu .................................................................. 18 1.5. Vài nét về địa bàn nghiên cứu ................................................................. 24 CHƢƠNG 2. ĐẶC TÍNH DÂN TỘC TRONG VIỆC GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CHO TRẺ VỊ THÀNH NIÊN TRONG CÁC GIA ĐÌNH DÂN TỘC TÀY ......... 26 2.1. Kiến thức của cha mẹ trong lĩnh vực giới tính và tầm quan trọng của giáo dục giới tính đối với trẻ vị thành niên ............................................................. 26 2.1.1. Hiểu biết của cha mẹ về tuổi dậy thì, sự thay đổi tâm sinh lý và các mối quan hệ bạn bè của con ...................................................................... 26 2.1.2. Quan niệm của cha mẹ về vấn đề quan hệ tình dục trƣớc hôn nhân và những điều cấm kỵ của dân tộc Tày liên quan tới vấn đề này .................... 38 2.1.3. Nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục giới tính đối với trẻ vị thành niên ................................................................................................. 44 2.2. Nội dung và phƣơng pháp giáo dục giới tính cho con trong độ tuổi vị thành niên của cha mẹ ngƣời Tày ............................................................................. 46 2.2.1. Các nội dung về biến đổi tuổi dậy thì cha mẹ ngƣời Tày dạy cho con ................................................................................................................. 46 2.2.2. Phƣơng pháp giáo dục giới tính của cha mẹ với con trong tuổi vị thành niên ................................................................................................. 53 2.2.3. Đánh giá của cha mẹ về kiến thức giới tính của con ........................ 61 2.3. Giáo dục giới tính trong gia đình nhìn từ góc độ trẻ vị thành niên............ 63 2.3.1. Đánh giá về vai trò của gia đình trong việc giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên ............................................................................................. 63 2.3.2. Mong muốn về các thông tin giới tính đƣợc cung cấp ..................... 66 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ......................................................................... 68 1. Kết luận ................................................................................................................ 68 2. Khuyến nghị ......................................................................................................... 70 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1. Hiểu biết của cha mẹ về sự thay đổi cơ thể ở con trai và con gái khi dậy thì 29 Bảng 2.2. Nhận xét của cha mẹ về sự thay đổi tâm lý khi trẻ dậy thì 30 Bảng 2.3. Tƣơng quan giữa sự cần thiết trao đổi với con về biến đổi tuổi dậy thì và có nói chuyện với con về vấn đề giới tính 45 Bảng 2.4. Tƣơng quan giữa ngƣời có quyền quyết định cao nhất trong gia đình và ngƣời nói với con về vấn đề giới tính 54 Bảng 2.5. Tƣơng quan giữa thái độ của cha mẹ ngƣời Kinh và ngƣời Tày khi con hỏi về vấn đề giới tính 56 Bảng 2.6. Tƣơng quan giữa thái độ trả lời con về vấn đề giới tính và thời điểm chủ động nói với con về vấn đề này 58 Bảng 2.7. Tƣơng quan giữa hình thức cung cấp thông tin giữa cha và mẹ 60 Bảng 2.8. Tƣơng quan giữa trình độ học vấn của cha mẹ và việc giới thiệu sách, báo, tạp chí cho con tìm hiểu các kiến thức giới tính 60 DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1. Tƣơng quan giữa hiểu biết của cha và mẹ về số lần cần thay băng vệ sinh 33 Hình 2.2. So sánh giữa tâm trạng của cha mẹ ngƣời Tày và ngƣời Kinh khi con gái trong tuổi vị thành niên mang thai 40 Hình 2.3. Hành động của cha mẹ khi con gái có thai 41 Hình 2.4. So sánh sự cần thiết trao đổi với con về các vấn đề liên quan tới tuổi dậy thì giữa cha mẹ ngƣời dân tộc Kinh và dân tộc Tày 45 Hình 2.5. Hình thức cung cấp thông tin về giới tính cho trẻ vị thành niên 59 DANH MỤC CÁC HỘP Hộp 2.1. Lễ cúng sláo lƣờn của ngƣời Tày 42 Hộp 2.2. Chuyện của Lộc Thị B 52 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Trong vài thập niên gần đây, các công trình nghiên cứu về tâm lý học, giáo dục học cho thấy gia tốc phát triển của trẻ em rất nhanh. Điều này biểu hiện thông qua sự trưởng thành và chín muồi nhanh về sinh lý giới tính (tuổi dậy thì phát triển sớm hơn) và sự phát triển của tâm lý giới tính (nhu cầu quan hệ giới tính phát triển, quan hệ với bạn bè khác giới, ứng xử với bạn khác giới…). Ở lứa tuổi dậy thì, các em bắt đầu nảy sinh sự tò mò khám phá bản thân, những cảm xúc, tâm lý, các trạng thái tình cảm mới mẻ, khác biệt với những gì các em đã từng trải qua trước đây. Mặc dù vậy, những kiến thức được trang bị cho các em về vấn đề giới tính, tình bạn, tình yêu còn rất hạn chế và không đầy đủ, chính xác. Là một nước Á đông, giáo dục giới tính (GDGT) là một là một đề tài tế nhị nên từ xưa đến nay ít được đề cập tới. Nhiều người quan niệm rằng việc dạy dỗ cho trẻ em về vấn đề này chính là “Vẽ đường cho hươu chạy”. Chính vì vậy, trong một thời gian dài trước kia, cả nhà trường, gia đình và xã hội đều hạn chế đề cập tới. Hiện nay, quan niệm về vấn đề này đã cởi mở hơn nhưng việc GDGT cũng còn nhiều bất cập. Trong nhà trường, những nội dung này thường được lồng ghép trong môn Sinh học và Giáo dục công dân. Cả giáo viên và học sinh đều có tâm lý ngại ngùng, xấu hổ khi giảng dạy về sự phát triển của sinh lý nam và nữ. Trong gia đình, không phải bậc phụ huynh nào cũng có kiến thức đầy đủ và hiểu được tầm quan trọng trong việc GDGT cho con ở lứa tuổi vị thành niên (VTN). Như vậy, cả gia đình và nhà trường đã không thực hiện được chức năng giáo dục, cung cấp các thông tin hữu ích nhất, giải đáp những thắc mắc cho trẻ trong lứa tuổi từ trẻ em dần trở thành người lớn. Trong khi ngoài xã hội, với sự bùng nổ của các phương tiện truyền thông đại chúng thì trẻ VTN lại có nhiều nguồn khác nhau để tiếp cận với những loại thông tin này. Chính bởi sự lan tràn về thông tin như vậy khiến VTN gặp nhiều khó khăn trong việc thu được với những thông tin mang tính khoa học, thực sự cần thiết với các em. Theo thống kế của Hội Kế hoạch hóa gia đình, cũng bởi thiếu sự hiểu biết trong cách ứng xử trong tình bạn, tình yêu, cùng kiến thức hạn chế về vấn đề sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục mà Việt Nam mỗi năm có 1,2 triệu – 1,6 triệu ca nạo phá thai, trong đó 20% ở lứa tuổi VTN và là một trong ba nước có tỷ lệ phá thai 4 cao nhất thế giới [41]. Tại bệnh viện Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh, năm 2004 có trên 30.000 trường hợp nạo phá thai, trong đó gần 5.000 em gái dưới 19 tuổi [16]. Các trường hợp nạo phá thai đều để lại những hậu quả rất lớn cho chính bản thân nạn nhân và gia đình, xã hội. Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số năm 1999, cả nước có gần 24 triệu người ở lứa tuổi VTN, thanh niên (10-24 tuổi), chiếm 31,6% tổng dân số. 22,2% nam thanh niên chưa lập gia đình đã có quan hệ tình dục (QHTD) trước hôn nhân, trong số đó có 21,5% QHTD với gái mại dâm; có trên 30% số ca nạo phá thai là phụ nữ trẻ chưa lập gia đình [17]. Nhìn vào những số liệu trên đây, thật đáng lo ngại cho tương lai của thế hệ trẻ nước ta. Chính vì vậy, việc GDGT cho VTN, thanh niên dù không còn sớm nhưng vẫn có ý nghĩa hết sức quan trọng. Về đồng bào dân tộc ít người, một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ QHTD trước hôn nhân của thanh niên nhóm dân tộc thiểu số đã lập gia đình 15-24 tuổi tương ứng là 39,8% và 26,1% cho nhóm nam giới và nữ giới. Đây được coi là hành vi bình thường theo phong tục tập quán của một số dân tộc thiểu số. Tỷ lệ này cao hơn so với nhóm thanh niên tuổi 18-25 chưa lập gia đình (nam: 13,6% và nữ 2,2%). Trong số nữ thanh niên trả lời đã QHTD trước hôn nhân có 26,8% số chưa lập gia đình trả lời đã từng có thai. Như vậy cứ 4 người đã QHTD trước hôn nhân thì 1 người đã mang thai [6]. Dân tộc Tày là một cộng đồng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái có số dân khoảng 1.500.000 người, đông nhất trong các dân tộc thiểu số nước ta. Ở Lạng Sơn, dân tộc Tày chiếm số lượng đông đảo nhất. Là một dân tộc thiểu số lại nằm ở tỉnh phía Bắc Việt Nam, đời sống của người dân ở đây còn gặp nhiều khó khăn và nhận thức cũng còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, sự quan tâm của cha mẹ tới GDGT cho con cái trong lứa tuổi VTN còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, yếu tố văn hóa dân tộc cũng có những ảnh hưởng nhất định tới việc GDGT cho con cái. Nghiên cứu “Đặc tính dân tộc trong việc giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên trong gia đình (nghiên cứu trường hợp dân tộc Tày tại xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn)” nhằm tìm hiểu các yếu tố, các đặc trưng của tộc người có ảnh hưởng như thế nào tới nhận thức của cha mẹ về tầm quan trọng của việc GDGT cho con cái trong lứa tuổi VTN, cũng như những nội dung, phương pháp, cách thức họ dạy dỗ con về vấn đề này. 5 2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 2.1 Ý nghĩa khoa học - Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học cho việc xây dựng một chương trình hỗ trợ, nâng cao kiến thức, kỹ năng cho cha mẹ thuộc nhóm các dân tộc ít người trong việc GDGT cho con ở lứa tuổi VTN. - Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ thêm những khái niệm, phương pháp của Xã hội học, góp phần bổ sung các tri thức thực tiễn vào hệ thống tri thức và phương pháp nghiên cứu môn xã hội học Gia đình, xã hội học Văn hóa. 2.2. Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả nghiên cứu nhằm làm rõ yếu tố, các đặc trưng của tộc người có tác động tới việc GDGT cho con cái của cha mẹ, từ đó góp thêm tiếng nói vào việc tuyên truyền giúp người dân và đặc biệt các bậc phụ huynh thuộc các dân tộc ít người có thêm hiểu biết, nhận thức về tầm quan trọng của việc GDGT cho con cái ở lứa tuổi VTN, cũng như hiểu rõ các nhu cầu, mong muốn của các em khi được học về vấn đề này. - Kết quả nghiên cứu sẽ được gửi tới các nhà tài trợ cho một dự án phát triển cộng đồng dành cho nhóm dân tộc thiểu số để hỗ trợ về kiến thức, kỹ năng cho phụ huynh, từ đó giúp tăng cường mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái thông qua các hình thức GDGT. 3. Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu nhằm tìm hiểu yếu tố văn hóa dân tộc trong quá trình GDGT cho trẻ VTN trong gia đình, thể hiện qua những khía cạnh: - Nhận thức của cha mẹ trong các gia đình dân tộc Tày về tầm quan trọng của việc GDGT cũng như kiến thức của họ trong lĩnh vực này. - Đặc tính dân tộc trong các phương pháp và nội dung của cha mẹ để GDGT cho trẻ VTN. - Nhận xét của trẻ VTN về các kiến thức cha mẹ cung cấp cũng như đánh giá về vai trò của gia đình trong việc GDGT cho chính các em. 4. Đối tượng, phạm vi và khách thể nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đặc tính dân tộc trong việc GDGT cho trẻ VTN trong gia đình người dân tộc Tày. Tuy nhiên, nội dung GDGT trong nghiên cứu này được giới hạn trong khía 6 cạnh cha mẹ dạy dỗ cho trẻ VTN về những biến đổi tâm sinh lý trong lứa tuổi dậy thì và cách vệ sinh thân thể, những cách ứng xử trong mối quan hệ bạn cùng giới, khác giới, trong tình bạn, tình yêu. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Không gian nghiên cứu: Tại 6 bản thuộc xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. - Thời gian nghiên cứu: Tháng 2 năm 2008 - tháng 9 năm 2009 4.3. Khách thể nghiên cứu - Các bậc cha mẹ trong các gia đình dân tộc Tày có con trong lứa tuổi 13 - 18 - Trẻ em trong lứa tuổi 13 – 18 có cha, mẹ là người dân tộc Tày 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp thu thập thông tin 5.1.1. Phương pháp phân tích tài liệu Phương pháp này được vận dụng trong quá trình tác giả xây dựng đề cương nghiên cứu cũng như trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu. Tài liệu là kết quả nghiên cứu của các đề tài, các dự án đã có, bài viết trên các báo in, tạp chí, các trang báo điện tử và các số liệu thống kê có liên quan tới đề tài nghiên cứu. 5.1.2. Phương pháp quan sát Phương pháp này được sử dụng trong quá trình thu thập số liệu tại địa bàn nghiên cứu. Tác giả đã có 3 tuần sống cùng một gia đình người dân tộc Tày và tiếp xúc với nhiều bậc cha mẹ, VTN người Tày trong quá trình PVS và phỏng vấn bằng bảng hỏi tại xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Các thông tin thu được từ phương pháp quan sát có ý nghĩa hết sức quan trọng trong nghiên cứu này. Đó là những thông tin bổ sung, kiểm chứng cho các thông tin thu được từ các phương pháp khác. 5.1.3. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi Phương pháp này được áp dụng với cha mẹ là người dân tộc Tày, có con trong độ tuổi 13 – 18 tại 6 thôn của xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, Lạng Sơn. Tác giả đã tiến hành phỏng vấn bằng bảng hỏi với 145 vị phụ huynh và xử lý toàn bộ số phiếu thu về. Bảng hỏi được xây dựng với 27 câu hỏi chia làm 5 phần bao gồm: kiến thức của cha mẹ về vấn đề giới tính, các nội dung về giới tính cha mẹ dạy dỗ 7 con cái, thái độ về QHTD, mang thai trước khi cưới, cách thức dạy bảo con cái về vấn đề giới tính và thông tin chung về bản thân, gia đình người được phỏng vấn. Do đặc thù là nhóm người ở vùng cao, trình độ học vấn hạn chế, lại là những người dân tộc thiểu số nên các câu hỏi được đưa ra hết sức đơn giản với từ ngữ dễ hiểu, tránh dùng các thuật ngữ chuyên môn, khoa học vẫn thường hay dùng khi đề cập tới vấn đề GDGT. Bảng hỏi thu về được xử lý trên phần mềm SPSS. 5.1.4. Phương pháp phỏng vấn sâu - Phỏng vấn sâu (PVS) được áp dụng với 15 trẻ em trong độ tuổi 13 – 18 tuổi nhằm tìm hiểu những kiến thức của các em về vấn đề giới tính, cảm giác của các em khi trải qua giai đoạn có sự thay đổi về cơ thể, tâm lý, các thông tin nhận được từ cha mẹ cũng như đánh giá vai trò của cha mẹ trong việc dạy dỗ các em về vấn đề này. - PVS cũng được sử dụng với 8 cha mẹ có con trong tuổi 13 – 18 để tìm hiểu những phong tục tập quán của người Tày có ảnh hưởng như thế nào tới các vấn đề giới tính cha mẹ dạy dỗ cho con, nhận thức của họ về tầm quan trọng của việc GDGT cho con cũng như phương pháp giáo dục của cha mẹ. Các thông tin thu được từ PVS được xử lý trên phần mềm Nvivo. 5.2. Phương pháp chọn mẫu Toàn bộ cha mẹ trong các gia đình dân tộc Tày có con trong độ tuổi 13 – 18 ở xã Tân Thanh đều được mời tham gia phỏng vấn bằng bảng hỏi. Tổng số mẫu được phỏng vấn bằng bảng hỏi là 145. Mẫu được chọn để PVS là có chủ định phù hợp với mục đích nghiên cứu. Theo Tổ chức Y tế thế giới, VTN được định nghĩa là nhóm người trong độ tuổi 10 – 19. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, tác giả chọn nhóm VTN trong độ tuổi 13 – 18 cũng như các bậc phụ huynh có con trong độ tuổi này bởi thực tế ở Việt Nam, độ tuổi dậy thì trung bình ở nữ là 14,4 [6, tr.16] và khi tròn 18 tuổi cá nhân đã hoàn toàn trở thành một thực thể độc lập, chịu trách nhiệm trước pháp luật. 6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết 6.1. Giả thuyết nghiên cứu - Cha mẹ người dân tộc Tày có giáo dục con về vấn đề giới tính nhưng chỉ dựa trên trải nghiệm của bản thân. 8 - Tâm sự, giải thích, nói chuyện trực tiếp là hình thức chủ yếu cha mẹ giáo dục giới tính cho con trong tuổi VTN. - Gia đình không phải là nguồn chính cung cấp thông tin giới tính cho trẻ vị thành niên. - So với cha mẹ người Kinh ở Nam Định, tỷ lệ cha mẹ người Tày ở Tân Thanh nhận thức được tầm quan trọng của việc GDGT cho trẻ VTN thấp hơn. 6.2. Khung lý thuyết Điều kiện kinh tế - văn hóa – xã hội, đặc trưng tộc người Nhận thức của cha mẹ về tầm quan trọng của GDGT cho trẻ VTN Kiến thức và kỹ năng của cha mẹ trong việc GDGT cho trẻ VTN Hình thức và nội dung GDGT Kết quả Đánh giá về vai trò của gia đình trong việc GDGT từ góc độ trẻ VTN Mong muốn của trẻ VTN về vấn đề cung cấp thông tin GDGT 9 NỘI DUNG CHÍNH Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng Chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận cơ bản, là nguyên tắc cho mọi khoa học nói chung và khoa học xã hội nói riêng. Vận dụng tổng hợp những lý luận này tuân theo các yêu cầu sau: - Những quy luật vận động phát triển của xã hội phải được xem xét khách quan như nó đang tồn tại; - Những hiện tượng xã hội phải được xem xét trong mối quan hệ biện chứng với nhau; - Xem xét các hiện tượng xã hội phải hướng đến cái bản chất, không tới cái ngẫu nhiên, bất bình thường; - Tuân thủ các nguyên tắc lịch sử cụ thể; - Xem xét yếu tố con người mang bản chất xã hội, trong tính hiện thực của nó “con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, đồng thời cũng là chủ thể của xã hội; từ đó coi việc ra sức phát huy nhân tố con người, con chiến lược con người là điểm mấu chốt của sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong đề tài này, các nguyên lý cơ bản nêu trên được vận dụng để tìm hiểu tính dân tộc trong việc GDGT cho trẻ VTN trong gia đình người dân tộc Tày. Cụ thể là tác giả tìm hiểu các phong tục, những kiêng kỵ của tộc người có ảnh hưởng như thế nào tới việc GDGT cho trẻ; sự giao lưu văn hóa, kinh tế có tác động tới nội dung, phương pháp giáo dục trẻ ra sao. 1.2. Hệ thống lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu 1.2.1. Phương pháp luận dân tộc học Phương pháp luận dân tộc học cũng là một lĩnh vực xã hội học quan tâm tới vì nó nghiên cứu toàn bộ tri thức, hành vi ứng xử, những quá trình, nếp sống, lối sống của một nhóm người trong xã hội trên cơ sở giải thích những loại hành động xã hội, những phong tục tập quán truyền thống của xã hội. Tác giả nổi tiếng của trường phái phương pháp luận dân tộc học là Harold Garfinkel. - Phương pháp nghiên cứu thiết chế xã hội: Để nghiên cứu thiết chế xã hội, việc nghiên cứu môi trường thiết chế, mối quan hệ của môi trường thiết chế có ý 10 nghĩa quan trọng để xác định những mô hình hành vi ứng xử, xác định phong tục tập quán của các nhóm xã hội khác nhau. Do đó, mỗi thành viên trong cộng đồng có xu hướng tuân thủ các giá trị của tập thể hay các mô hình mà mọi người xung quanh thừa nhận. Theo Harold Garfinkel, để nghiên cứu thiết chế cần sử dụng phương pháp phân tích đàm thoại, qua đó có thể hiểu một cách chi tiết, cụ thể những cơ cấu cơ bản của tương tác người trong đàm thoại, trên cơ sở đó nghiên cứu được những hành vi hoặc phản xạ vô thức tiềm ẩn. - Phương pháp nghiên cứu hành vi thường ngày: Trong quá trình nghiên cứu hoạt động thường ngày, những cân nhắc, tính toán của các chủ thể hành động chính là hình thức gián tiếp mô tả, đánh giá những ý tưởng hoặc những tình huống xã hội đặc thù. Để nghiên cứu hành vi thường ngày, các phương pháp tường thuật, mô tả, phân tích đàm thoại được sử dụng một cách triệt để. Trên cơ sở đề nghị đối tượng bị nghiên cứu tường thuật lại những hành động cụ thể diễn ra trong cuộc sống hàng ngày, nhà nghiên cứu có thể đánh giá mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng hoặc cả cộng đồng với toàn xã hội. Đây là những phản ánh chủ quan về đời sống xã hội khách quan, từ đó giải thích được mô hình hành vi của các nhóm dân cư. - Cũng theo Harold Garfinkel, thói quen xã hội và những hành vi tiềm thức có ý nghĩa quan trọng giúp xác định mô hình ứng xử, phong tục tập quán của cá nhân và nhóm xã hội. Những thói quen và hành vi tiềm thức đó thường được bộc lộ trong các đàm thoại khi chủ thể không có ý thức kiểm soát lời nói hoặc hành vi của mình vì bị lôi cuốn vào mục tiêu của cuộc đàm thoại. Chính vì vậy, hành vi tiềm thức và thói quen xã hội là những đối tượng nghiên cứu quan trọng theo lý thuyết phương pháp dân tộc học. Tóm lại, trong nghiên cứu này, phương pháp luận dân tộc học được sử dụng để nghiên cứu về các đặc trung của tộc người có ảnh hưởng như thế nào tới nhận thức cũng như hình thức, nội dung được cha mẹ lựa chọn trong việc GDGT cho trẻ VTN trong các gia đình người dân tộc Tày một cách khách quan, không áp đặt ý thức chủ quan của tác giả. Việc cùng sống, sinh hoạt và tiếp xúc với người Tày trong 3 tuần giúp tác giả tìm hiểu được cuộc sống thực tế của người Tày ở Lạng Sơn. 1.2.2. Thuyết Vai trò xã hội 11 Vai trò là tập hợp các mong đợi, các quyền và những nghĩa vụ được gán cho một địa vị cụ thể. Những sự mong đợi này xác định các hành vi của con người được xem như là phù hợp và không phù hợp đối với người chiếm giữ một địa vị. Mỗi cá nhân có một loạt vai trò được đem lại từ những hình mẫu xã hội khác nhau mà anh ta tham dự. Trong cả cuộc đời, mỗi cá nhân thực hiện một số những vai trò khác nhau và tổng hợp tất cả các vai trò xã hội của anh ta đã thực hiện từ khi sinh ra cho đến lúc chết tạo thành nhân cách xã hội của chính người đó. Tương ứng với mỗi quan hệ xã hội, cá nhân có một địa vị xã hội, nhưng cá nhân thường có rất nhiều quan hệ xã hội khác nhau, do vậy họ cũng có nhiều địa vị khác nhau. Mỗi địa vị đó tương ứng với một vai trò cụ thể. Chính vì vậy một cá nhân luôn có nhiều vai trò khác nhau. Do đó, Merton đã đưa ra khái niệm hệ vai trò để chỉ một cấu trúc gồm các vai trò và các quan hệ của chúng mà cá nhân thực hiện khi nắm giữ một địa vị xã hội nhất định. Talcott Parsons đã phân tất cả các loại vai trò đa dạng khác nhau của cá nhân thành năm loại cơ bản: - Một số vai trò đòi hỏi sự kiềm chế tình cảm khi thực hiện, trong khi một số vai trò khác lại không cần sự kiềm chế này. - Một số vai trò xã hội dựa trên địa vị đã có sẵn, một số vai trò dựa trên địa vị đạt được. - Một số vai trò được xác định hẹp còn một số khác lại được xác định rộng. - Một số vai trò đòi hỏi các cá nhân có thái độ ứng xử với mọi người theo các nguyên tắc chung; ngược lại, một số vai trò khác đòi hỏi phải đối xử với người khác theo cách đặc thù vì những quan hệ đặc biệt với họ. - Các vai trò khác nhau có những động cơ khác nhau. Theo năm loại vai trò do Parsons phân định, trong gia đình, vai trò của cha mẹ dựa trên địa vị đã có sẵn, và khi đó gia đình trở thành một thiết chế giáo dục, đóng vai trò xã hội hóa trẻ em và do đó, cha mẹ đóng vai trò là những nhà sư phạm, giúp con cái hòa nhập, thích nghi với xã hội. Trong nghiên cứu này, vai trò xã hội của cha mẹ được xem xét từ khía cạnh giáo dục, xã hội hóa cho con ở tuổi VTN về vấn đề tuổi dậy thì, tình bạn tình yêu. 1.2.3. Thuyết Tương tác xã hội 12 Tương tác là đơn vị cơ bản của sự kiện xã hội mà tại đó con người định hướng hành vi của họ vào nhau mà trong đó, trước tiên, những người tham gia phải thông tin cho nhau về hoàn cảnh tương tác. Tương tác chịu ảnh hưởng của chuẩn mực và vai trò xã hội, của hình mẫu hành vi được thừa nhận và cả kỳ vọng của những người tham gia. Tương tác xã hội là khái niệm trung tâm trong tư tưởng xã hội học của Simmel. Cơ sở xuất phát điểm của Simmel là tác động qua lại giữa các bộ phận của thực tiễn: “Chúng ta phải chấp nhận như là 1 nguyên tắc hợp thức cho cả thế giới là tất cả đều nằm trong một quan hệ qua lại nào đó”. Theo Simmel, xã hội là kết quả của tác động qua lại giữa các cá thể, các nhóm và thành phần xã hội khác cấu tạo nên, trong đó các nhân tố không chỉ là các cá thể mà còn là các nhóm, các thành phần xã hội đông đảo khác. Trong nghiên cứu này, thuyết Tương tác xã hội được sử dụng để lý giải cho cách thức các bậc cha mẹ lựa chọn để trò chuyện, tâm sự, dạy dỗ con cái về vấn đề liên quan tới tuổi dậy thì, các cách ứng xử trong mối quan hệ giữa bạn cùng giới, bạn khác giới, về tình bạn, tình yêu. 1.3. Hệ thống khái niệm sử dụng trong đề tài 1.3.1. Đặc tính dân tộc Đặc tính là tính chất riêng, không giống với tính chất các sự vật khác. Dân tộc là tên gọi chung những cộng đồng người cùng chung một ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế và văn hóa, hình thành trong lịch sử từ sau bộ lạc. Theo cách hiểu của các nhà dân tộc học, dân tộc thực chất phải được hiểu là tộc người (ethnic). Tộc người là hình thái đặc biệt của một tập đoàn xã hội xuất hiện không phải do ý nguyện của con người mà là trong kết quả của quá trình tự nhiên lịch sử. Điểm đặc trưng của các tộc người là có tính bền vững và giống như là những quy tắc, các tộc người tồn tại hàng nghìn năm. Mỗi tộc người có sự thống nhất bên trong xác định, cả những nét đặc thù để phân định nó với các tộc người khác [14]. Theo đó, trong nghiên cứu này, đặc tính dân tộc được hiểu là những nét tiêu biểu, đặc trưng về văn hóa, phong tục tập quán, suy nghĩ, lối sống (sinh hoạt, giao tiếp, thói quen...) của nhóm người dân tộc thiểu số, cụ thể là dân tộc Tày. Trong đời sống hàng ngày, người Tày rất coi trọng thứ bậc tôn ty trật tự trong gia đình. Việc cha mẹ dạy bảo con cái rất được quan tâm tới tuy nhiên chỉ ở 13 góc độ giáo dục cách ứng xử, lễ phép thông thường. Những vấn đề “tế nhị”, “nhạy cảm” liên quan tới mối quan hệ nam nữ, sự phát triển tâm sinh lý tuổi dậy thì ít được đề cập tới một cách thẳng thắn. Mẹ thường nói riêng với con gái, cha ít nói với con trai bởi chính trong suy nghĩ của mình họ cũng cho rằng các em khắc lớn khắc biết. 1.3.2. Khái niệm Giới Khái niệm giới được hiểu là những đặc điểm, tính cách, cách ứng xử, vai trò và trách nhiệm của con trai và con gái mà xã hội quy định. Các đặc điểm này được hình thành từ cuộc sống, chịu ảnh hưởng của gia đình, bạn bè, tôn giáo, văn hóa, nhà trường, báo chí… Các đặc điểm này có thể thay đổi được. 1.3.3. Khái niệm Giới tính Giới tính là khái niệm chỉ tập hợp những đặc điểm, tính chất riêng biệt tạo nên sự khác nhau giữa nam và nữ, những đặc điểm ấy giúp ta phân biệt được dễ dàng nam và nữ. Giới tính hình thành từ hai nguồn gốc: - Nguồn gốc sinh học: nam với nhiễm sắc thể XY, nữ là nhiễm sắc thể XX; nhiễm sắc thể quy định tính trạng nam, nữ là Y, X. Cấu tạo cơ thể, nội tiết, tâm sinh lý bắt nguồn từ đó. - Nguồn gốc xã hội: tình cảm, ý thức được hình thành qua giao tiếp dưới ảnh hưởng của giáo dục, xã hội. Mỗi xã hội có sự phân công lao động riêng, có quan niệm về giới tính theo những chuẩn mực đạo đức và văn hóa nhất định. Như vậy, giới tính là chỉ sự phân biệt về mặt sinh học giữa nam và nữ, theo đó các đặc điểm về giới tính không thể thay đổi được trừ khi phẫu thuật. 1.3.4. Khái niệm Giáo dục giới tính Có nhiều định nghĩa khác nhau về GDGT. 1.3.4.1. Định nghĩa của A.G.Khơricôpva và D.B.Kôlêxốp “GDGT là một quá trình hướng vào việc vạch ra những nét, những phẩm chất, những đặc trưng và khuynh hướng phát triển của nhân cách nhằm xác định thái độ xã hội cần thiết của con người đối với những thuộc giới khác” [29, tr.15] Định nghĩa này cho thấy phạm vi của GDGT không chỉ bó hẹp ở việc giáo dục mối quan hệ giữa nam và nữ mà bao gồm cả việc giáo dục những mối quan hệ nam nữ trong đời sống cũng như học tập, lao động, nghỉ ngơi, giải trí… Giáo dục 14 cho con người biết rèn luyện những phẩm chất giới tính nhằm phát huy thế mạnh của giới tính. 1.3.4.2. Định nghĩa theo Bách khoa toàn thư y học phổ thông (Pêtrôpxki chủ biên) “GDGT là hệ thống các biện pháp y khoa và sư phạm nhằm giáo dục cho nhi đồng, thanh niên và thiếu niên có thái độ đúng đắn đối với các vấn đề giới tính” [29, tr.16]. Định nghĩa này ngoài góc độ giáo dục còn đứng ở góc độ y học để xem xét nội dung GDGT, giúp thế hệ trẻ biết bảo vệ sức khoẻ của chính mình và những người khác trong quan hệ nam nữ. 1.3.4.3. Định nghĩa theo Từ điển bách khoa về giáo dục “GDGT là giáo dục về chức năng làm một con người có giới tính. Điều quan trọng là đề cập vấn đề giới tính một cách công khai và đầy đủ trong lớp học, từ nhà trẻ đến đại học, giúp cho học sinh cảm thấy an toàn và tự do trong việc biểu lộ các cảm xúc liên quan đến đời sống giới tính”. Định nghĩa này nêu bật được bản chất của công tác GDGT, đó là sự định hướng cho thế hệ trẻ cách sống đúng đắn của con người có giới tính. Việc giúp cho thế hệ trẻ “làm một con người có giới tính” là việc làm hết sức cần thiết trong cuộc sống. Nhiều người không nhận thức được việc thiếu “nữ tính” của phụ nữ hoặc “nam tính” của đàn ông là một tai hại. Những “tính nam”, “tính nữ” này không thể hình thành một cách tự nhiên mà con người phải trải qua một quá trình được giáo dục, được rèn luyện mới có được. Ngay chức năng giới tính mà thiên nhiên đã ban phú cho người đàn ông và người đàn bà đó là chức năng truyền giống ở đàn ông, chức năng sinh đẻ ở đàn bà cũng cần được giải thích làm sáng tỏ cơ sở khoa học của sự hoạt động có quy luật của hành vi tình dục nhằm mang lại “sự an toàn và tự do” cho con người. Con người chỉ cảm thấy “tự do” khi đã nắm vững được cái “tất yếu”, những quy luật phát triển sinh lý, tâm lý của con người. 1.3.4.4. Định nghĩa của D.N.Ixaev và V.E.Kagan Theo D.N.Ixaev và V.E.Kagan, GDGT cần được hiểu theo hai nghĩa. Trước hết, theo nghĩa rộng, thuật ngữ GDGT chỉ sự ảnh hưởng của môi trường đến sự phát triển tâm lý tình dục và sự hình thành cá nhân. Môi trường bao quanh con người là thực thể nhiều mặt và cơ động, không phải lúc nào cũng hoạch định được hay mong muốn được những ảnh hưởng của nó. GDGT là một bộ phận hợp thành của giáo dục học đại cương “Giáo dục phải đảm bảo sự phát triển tự do và vui sướng của mọi thể 15 hiện tăng trưởng của con người từ bầu vú mẹ đến chiếc giường chung vợ chồng” [29, tr.17]. Theo nghĩa hẹp, GDGT là một quá trình tác động có hệ thống, được hoạch định và thực hiện một cách có ý thức, hướng tới kết quả cuối cùng xác định vào sự phát triển tâm lý và thể chất của em trai và em gái với mục đích tối ưu hóa sự phát triển nhân cách và hoạt động của chúng trong mọi lĩnh vực của đời sống có liên quan tới các mối quan hệ của hai giới. Tóm lại: GDGT là một vấn đề quan trọng trong việc giáo dục sự phát triển toàn diện của con người. GDGT nhằm bồi dưỡng cho thế hệ trẻ những hiểu biết cần thiết về giới tính, giúp họ có thái độ và kỹ năng giao tiếp, ứng xử lịch sự, văn minh trong quan hệ với người khác giới trong hoạt động và đời sống xã hội. GDGT chủ yếu hướng vào thế hệ trẻ trước hôn nhân. Ở nhiều nước, GDGT được tiến hành từ lứa tuổi mẫu giáo và đặc biệt được quan tâm ở giai đoạn tuổi dậy thì và thanh niên. Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, các nội dung GDGT cha mẹ người Tày dạy con được nghiên cứu là: - Giải thích về sự thay đổi của cơ thể khi trẻ bước vào tuổi dậy thì - Hướng dẫn vệ sinh thân thể khi con có những dấu hiệu dậy thì - Hướng dẫn cách ứng xử trong cuộc sống hàng ngày với người lớn tuổi, bạn cùng giới, bạn khác giới. 1.3.5. Khái niệm Vị thành niên VTN là giai đoạn đặc biệt của cuộc đời con người. Đó là bước quá độ từ tuổi ấu thơ trở thành người lớn. Có nhiều quan điểm khác nhau về tuổi VTN. Sự phân chia độ tuổi VTN ở các quốc gia, các chủng tộc và các khu vực khác nhau cũng rất khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm thống nhất là VTN nghĩa là người chưa trưởng thành và còn do người lớn giám hộ. Theo WHO, VTN có độ tuổi từ 10 đến 19 tuổi. Trên cơ sở quan niệm này, người ta thường phân chia VTN thành ba nhóm: VTN sớm: 10 – 14 tuổi, VTN trung: 15 – 17 tuổi và VTN muộn: 18 – 19 tuổi. Ở Việt Nam, pháp luật quy định từ 18 tuổi trở lên thì một con người có đầy đủ những quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân độc lập. Từ 18 tuổi họ có quyền kết hôn và sinh con, nghĩa là khi đó họ không còn là VTN nữa. Do vậy, VTN ở nước ta thường được xác định trong độ tuổi từ 10 đến trước 18 tuổi. 16 VTN là giai đoạn trải qua quá trình dậy thì ở cuộc đời con người. Chính vì thế, ở giai đoạn này từng bước có sự thay đổi toàn diện về tâm sinh lý và tình cảm: - Sự phát triển của các cơ quan sinh sản, sự xuất hiện của ham muốn tình dục. Nếu trước đây nhu cầu tình dục tồn tại ở dạng tiềm năng thì nay nó trở thành một động lực thực sự và được biểu hiện một cách nào đó trong các hành vi của chủ thể. - Sự thay đổi những năng lực tâm lý, đó là sự biểu hiện của cá tính, sự hiện diện rõ nét của các kiểu dạng tâm lý, VTN tự ý thức về bản thân, đề cao cái tôi cá nhân, muốn khẳng định mình, muốn trở thành người lớn. - Xuất hiện những sắc thái tình cảm khác nhau do sự biến đổi của các năng lực tình dục và tâm lý. Những trạng thái tình cảm luôn biến đổi thất thường là nét đặc trưng của tuổi VTN. Vì thế ở VTN xuất hiện những tình cảm mới lạ, những bất thường trong ứng xử, hành vi và có sự thay đổi rõ nét trong mối quan hệ với gia đình, bạn bè và xã hội. Như vậy, trong giai đoạn không còn là trẻ con cũng chưa trở thành người lớn, đặc trưng cơ bản của VTN là sự tăng trưởng nhanh về thể chất với việc hoàn thiện cơ quan sinh sản và sự phát triển về nhân cách. 1.3.6. Khái niệm Gia đình Gia đình được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) định nghĩa: “Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có cùng ngân sách chung”. Như vậy, gia đình là một nhóm xã hội đặc biệt gắn bó với nhau bởi huyết thống và tình cảm. Gia đình được hình thành trên cơ sở hôn nhân, và quan hệ huyết thống có được từ hôn nhân đó. Gia đình là một thiết chế đặc biệt, có nhiều chức năng khác nhau và đầu tiên phải kể tới là chức năng xã hội hóa. Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên giúp cá nhân thích nghi, làm quen với đời sống xã hội. Chính vì vậy, gia đình có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục cho các thành viên để hòa nhập với xã hội. 1.3.7. Giáo dục giới tính cho vị thành niên trong gia đình GDGT là một phần của hoạt động giáo dục trong gia đình, chuẩn bị các kiến thức cần thiết cho VTN để các em có tâm lý vững vàng, biết cách ứng phó với những thay đổi bất ngờ về sinh lý cũng như tâm lý ở độ tuổi mới lớn. Tuy nhiên hiện nay việc GDGT trong các gia đình Việt Nam nói chung và gia đình người dân 17 tộc Tày nói riêng vẫn chưa được chú trọng và quan tâm đúng mức. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề này có ý nghĩa quan trọng để góp phần thúc đẩy việc nâng cao vai trò của gia đình trong việc GDGT cho thế hệ tương lai. 1.4. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.4.1. Các công trình nghiên cứu, bài viết về vấn đề giáo dục giới tính GDGT không phải là một chủ đề mới trong các nghiên cứu, bài viết, đã có rất nhiều nghiên cứu, bài báo, sách viết về đề tài này ở những khía cạnh khác nhau. Trong khuôn khổ nghiên cứu này, tác giả xin đề cập tới một số bài viết, nghiên cứu, luận án tiêu biểu trong lĩnh vực này. Cuốn sách “Giáo dục giới tính” của tác giả Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Thị Đoan, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1997 khẳng định tầm quan trọng của việc GDGT, đó là quá trình rèn luyện cho thế hệ trẻ những phẩm chất, tính cách, hành vi và thái độ cần thiết, đúng đắn trong quan hệ với người khác giới, hình thành ở họ những quan hệ đạo đức lành mạnh cũng như tình cảm trong sáng, đẹp đẽ giữa nam và nữ. Từ cuốn sách này, người đọc sẽ có ý thức về việc GDGT là một phần quan trọng trong nội dung giáo dục đời sống gia đình. Tuy nhiên, cuốn sách này cũng chỉ dừng lại ở việc cung cấp các kiến thức cơ bản về vấn đề GDGT cho trẻ em trong gia đình. Cuốn sách “Giáo dục giới tính vì sự phát triển của vị thành niên” của Bác sỹ Đào Xuân Dũng, nhà xuất bản Đại học Quốc gia năm 2002 giới thiệu một cách toàn diện đầy đủ về vấn đề GDGT, từ định nghĩa về GDGT, mục đích, ý nghĩa, nội dung, phương pháp GDGT tới vai trò của gia đình, của cha mẹ trong việc hình thành nhân cách cho con cái. Nhưng cuốn sách này cũng chỉ dừng lại ở việc giới thiệu một cách tổng quát các nội dung GDGT cần thiết cho VTN. Cuốn sách “Giáo dục giới tính cho con” của nhóm tác giả Nguyễn Thanh Bình, Vũ Thị Sơn, Lưu Thu Thủy và Đào Thị Oanh, nhà xuất bản Giáo dục năm 2001 đề cập tới vai trò của gia đình trong GDGT và những vấn đề chung của gia đình với việc GDGT cho con, những nội dung GDGT cụ thể, những điều cần quan tâm trong GDGT qua từng giai đoạn phát triển tâm lý giới tính, cách giải quyết một số tình huống điển hình có thể xảy ra trong thực tế. Cuốn sách “Tâm lý học giới tính và giáo dục giới tính” của tác giả Bùi Ngọc Oánh, nhà xuất bản Giáo dục năm 2006 đã nêu lên những vấn đề chung về giới tính 18 và tâm lý học giới tính, các khái niệm giới và giới tính, sự hình thành và phát triển giới tính, một số vấn đề điển hình của đời sống giới tính, GDGT và những vấn đề thực tiễn. Các vấn đề lý luận, thực tiễn trong cuốn sách này được trình bày theo hướng hệ thống hóa lý luận cơ bản của khoa học giới tính, và mối tương quan giữa chúng với các chuyên ngành khoa học có liên quan. Bài viết “Về vấn đề giáo dục giới tính cho trẻ em trong gia đình” của tác giả Nguyễn Thị Tố Quyên trên Tạp chí Xã hội học số 1, năm 2005 cho thấy 61,6% bố mẹ thấy cần thiết phải trao đổi với con về vấn đề giới tính, trong đó 56,6% ông bố và 64,3% bà mẹ cho rằng cần phải giáo dục về vấn đề này (trang 87). Liên quan tới phương pháp GDGT, bài viết cũng đã chỉ ra một thực tế ngoài việc trò chuyện trực tiếp, có tới 20,5% ông bố và 24,2% bà mẹ cho rằng chỉ cần GDGT, tình dục và SKSS cho con bằng việc mua sách báo cho chúng tự học, không cần trao đổi hay nói chuyện trực tiếp về vấn đề này. Bài viết này đã chỉ ra được thực trạng hiện nay trong việc GDGT của các gia đình, tuy nhiên chưa lý giải được những nguyên nhân dẫn tới thực trạng đó. Luận án phó tiến sỹ khoa học tâm lý “Những yếu tố tâm lý trong sự chấp nhận giáo dục giới tính cho thanh niên, học sinh” của tác giả Bùi Ngọc Oánh đã phát hiện được những yếu tố tâm lý ảnh hưởng tới sự chấp nhận GDGT ở thanh niên học sinh, từ đó đề xuất một số phương hướng, biện pháp nhằm nâng cao sự chấp nhận đó ở thanh niên, học sinh. Tuy nhiên, nghiên cứu này mới chỉ tìm hiểu sự chấp nhận GDGT trong nhà trường mà chưa đề cập tới khía cạnh GDGT trong gia đình. Luận án tiến sỹ giáo dục “Một số biện pháp giáo dục giới tính cho sinh viên Đại học Sư phạm” của nghiên cứu sinh Phan Bích Ngọc nhằm đánh giá thực trạng sử dụng biện pháp GDGT cho sinh viên đại học sư phạm và đưa ra các biện pháp, nội dung GDGT cho họ. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ tập trung vào nhóm đối tượng đặc thù là sinh viên trong trường Đại học Sư phạm. Tóm lại, các cuốn sách, bài viết nêu trên mới chỉ đưa ra được những nội dung nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản cho người đọc cũng như nêu lên tầm quan trọng, vai trò của gia đình, nhà trường trong việc GDGT cho VTN, thanh niên. Hai luận án đã tìm hiểu ở những khía cạnh cụ thể hơn trong việc GDGT cho sinh viên, học sinh. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan