Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đảng bộ tỉnh bắc giang lãnh đạo công tác hút và dùng nhân tài luận văn ths. kho...

Tài liệu đảng bộ tỉnh bắc giang lãnh đạo công tác hút và dùng nhân tài luận văn ths. khoa học chính trị

.PDF
91
768
65

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BÙI CÔNG VĨ ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NHÂN TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Mã số: 60 31 20 HÀ NỘI -2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BÙI CÔNG VĨ ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NHÂN TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Mã số: 60 31 20 Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Đắc Hiến HÀ NỘI -2012 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ NHÂN TÀI VÀ VIỆC LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THU HÚT, SỬ DỤNG NHÂN TÀI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG 1.1. Quan niệm nhân tài 9 9 1.1.1. Quan niệm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về nhân tài và việc thu hút, sử dụng nhân tài 9 1.1.2. Đặc trưng và vai trò của nhân tài 18 1.2. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo công tác thu hút và sử dụng nhân tài - Thực trạng và một số vấn đề đặt ra 22 1.2.1. Đặc điểm tình hình tỉnh Bắc Giang và Đảng bộ tỉnh Bắc Giang 22 1.2.2. Thực trạng việc lãnh đạo công tác thu hút, sử dụng nhân tài của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang 28 1.2.3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc thu hút, sử dụng nhân tài của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang 48 Chƣơng 2: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NHÂN TÀI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG 52 2.1. Phƣơng hƣớng lãnh đạo công tác thu hút và sử dụng nhân tài của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang 52 2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lƣợng lãnh đạo công tác thu hút và sử dụng nhân tài của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang 55 2.2.1. Giải pháp chung 55 2.2.2. Giải pháp cụ thể 64 KIẾN NGHỊ 78 KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82 PHỤ LỤC 86 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ĐBBG : Đảng bộ tỉnh Bắc Giang HĐND : Hội đồng nhân dân Nxb : Nhà xuất bản UBND : Uỷ ban nhân dân VN : Việt Nam MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [29, tr.269] và “muôn sự thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu” [29, tr.240]. Thực tiễn cách mạng nước ta qua các giai đoạn cũng đã chứng minh những lời di huấn trên của Người là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, cán bộ “tốt hay xấu” nói chung chỉ đáp ứng nhiệm vụ “thành công hay thất bại” ở mức độ bình thường, còn để công việc đạt kết quả ở mức độ cao, vượt trội hơn hẳn thì không những chỉ yêu cầu cán bộ với những tiêu chuẩn cơ bản mà đòi hỏi ở mức độ cao hơn - đó là yêu cầu về yếu tố tài năng, hay nói cách khác để công việc hoàn thành một cách vượt trội, đạt kết quả cao cần phải có người tài (nhân tài). Lịch sử nhân loại đã cho thấy, nhân tài là một trong những nhân tố quyết định sự hưng thịnh, thành bại của mỗi quốc gia. Ở VN, quan niệm đó được nhận thức và vận dụng vào thực tiễn của từng thời kỳ lịch sử, điển hình là thế kỷ XV, với câu nói nổi tiếng của Thân Nhân Trung được khắc trên tấm bia thứ nhất khoa thi tiến sĩ năm Nhâm Tuất (1442) dựng năm 1484, tại Văn Miếu (Hà Nội), đã nêu bật được tầm quan trọng của giáo dục nhân tài đối với việc hưng thịnh của đất nước: "... Hiền tài là nguyên khí của quốc gia; nguyên khí mạnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh; nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn; vì thế các bậc thánh vương, đế minh không đời nào là không lấy việc vun trồng kẻ sĩ, bồi dưỡng nhân tài làm công việc cần kíp” [31, tr.4]. Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của nhân tài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Đảng, Nhà nước ta trong các giai đoạn cách mạng luôn lấy việc phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng và trọng dụng nhân tài là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên sự thành công của cách mạng. Hiện nay, Đảng, Nhà nước và cấp uỷ, chính quyền các cấp của một số địa phương đang tích cực xây dựng, ban hành nhiều chính sách ưu đãi để thu hút nhân tài; tuy nhiên, vẫn còn có hiện tượng “chảy máu chất xám” những người tài năng ra nước ngoài và từ các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập nhà nước ra làm việc tại khu vực ngoài nhà nước. Vậy nguyên nhân từ đâu? phải chăng do cơ chế, môi trường làm việc, chế độ đãi ngộ, chính sách sử dụng, trọng dụng… chưa thu hút được những người thật sự có tài năng vào làm việc và yên tâm cống hiến trong các cơ quan của Đảng, bộ máy chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội các cấp. Thời gian qua, công tác cán bộ nói chung và công tác nhân tài nói riêng ở tỉnh Bắc Giang được các cấp uỷ đảng, chính quyền nhận thức tương đối đầy đủ và đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đạt một số kết quả tích cực, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, trình độ, đạo đức, năng lực, chuyên môn nghiệp vụ, cơ bản đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tuy vậy, công tác nhân tài của tỉnh vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập: nhận thức của một số cấp uỷ, chính quyền về phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ đối với nhân tài còn hạn chế; Tỉnh chưa ban hành được chính sách chuyên biệt cụ thể về nhân tài; chưa phát hiện và thu hút được nhiều người tài vào làm việc trong các cơ quan trong hệ thống chính trị của Tỉnh; tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, người có trình độ học vấn cao đăng ký tuyển dụng vào các cơ quan khối Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội của Tỉnh chưa nhiều; chưa thực sự mạnh dạn sử dụng, bổ nhiệm, giao nhiệm vụ cho những cán bộ trẻ có tài giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý; chính sách cán bộ còn chung chung, cào bằng, chưa có chế độ ưu đãi riêng với người tài… Những mặt ưu điểm và hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu, mang tính quyết định là sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, mà trực tiếp, thường xuyên là Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy trong việc thu hút và sử dụng nhân tài. Thực tiễn đang đặt ra yêu cầu phải tăng cường hơn nữa vai trò và sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với công tác cán bộ nói chung và công tác nhân tài nói riêng. Mặt khác, để thu hút được nhân tài ở mọi lĩnh vực vào làm việc, cống hiến, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng quê hương Bắc Giang giầu mạnh, văn minh thì cần phải có cơ chế, chính sách đột phá và sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện hơn nữa của Đảng bộ tỉnh để tổ chức thực hiện tốt việc thu hút và sử dụng nhân tài. Là cán bộ trực tiếp tham mưu thực hiện công tác tổ chức cán bộ trong cơ quan tổ chức cán bộ cấp ủy tỉnh, tác giả nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh đối với công tác thu hút và sử dụng nhân tài, vì vậy tác giả mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài: Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo công tác thu hút và sử dụng nhân tài. Đây không chỉ là vấn đề cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn cả nước nói chung mà còn có ý nghĩa thiết thực đối với tỉnh Bắc Giang nói riêng. 2. Tình hình, lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết ở trong và ngoài nước của các tác giả về vấn đề nhân tài dưới nhiều góc độ khác nhau. Điển hình là một số công trình sau đây: - Bí quyết nhận biết người tài - Long Tử Dân, Nxb Văn hoá Thông Tin, Hà Nội, 2005. - Dự án thí điểm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Ban Tổ chức Trung ương Đảng, 2005. - Đào tạo, sử dụng người tài và chuyển giao quyền lực trong lãnh đạo, quản lý - Phạm Minh Hạc, chuyên đề trong Tập bài giảng chương trình cao cấp lý luận chính trị - hành chính, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009. - Gia đình, nhà trường, xã hội với việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ người tài- Nguyễn Trọng Bảo, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996. - Lược khảo về kinh nghiệm phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịch sử VN - Phạm Hồng Tung, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008. - Một số giải pháp phát hiện và sử dụng nhân tài ở nước ta hiện nay TS. Nguyễn Minh Phương, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 4/2010. - Phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng của đất nước - Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Tập Bài giảng phục vụ lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tổ chức cán bộ Ngành tổ chức xây dựng Đảng, 2007. - Tài năng và đắc dụng (nghiên cứu về một số nhân tài tiêu biểu ở VN và nước ngoài) - Nguyễn Hoàng Lương, Phạm Hồng Tung, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008. - Tôn trọng tri thức, tôn trọng nhân tài, kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước - Thân Vinh Hoa, Ngô Quốc Diệu (đồng chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. - Về chính sách phát hiện, trọng dụng và đãi ngộ người có tài năngTrần Anh Tuấn, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8/2011. - Xây dựng chiến lược con người, tạo nhân lực, nhân tài cho đất nước Đức Vượng, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7/2006… Một số bài viết, công trình khoa học nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản VN nói chung và ĐBBG nói riêng có: - Bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý giai đoạn hiện nay - Vũ Văn Chính, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2009. - Luân chuyển cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý giai đoạn hiện nay - Nguyễn Văn Năng, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2006. - Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay - Thân Minh Quế, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội 2007. - Tỉnh uỷ Bắc Giang lãnh đạo phát triển phổ cập giáo dục trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay - Bùi Văn Hải, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội 2009. - Tỉnh ủy Bắc Giang lãnh đạo báo chí địa phương giai đoạn hiện nayNguyễn Thế Dũng, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội 2010. - Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong hệ thống chính trị VN- Nguyễn Văn Giang, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội 2000… Nhìn chung, các công trình nêu trên đã nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau về vấn đề nhân tài và vị trí, vai trò của nhân tài; đồng thời đưa ra nhiều giải pháp cụ thể, thiết thực để phát hiện, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ đối với nhân tài; đã nêu bật được vai trò lãnh đạo của ĐBBG trong việc lãnh đạo công tác đào tạo, sử dụng cán bộ. Các công trình nêu trên đã có những đóng góp nhất định về mặt lý luận và thực tiễn, song còn chưa đề cập một cách toàn diện, có hệ thống đến sự lãnh đạo của ĐBBG đối với việc thu hút và sử dụng nhân tài. Vì vậy đề tài nghiên cứu của tác giả luận văn không trùng lặp với các công trình đã công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Trên cơ sở làm rõ thực trạng việc lãnh đạo công tác thu hút, sử dụng nhân tài của ĐBBG, luận văn đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của ĐBBG đối với công tác này. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau đây: - Phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nhân tài và việc thu hút, sử dụng nhân tài; - Phân tích thực trạng việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác thu hút, sử dụng nhân tài của ĐBBG những năm vừa qua và rút ra một số bài học kinh nghiệm; - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo công tác thu hút, sử dụng nhân tài của ĐBBG giai đoạn hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự lãnh đạo của ĐBBG đối với công tác thu hút, sử dụng nhân tài. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của ĐBBG đối với công tác thu hút, sử dụng nhân tài ở các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị Tỉnh, từ năm 2005 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận của luận văn Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản VN, đồng thời kế thừa, phát triển thành quả nghiên cứu của các công trình khoa học khác có liên quan. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề ra, ngoài phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, quy nạp và diễn dịch, thống kê... 6. Đóng góp mới của luận văn - Luận văn trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về nhân tài và đánh giá thực trạng công tác thu hút, sử dụng nhân tài của ĐBBG. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu, có tính khả thi, đặc biệt là cơ chế, chính sách, nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của ĐBBG trong việc phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài hiện nay. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo đối với các cấp uỷ đảng, cơ quan tổ chức cán bộ trong phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng, thực hiện chính sách nhân tài và trong nghiên cứu, giảng dạy ở trường chính trị tỉnh và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được kết cấu gồm 2 chương, 4 tiết, cụ thể: Chương 1: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về nhân tài và việc lãnh đạo công tác thu hút, sử dụng nhân tài của ĐBBG; Chương 2: Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng lãnh đạo công tác thu hút và sử dụng nhân tài của ĐBBG. Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ NHÂN TÀI VÀ VIỆC LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THU HÚT, SỬ DỤNG NHÂN TÀI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG 1.1. QUAN NIỆM NHÂN TÀI 1.1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản VN về nhân tài và việc thu hút, sử dụng nhân tài 1.1.1.1. Quan niệm của Chủ nghĩa Mác-Lênin Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhân tài được thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau: - Quần chúng nhân dân là kho báu nhân tài lớn nhất; nhân tài được sinh ra từ thực tiễn sinh động. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng quần chúng nhân dân lao động tiềm ẩn một nguồn nhân tài cực kỳ phong phú, là kho báu nhân tài lớn nhất; là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử, bởi: Một là, tư tưởng xã hội không bao giờ là tư tưởng thuần tuý của một cá nhân mà là phản ánh tồn tại xã hội dưới các dạng và trình độ khác nhau, được tổng hợp lại qua một số nhà tư tưởng nào đó. Hai là, tư tưởng chỉ có giá trị khi nó dẫn đến hành động làm biến đổi lịch sử; sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động làm phát triển xã hội chỉ có thể xảy ra qua hoạt động của quần chúng. Ba là, xét đến cùng, lực lượng sản xuất là cái quyết định đến sự biến đổi lịch sử, trong đó nhân dân lao động là lực lượng sản xuất cơ bản. Bốn là, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của cách mạng xã hội. Năm là, do phân công lao động dẫn đến tạo ra một lớp người chuyên về sáng tạo tinh thần tư tưởng, nhưng hoạt động này của họ cũng chỉ được diễn ra trên cơ sở đời sống tinh thần và sáng tạo của quần chúng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quần chúng nhân dân và cá nhân (lãnh tụ, thiên tài) trong lịch sử không tách rời nhau. Lãnh tụ là những cá nhân ưu tú, có tài, đức hơn người, là người có năng lực và phẩm chất tiêu biểu trong phong trào của quần chúng, có khả năng tập hợp quần chúng và được quần chúng tin yêu [33, tr45]. Trong quan hệ với quần chúng, lãnh tụ là người dẫn dắt, định hướng hoạt động của quần chúng; còn cá nhân ưu tú, lãnh tụ lại là con đẻ của quần chúng, đại diện cho quyền lợi và ý chí của quần chúng nhân dân. Tri thức, tài năng của nhân tài bắt nguồn từ thực tiễn, mà quần chúng nhân dân lại là chủ thể của thực tiễn xã hội . Do đó, quần chúng là cơ sở để nhân tài ra đời và tồn tại . Sự trưởng thành của nhân tài , dù là kiệt xuất , vĩ đại, đều không tách rời khỏi kinh nghiê ̣m thực tiễn xã hội , trí tuệ và lực lượng của quần chúng nhân dân, không tách rời sự nuôi dưỡng của quần chúng nhân dân. - Chế độ chính trị quyết định số phận của nhân tài. Chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng các chế độ khác nhau có ảnh hưởng khác nhau tới sự phát triển của nhân tài và chỉ ra rằng: những người có tài năng trong quần chúng là vô cùng… Và khẳ ng định chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa mới lần đầu tiên tạo ra những điều kiện thuận lợi cho nhân tài thể hiện bản lĩnh của mình, phát hiện người có tài năng, tạo ra cục diện mới cho lớp lớp nhân tài xuất hiện [23, tr.23]. - Thời thế tạo ra nhân tài. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ rõ mỗi xã hội, mỗi thời đại đều cần có và sản sinh ra những vĩ nhân, lãnh tụ của mình, để giải quyết những nhiệm vụ do lịch sử đặt ra. Điều này được khẳng định bởi lập luận: + Bất cứ nhân tài kiệt xuất nào cũng đều là sản phẩm của những quan hệ xã hội nhất định. + Cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng tạo nên những nhân tài, lãnh tụ chính trị. Để cuộc đấu tranh có hiệu quả, cần phải có những người có tài để lãnh đạo, tổ chức phong trào. Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ rõ: cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, trong lịch sử bất cứ một giai cấp nào, nếu không tạo ra được những lãnh tụ chính trị và đại biểu tiên phong biết tổ chức và lãnh đạo phong trào của mình thì không thể giành được địa vị thống trị. + Bất cứ một nhân vật tài năng kiệt xuất nào cũng đều mang đặc trưng của thời đại, có tính hạn chế lịch sử nhất định. Lịch sử nhân loại đã chứng minh, không có một nhân tài nào là hoàn hảo cho mọi thời đại, mà ít nhiều họ đều bị chi phối bởi hoàn cảnh sống lúc đương thời. - Lựa chọn và sử dụng đúng nhân tài là yếu tố then chốt quyết định sự thành bại của cách mạng. Khi thực hiện Chính sách kinh tế mới, V.I. Lênin chỉ ra rằng, then chốt trước mắt là ở con người, ở việc lựa chọn nhân tài. Để lựa chọn đúng nhân tài phải xác định được các tiêu chuẩn rõ ràng. Các nhà mác-xít đưa ra tiêu chuẩn để lựa chọn nhân tài là phải vừa có cả đức lẫn tài, V.I. Lênin nhấn mạnh là phải lựa chọn được người có “đầu óc tỉnh táo và bản lĩnh thực tế”. - Quan tâm bồi dưỡng con người mới phát triển toàn diện. Đây là một trong những nội dung quan trọng trong quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhân tài. Con người phát triển toàn diện được các nhà mác-xít quan niệm là con người có thể thông hiểu toàn bộ hệ thống sản xuất, có thể căn cứ vào nhu cầu của xã hội và sở trường của cá nhân mình để chuyển từ một ngành sản xuất này sang một ngành sản xuất khác, nhằm phát huy toàn diện tài năng của họ. Chủ nghĩa Mác cho rằng, lao động sản xuất kết hợp với trí lực và thể dục là phương pháp duy nhất để tạo ra con người phát triển toàn diện… - Phát hiện, bồi dưỡng, coi trọng và mạnh dạn sử dụng nhân tài trẻ tuổi. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đều rất quan tâm, coi trọng và đánh giá cao nhân tài trẻ tuổi. Ngay từ năm 1919, V.I. Lênin đã từng nói: Cần có lực lượng trẻ. Tôi thật muốn đề nghị bắn ngay tại chỗ những kẻ nào cả gan nói rằng không có nhân tài. Nhân tài của nước Nga rất nhiều, có điều cần thu hút một cách rộng rãi hơn và mạnh dạn hơn. Trước mắt đang là thời chiến. Kết cục của toàn bộ cuộc đấu tranh đều do thanh niên, do sinh viên trẻ và đặc biệt là công nhân trẻ quyết định. Hãy vứt bỏ đi mọi thói quen cũ cứng đờ chỉ coi trọng địa vị đẳng cấp [23, tr.31]. Như vậy, Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đặc biệt nhấn mạnh và coi trọng vấn đề nhân tài trong sự phát triển của xã hội, coi nhân tài và công tác nhân tài là công việc vô cùng có ý nghĩa, có tác động lớn đến sự thành bại của cách mạng ở mỗi dân tộc và tiến trình phát triển chung của cả nhân loại. 1.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhân tài Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về kế thừa, phát triển truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, về vun trồng, trọng dụng nhân tài. Tư tưởng của Người về vấn đề này được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: - Hồ Chí Minh quan niệm về nhân tài mộc mạc, dễ hiểu: Nhân tài là người vừa có đức, vừa có tài. Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, nhân tài phải là con người toàn diện, với sự kết hợp hài hoà giữa đức và tài (hồng và chuyên), trong đó đức luôn được đề cập đến trước; bởi người có tài mà không có đức thì vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Đức được hiểu là đạo đức, song "đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người" [29, tr252]. Tài được hiểu là năng lực của con người để giải quyết nhiệm vụ được giao phó. Năng lực ấy thể hiện tập trung ở trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật và lý luận [28, tr36]. - Sử dụng nhân tài hợp lý sẽ kích thích, tạo điều kiện cho nhân tài phát huy hết khả năng để đóng góp cho sự nghiệp cách mạng. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Nhân tài và Kiến quốc” (14/11/1945). Bác viết: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài” [28, tr.451]; “nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều” [28, tr.99]. Người kêu gọi đồng bào ai có tài năng, sáng kiến, thì gửi cho Chính phủ, cái gì có thể thực hành ngay, thì sẽ thực hiện ngay. Người dạy: “Việc dùng nhân tài, ta không nên căn cứ vào những điều kiện quá khắt khe… Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực vào việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy” [28, tr.39]. Từ thực tiễn phong trào cách mạng, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: “Phong trào giải phóng sôi nổi, nảy nở ra rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước” [29, tr.276]. - Sử dụng nhân tài phải công tâm, khách quan, mới có thể phát huy hết năng lực, sở trường của họ. Nhân tài là phải sử dụng đúng người đúng việc: "Nhân tài: Người nào có năng lực làm việc gì, thì đặt vào việc ấy. Nếu dùng không đúng, người giỏi nghề thợ mộc thì giao cho việc thợ rèn, người giỏi nghề rèn thì giao cho việc thợ mộc, như thế thì hai người đều thất bại cả hai". [29, tr.633]. Bác nhấn mạnh: Mục đích lựa chọn cán bộ là dùng nhân tài cần phải hợp lý, chớ “dùng thợ mộc làm nghề thợ rèn” và cho họ hiểu rõ mọi mặt các công việc họ phải phụ trách [29, tr.230]. Đồng thời Người nhắc nhở: "Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn mà kéo vào chức nọ chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình" [29, tr.105]. - Cơ quan quản lý có vai trò quan trọng trong việc phát hiện, trọng dụng nhân tài. Trong thông điệp ngày 20/11/1946 với tiêu đề “Tìm người tài đức” hay còn gọi là “Chiếu cầu hiền tài” nêu rõ tình hình đất nước như ngàn cân treo sợi tóc, hơn bao giờ hết cần có nhân lực tốt, cần nhiều người tài giỏi. Người viết: "Chính phủ nghe không đến, không thấy khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những điều những việc ích nước, lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ" [28, tr.451]. Bác luôn nhắc nhở cơ quan sử dụng cán bộ: Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta [29, tr.273-274]. Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo. Thí dụ: bắt buộc cán bộ trong mỗi ngành phải thiết thực báo cáo và cất nhắc nhân tài [29, tr.241]. Dùng cán bộ không đúng tài năng của họ, cũng là một cớ thất bại… Thí dụ: người viết giỏi nhưng nói kém lại dùng vào những việc cần phải nói. Người nói khéo nhưng viết xoàng lại dùng vào công việc viết lách. Thành thử hai người đều không có thành tích. Từ nay, công việc gì bất kỳ dù thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới. Có như thế thì người mới có tài, tài mới có dụng [29, tr.243]. Trên thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện, cảm hóa, trọng dụng nhiều nhà trí thức, nhân tài nổi tiếng như: Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Nguyễn Văn Tố, Phan Anh, Đặng Thai Mai...; những nhà khoa học nổi tiếng như: Trần Đại Nghĩa, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Minh Giám , Ngụy Như Kon Tum, Phạm Ngọc Thạch , Lương Đình Của… ; những nhà chính trị, quân sự tài ba như: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… Vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của VN, trong suốt quá trình lãnh đạo , Đảng ta luôn khẳng định và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát hiện , thu hút , đào tạo , sử dụng và tro ̣ng dụng nhân tài , coi đó là nhân tố có ý nghĩa quan trọng đối với công tác cán bộ . Nhiều văn kiện của Đảng đã đề cập đến vấn đề n ày, đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới gần đây, cụ thể như sau: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII: Đoàn kết, sử dụng hợp lý mọi lực lượng cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng; không hẹp hòi, định kiến về lý lịch và thành phần xuất thân. Kịp thời phát hiện những cán bộ trẻ, có tài, đồng thời biết sử dụng có hiệu quả những cán bộ lớn tuổi đã từng trải, có kinh nghiệm. Chống tư tưởng phong kiến gia trưởng, cục bộ địa phương trong công tác cán bộ [14, tr.586] Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII xác định: Trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn, thực hiện trẻ hoá đội ngũ cán bộ đồng thời kết hợp tốt các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, tính phát triển trong đội ngũ cán bộ. Có chính sách đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng mọi nhân tài của đất nước, trong Đảng và ngoài Đảng… Xây dựng quy chế tuyển chọn cán bộ, tuyển chọn nhân tài [14, tr.697-698] Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX: Có cơ chế và chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài. [15, tr.809] Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (khóa IX): Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Văn kiện Đại hội lần thứ X: Xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài, thu hút nhân tài vào những lĩnh vực quan trọng, không phân biệt người trong Đảng hay người ngoài Đảng. Tăng cường nguồn đầu tư của nhà nước và toàn xã hội vào việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, trước hết trên ba lĩnh vực: lãnh đạo, quản lý; sản xuất kinh doanh và khoa học - công nghệ. Chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, chuyên gia trên các lĩnh vực; bồi dưỡng nhân tài theo định hướng quy hoạch. Đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao… Có chính sách, quy chế tôn vinh những người có công; bố trí, sử dụng đúng những người có năng lực, hết lòng vì dân, vì nước; khuyến khích những người năng động, sáng tạo, có sáng kiến, có ý tưởng mới…Có cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng người có đức, có tài; thay thế kịp thời những người kém năng lực và kém phẩm chất, có khuyết điểm nghiêm trọng. [15, tr.987-988] Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ chín (khóa X) nêu rõ: Xây dựng … chiến lược quốc gia về nhân tài đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước và chủ động hội nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội lần thứ XI tiếp tục nhấn mạnh: Khuyến khích, tạo thuận lợi để người lao động học tập, nâng cao trình độ, tay nghề, đồng thời có cơ chế, chính sách phát hiện, trọng dụng nhân tài... Thực hiện đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học, công nghệ... Có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước... Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế trí thức… [17, tr.100, 106, 130] Tóm lại, nhân tài là một khái niệm hiện có nhiều cách diễn giải và đôi khi, các quan niệm chưa có sự trùng khít về nội hàm, một số quan niệm về nhân tài như: “nhân tài: người có tài” [46, tr.1239]; “nhân tài (nhân: người, tài: tài năng): Người có tài năng, có thể đảm đương việc khó” [26, tr.1318]; tài năng, là năng lực xuất sắc, khả năng làm giỏi và sáng tạo một công việc gì [32, tr.884]; “nhân tài là người có động cơ vì lợi ích xã hội, cộng đồng, sử dụng tiềm năng và khả năng một cách sáng tạo nhất, tối đa và tối ưu, thích hợp nhất vào công việc được nêu ra và giải quyết công việc đó một cách độc đáo, có kết quả và hiệu quả cao trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, có đóng góp lớn, nổi bật, kiệt xuất cho xã hội” [20, tr.382]; “nhân tài (hiền tài) là người có phẩm chất, năng lực vượt trội, có thành tích đặc biệt xuất sắc đóng góp cho sự tiến bộ và phát triển của cộng đồng, đất nước và cả nhân loại, là người vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc” [6, tr.33]; “nhân tài là người mà trong những điều kiện xã hội nào đấy, bằng lao động sáng tạo của mình, có thể làm nên những công hữu tương đối lớn cho xã hội hay một phương diện nào đó của xã hội” [23, tr.11]… Từ những quan niệm về nhân tài nêu trên, trong giới hạn nghiên cứu của luận văn, tác giả thống nhất cách hiểu về nhân tài như sau: Nhân tài nói một cách chung nhất là người vừa có đức, vừa có phẩm chất, năng lực vượt trội, sớm nhận thức được quy luật khách quan của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng và vận dụng sáng tạo trong hoạt động thực tiễn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đóng góp vượt trội hơn so với những người khác trong cùng một hoặc một số lĩnh vực cụ thể, được tập thể, cộng đồng, xã hội thừa nhận , suy tôn. Như vậy, khi nói tới nhân tài, không thể nói chung chung, trừu tượng, mà phải gắn với từng ngành, lĩnh vực cụ thể trong những không gian, thời gian nhất định. Có nhân tài ở mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hóa..., cũng như có nhiều cấp độ khác nhau của nhân tài, nhưng cao nhất là lãnh tụ, vĩ nhân... Việc xác định nhân tài không thể chỉ đơn giản thông qua hồ sơ lý lịch và văn bằng đào tạo đạt được trong một hệ thống giáo dục nhất định. Nếu như tài năng được phân tích bao gồm: phẩm chất, trình độ và năng lực, thì nhân tài chỉ được phát hiện và khẳng định thông qua kết quả hoạt động thực tế. Có phẩm chất, trình độ, năng lực thì mới hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ. Và ngược lại, người hoàn thành tốt, xuất sắc nhiệm vụ chính là minh chứng của người có phẩm chất, trình độ, năng lực. Các yếu tố phẩm chất, trình độ, năng lực phải được thể hiện ra bằng kết quả, công trạng, thành tích xuất sắc. Nhiều người có trình độ cao, được đánh giá là có phẩm chất, trình độ, năng lực sáng tạo, nhưng khi tham gia vào hoạt động thực tiễn không hoàn thành tốt, xuất sắc nhiệm vụ thì cũng không thể coi đó là nhân tài. 1.1.2. Đặc trƣng và vai trò của nhân tài 1.1.2.1. Đặc trưng của nhân tài Với quan niệm như trên, nhân tài có những đặc trưng chủ yếu sau đây: - Về phẩm chất đạo đức: Nhân tài là người có lý tưởng, mục đích sống phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và có động cơ sống trong sáng vì xã hội. Có tình thương yêu đồng loại, bao dung, vị tha sâu sắc, giàu tính nhân văn, sống không chỉ cho riêng mình mà luôn mong muốn và phấn đấu vì hạnh phúc của mọi người. Có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, khiêm tốn học hỏi, cầu tiến bộ, có ý chí phấn đấu vươn lên mãnh liệt với tinh thần chủ động, độc lập cao. Không dùng tài năng cá nhân để mưu cầu hạnh phúc riêng mà thường đem tài năng ấy đóng góp cho sự tiến bộ và phát triển của cộng đồng, đất nước cũng như của cả nhân loại. Yêu cầu đối với nhân tài của VN phải là người có lòng yêu nước, có ý thức và lòng tự tôn dân tộc chân chính, thấm nhuần và vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; gương mẫu về đạo đức, lối sống; trung thực, không cơ hội, vụ lợi, không tham
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan