Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đổi mới tổ chức và hoạt động tòa án nhân dân cấp tỉnh qua khảo sát thực tế tại h...

Tài liệu đổi mới tổ chức và hoạt động tòa án nhân dân cấp tỉnh qua khảo sát thực tế tại hà tĩnh

.PDF
92
704
140

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------- TRẦN QUỐC VIỆT ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOA ̣T ĐỘNG TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH QUA KHẢO SÁT THỰC TẾ TẠI TỈNH HÀ TĨNH LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Chính trị học Hà Nội – 2013 i ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------- TRẦN QUỐC VIỆT ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOA ̣T ĐỘNG TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH QUA KHẢO SÁT THỰC TẾ TẠI TỈNH HÀ TĨNH Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học Mã số: 60 31 02 01 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Văn Lợi Hà Nội – 2013 ii MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN...................................................................................................................... 7 1.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong bộ máy nhà nước ............................................ 7 1.2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án ................................................ 13 1.2.1. Nguyên tắc độc lập của Tòa án trong hoạt động xét xử ................................. 13 1.2.2. Nguyên tắc xét xử tập thể ............................................................................ 14 1.2.3. Nguyên tắc xem xét lại bản án theo trình tự phúc thẩm ................................. 15 1.2.4. Nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của đại diện nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án .......................................................................................................... 16 1.2.5. Nguyên tắc xét xử công khai ........................................................................ 16 1.2.6. Nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng của công dân .......................................... 17 1.3. Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong mô hình tổ chức tòa án nhân dân ở nước ta và yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động ............................................................................. 18 Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................... 23 Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM .......................................................................................... 24 2.1. Khái quát tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh từ năm 1945 đến nay .................................................................................................................. 24 2.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959 .................................................................... 24 2.1.2. Giai đoạn từ 1959 đến 1980 .................................................................... 33 2.1.3.Giai đoạn từ 1980 đến 1992 ..................................................................... 36 2.1.4. Giai đoạn từ 1992 đến 2002 .................................................................... 38 2.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 ........................................................................................... 42 2.3. Thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND tỉnh Hà Tĩnh ........................... 48 Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................... 67 iii Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH TRONG ĐIỀU KIỆN CẢI CÁCH TƯ PHÁP ........................................................................................................................ 68 3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ...... 68 3.1.1. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân ............................................................................................ 68 3.1.2. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải được tiến hành đồng bộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ quan tư pháp và các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước ................................................... 69 3.1.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải được thực hiện một cách đồng bộ với quá trình cải cách thể chế .............................. 69 3.1.4. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải gắn với yêu cầu hội nhập quốc tế, phục vụ cho việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ............................................................ 70 3.2. Một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ............................................................................................................................... 70 3.2.1. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh tiến hành đồng thời với cải cách, sắp xếp lại hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử............ 70 3.2.2. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động xét xử của Tòa án ................................................. 74 3.2.3. Nghiên cứu khả năng trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật, phán xét tính hợp pháp, hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ban hành .................................................................................. 75 3.2.4. Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán và cán bộ của Tòa án ............................................................... 76 3.2.5. Nâng cao năng lực của Hội thẩm nhân dân ............................................ 81 3.2.6. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả xét xử của Tòa án thông qua các bản án, quyết định đảm bảo công bằng, đúng pháp luật, khả thi .................................. 81 Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................... 82 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 87 iv MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là định hướng cơ bản trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Toà án nhân dân là một hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước, là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nơi biểu hiện tập trung quyền tư pháp. Trong các giai đoạn lịch sử cách mạng của nước ta, hệ thống Tòa án đã không ngừng được xây dựng, củng cố và góp phần to lớn vào công cuộc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Trong quá trình thực hiê ̣n cải cách tư pháp, Đảng ta luôn coi vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án các cấp là một nhiệm vụ trọng tâm và đã đề ra các quan điểm, phương hướng cụ thể. Đại hội Đảng lần thứ IX của Đảng đã xác định:“… Sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền xét xử của tòa án các cấp, tăng cường thẩm phán ở những địa bàn trọng điểm, quy định rõ tiêu chuẩn, trách nhiệm và thẩm quyền của hội thẩm nhân dân”[7]. Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới cũng xác định: "xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân trong tiến trình phát huy nội lực, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế"[1]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định mục tiêu xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt 1 động của Tòa án nhân dân theo hướng: “Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, theo đó Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện”[3]. Đặc biệt là, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục đề ra mục tiêu:“Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý; tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp. Đổi mới hệ thống tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách hoạt động xét xử là trọng tâm của cải cách tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa đối với các khiếu kiện hành chính” [10]. Các quan điểm, định hướng nêu trên đều khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống cơ quan tư pháp và trọng tâm của công tác xét xử. Vì vậy, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp được coi là một nhiệm vụ trọng tâm của quá trình cải cách tư pháp. Tuy nhiên, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng trong thời gian qua cũng đặt ra những vấn đề cần giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Cụ thể như về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh khi thành lập các Tòa án sơ thẩm khu vực; vấn đề mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện cũng đặt ra vấn đề thẩm quyền xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; vấn đề đổi mới việc tranh tụng tại phiên tòa…vv. Chính vì vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân có ý nghĩa quan trọng cho việc nâng cao hiệu quả công tác xét xử trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay. Từ đó, việc nghiên cứu đề tài: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh qua khảo sát thực tế tại tỉnh Hà Tĩnh” có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án, đã có một số công trình nghiên cứu đã được công bố như: - “Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của GS.TSKH Đào Trí Úc, Nhà xuất bản tư pháp, Hà Nội, 2004. - “Bàn về quản lý thẩm phán tòa án nhân dân các cấp” của tác giả Đỗ Gia Thư đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, 2005; “Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay” của tác giả Đỗ Gia Thư (Luận án tiến sĩ luật học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2006); - “Cải cách tư pháp trong cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước” của tác giả Nguyễn Đăng Dung đăng trên đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề 2011; - “Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc tổ chức tòa án theo tiêu chí chức năng, thẩm quyền” của tác giả Nguyễn Ngọc đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề 2011; - “Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện trong quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Sử (Luận án tiến sĩ luật học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2011); - “Kiến nghị nhằm nâng cao vị thế độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử” của tác giả Nguyễn Minh Sử đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số tháng 7, 2011. - “Một vài ý kiến về hoàn thiện hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta” của tác giả Nguyễn Minh Sử đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật, số tháng 7, 2011. Qua nghiên cứu, khái quát chung có thể thấy các công trình khoa học trên đây đã nghiên cứu và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Bởi vậy, luận văn tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1 Mục đích của luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói chung và Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh nói riêng, từ đó đề xuất một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau: - Phân tích cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án như phân tích, làm rõ vị trí, vai trò, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án trong bộ máy nhà nước; - Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay, trong đó đánh giá những thành tựu, những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém; - Xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh là một vấn đề rộng, có thể được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; thực trạng và giải pháp đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong thời gian tới. Phạm vi nghiên cứu được giới hạn dưới góc độ chính trị học; lý luận chung về Nhà nước và pháp luật trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. 4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận của luận văn Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lý luận nhà nước và pháp luật; mối quan hệ giữa chính trị và pháp luật. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của Triết học Mác – Lê nin và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ngành tòa án; hoàn thiện pháp luật đội ngũ công chức, hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án, tác giả luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để phân tích, khái quát các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng. - Phương pháp hệ thống: luận văn sử dụng phương pháp phân tích theo hệ thống các vấn đề nghiên cứu đặt trong hệ thống có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ như một chỉnh thể thống nhất. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh là một nội dung của đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, do vậy, phương pháp hệ thống được sử dụng để nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong mối quan hệ với đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và bộ máy nhà nước. - Phương pháp lịch sử được sử dụng trong luận văn để nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và yêu cầu đổi mới pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. - Luận văn sử dụng phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, xem xét từng vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. 5 - Phương pháp trừu tượng hóa, khái quát hóa được sử dụng trong Chương 3 nhằm đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. 6. Đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; phát huy vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý và tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận ý thức pháp luật của nhân dân đối với hoạt động của Tòa án. Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung vào lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng, nhằm thống nhất nhận thức về bản chất, vai trò của hoạt động xét xử trong đời sống xã hội. Luận văn có thể được sử dụng là tài liệu tham khảo cho các Tòa án và các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp trong hoạt động của Tòa án nhân dân. 7. Kết cấu của luận văn Kết cấu của luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương, 7 tiết, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN 1.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong bộ máy nhà nước Nghiên cứu học thuyết Mác - Lênin cho thấy rằng trong quá trình phát triển của đời sống xã hội, khi chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được thì Nhà nước ra đời. Nhà nước ra đời đã trở thành công cụ bạo lực của giai cấp thống trị, nhằm đàn áp, cai trị giai cấp khác. Giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thống trị về kinh tế, nắm giữ quyền lực chính trị, quản lý xã hội, thể hiện ý chí giai cấp mình thành pháp luật và buộc các giai cấp khác trong xã hội phải tuân thủ (lịch sử các nhà nước quân chủ cho thấy các chiếu chỉ, mệnh lệnh của nhà vua có tính phục tùng tuyệt đối). Tuy nhiên, ý chí của giai cấp thống trị sẽ không đạt được, nếu ý chí đó chỉ mới dừng lại ở việc thể hiện những quy phạm, những điều luật, hay bộ luật mà để ý chí đó đi vào cuộc sống trở thành ý chí chung của toàn xã hội thì phải tổ chức ra bộ máy để thực hiện nhiệm vụ này, đó chính là bộ máy hành pháp với lực lượng đàn áp, cưỡng chế là quân đội, cảnh sát. Đồng thời, để cho pháp luật – ý chí của giai cấp thống trị được tuân thủ trong đời sống xã hội, đòi hỏi phải hình thành một hệ thống cơ quan bảo đảm việc giám sát, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, đó là cơ quan xét xử. Hệ thống cơ quan nhân danh Nhà nước để xét xử các hành vi vi phạm pháp luật chính là Tòa án. Như vậy, với sự ra đời của Nhà nước thì quyền lực nhà nước được thể hiện ở ba quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, trong đó quyền tư pháp là quyền xét xử do Tòa án thực hiện và chức năng xét xử không thể tách rời khỏi Nhà nước. Ở chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến, Nhà nước chủ yếu được tổ chức theo hình thức quân chủ, nên quyền lập pháp, hành pháp và xét xử đều tập trung vào giai cấp chủ nô và phong kiến do 7 nhà vua thống trị. Nhà vua vừa là người ban hành các đạo luật, vừa là người quyết định tổ chức thực hiện và cũng là người có quyền lực xét xử cao nhất. Vì vậy, Tòa án chưa được tổ chức thành hệ thống rõ nét và hoạt động độc lập với các tổ chức khác trong bộ máy nhà nước chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Vào thế kỷ 17 và 18, với sự phát triển mạnh mẽ của giai cấp tư sản giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại đã có tiếng nói, trào lưu chính trị kêu gọi, đấu tranh để hạn chế quyền lực tuyệt đối của nhà vua, tiến tới xóa bỏ Nhà nước phong kiến. Các học giả tư sản trong thời kỳ này đã đưa ra các luận điểm cho rằng cần phải có sự tách bạch quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó điển hình là tư tưởng của John Locce, Montesquieu...vv. Theo Montesquieu, quyền lực nhà nước được phân chia thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và tư tưởng phân chia quyền lực này đã trở thành hạt nhân của học thuyết "Tam quyền phân lập". Montesquieu cho rằng khi quyền lập pháp được sáp nhập với quyền hành pháp và tập trung trong tay một người hay một tập đoàn người, thì sẽ không có tự do, bởi vì điều này có thể dẫn tới việc chính nhà vua hay nghị viện ấy sẽ đưa ra những đạo luật độc đoán để thi hành một cách vô nguyên tắc. Đồng thời, sẽ không có tự do nếu quyền xét xử không được phân biệt với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền xét xử được sáp nhập vào quyền lập pháp, thì sẽ không có tự do; nếu quyền xét xử được nhập vào quyền hành pháp thì Thẩm phán sẽ trở thành những kẻ áp bức. Với tư tưởng này, ông cho rằng để có một Nhà nước pháp quyền theo quan niệm phân lập quyền lực của Nhà nước tư sản, cũng như các cơ quan nhà nước khác, thì Tòa án phải được tổ chức độc lập, có sự tham gia đối trọng và chế ước, kiểm soát với nhánh quyền lập pháp và hành pháp, bởi vì có như vậy mới bảo vệ được chế độ dân chủ, bảo đảm tự do cho công dân phù hợp với ý chí của giai cấp tư sản và trong khuôn khổ pháp luật tư sản. Theo quan điểm của giai cấp tư sản thì Tòa án là cơ quan bảo vệ pháp luật quan trọng nhất, bảo vệ công lý và là người trọng tài vô tư, khách quan để đánh giá các hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp 8 phát sinh trong thực tiễn đời sống xã hội. Muốn vậy, hoạt động của Tòa án phải được quy định để không chỉ giới hạn ở việc xét xử đối với hành vi của các cá nhân mà còn đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hay nói cách khác, sự độc lập của Tòa án với cơ quan lập pháp và hành pháp là đảm bảo quan trọng nhất cho việc bảo vệ các quyền con người, hạn chế sự lạm quyền, xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Sự độc lập của Tòa án với hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp đã có ảnh hưởng rất lớn đến việc xác lập chế độ dân chủ tư sản, đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến, hạn chế sức mạnh của nhà vua. Tuy nhiên, tính độc lập của Tòa án trong Nhà nước tư sản cũng phụ thuộc rất nhiều vào cách thức tổ chức hình thức chính thể (Cộng hòa Đại nghị, Cộng hòa Tổng thống), nhưng cho dù chính thể nào thì sự độc lập của Tòa án chính là yếu tố quan trọng nhất để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Bàn về vấn đề này, A.Hamiton cho rằng trong tất cả các yếu tố khiến cho ngành tư pháp có thể duy trì được tính độc lập và cương quyết của mình, thì nhiệm kỳ của vị Chánh án là yếu tố quan trọng nhất. Chính vì vậy, với sự phát triển của dân chủ thì hoạt động của Tòa án ngày càng mở rộng đến cả những người thực thi pháp luật khi chính họ có những hành vi vi phạm pháp luật, thậm chí Tòa án còn xem xét đến các hành vi vi hiến. Ngay từ khi Nhà nước ra đời thì chức năng chung của Nhà nước là quản lý xã hội, biến ý chí của giai cấp thống trị thành pháp luật và dùng các công cụ, biện pháp quyền lực để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Để quản lý Nhà nước, quyền lực nhà nước được thể hiện dưới các hình thức là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Các hình thức này tương ứng với ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích của các chủ thể pháp 9 luật. Như vậy, nói đến tư pháp là nói đến việc xét xử theo pháp luật và quyền tư pháp do hệ thống tòa án độc lập thực hiện với chức năng đặc trưng là xét xử, là một phương thức thực thi quyền lực nhà nước. Tòa án là cơ quan nhân danh Nhà nước thực hiện việc xét xử, bảo vệ công lý; hiệu lực, hiệu quả xét xử của Tòa án là thước đo tính dân chủ, công bằng và lòng tin của nhân dân. Bản chất hoạt động xét xử của Tòa án là áp dụng pháp luật và thông qua đó Tòa án chuyển tải, thể hiện quyền lực nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị vào đời sống xã hội. Vì vậy, nếu Tòa án hoạt động không minh bạch, khách quan thì công lý không được bảo vệ, trật tự an toàn xã hội không được bảo đảm. Đồng thời, thông qua hoạt động xét xử, các quy định pháp luật còn được chuyển tải đến các đối tượng khác trong xã hội, giúp họ nhận thức, nâng cao ý thức pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Bàn về vấn đề này, V.I. Lê nin đã viết: “Tòa án cần phải đảm đương một nhiệm vụ khác còn quan trọng hơn nữa, đó là nhiệm vụ bảo đảm cho người lao động chấp hành một cách nghiêm chỉnh nhất kỷ luật và kỷ luật tự giác”.[26] Như vậy, xét xử là chức năng quan trọng nhất của Tòa án. Khi đảm nhận chức năng xét xử, Tòa án có vai trò, vị trí nhất định trong bộ máy nhà nước. Hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước để xem xét, đánh giá và phán quyết về tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay tính công bằng trong các tranh chấp giữa các bên liên quan. Đặc trưng cơ bản của hoạt động xét xử là Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước và sự nhân danh quyền lực nhà nước đã làm cho các bản án, quyết định do Tòa án ban hành được bảo đảm thực thi bởi Nhà nước thông qua các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tuy nhiên, ở mỗi hình thái kinh tế xã hội, kiểu Nhà nước với chế độ chính trị khác nhau, bộ máy nhà nước được tổ chức khác nhau, trong đó Tòa án có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ cũng khác nhau. Ở Nhà nước chiếm hữu nô lệ và phong kiến, quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp và hành pháp và đều do giai cấp thống trị (giai cấp chủ nô và giai cấp phong kiến) nắm giữ và sử dụng thông qua người đại diện là nhà vua. Ở Nhà nước tư 10 sản, để hạn chế dần khả năng thực hiện quyền lực vô hạn cũng như đảm bảo tính dân chủ trong đời sống xã hội, các nhà tư tưởng tư sản đã đưa ra lý thuyết về tam quyền phân lập, theo đó quyền tư pháp có sự phân lập với quyền lập pháp và hành pháp để đảm bảo tính kiềm chế và đối trọng lẫn nhau. Tòa án chính là một nhánh quyền lực nhà nước thực hiện chức năng xét xử các hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội. Cùng với quá trình phát triển của xã hội, thẩm quyền của Tòa án được mở rộng; tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tòa án được nâng cao và ngày càng có tính hệ thống. Ở nước ta, mặc dù không áp dụng nguyên tắc tam quyền phân lập như nhiều nước tư sản nhưng những kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của Tòa án của các nước trên thế giới cũng là cơ sở quan trọng để chúng ta vận dụng, tham khảo trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyề n lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho Toà án nhân dân. Do vậy, Toà án nhân dân có vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà nước; là trung tâm của quyền tư pháp, là nơi thể hiện công lý trong bộ máy nhà nước. Quyền tư pháp được hiểu là một bộ phận của quyền lực nhà nước được giao cho các cơ quan tư pháp để bảo vệ pháp luật, duy trì trật tự xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp là thước đo sự công bằng trong xã hội. Hoạt động xét xử được coi là hoạt động trọng tâm trong việc thực hiện quyền tư pháp và chức năng xét xử được Hiến pháp quy định là chức năng riêng Tòa án, bởi vậy, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân được quy định tương đối cụ thể trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992: “Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và 11 các tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [13]. Với việc thực hiện chức năng xét xử, Toà án nhân dân có vai trò quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Toà án nhân dân là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật. Chức năng, nhiệm vụ của Toà án nhân dân được xác định là: - Toà án xét xử những vụ án hình sự; những vụ án dân sự (bao gồm những tranh chấp về dân sự; những tranh chấp về hôn nhân và gia đình; những tranh chấp về kinh doanh, thương mại; những tranh chấp về lao động); những vụ án hành chính; giải quyết những việc dân sự (bao gồm những yêu cầu về dân sự; những yêu cầu về hôn nhân và gia đình; những yêu cầu về kinh doanh, thương mại; những yêu cầu về lao động); giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; xem xét và kết luận cuộc đình công hợp pháp hay không hợp pháp. Ngoài ra, Toà án còn có thẩm quyền giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật (quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại tại Trọng tài; ra quyết định thi hành án hình sự; hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; ra quyết định miễn chấp hành hình phạt hoặc giảm mức hình phạt đã tuyên; ra quyết định xoá án tích…vv). - Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bằng hoạt động của mình, Toà án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. 12 1.2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án Để thực hiện vai trò của cơ quan có chức năng xét xử, bảo đảm công lý, tổ chức và hoạt động của Tòa án phải được tổ chức theo những nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án có tính phổ biến là: 1.2.1. Nguyên tắc độc lập của Tòa án trong hoạt động xét xử Xét xử là quá trình áp dụng pháp luật để xử lý, giải quyết các tranh chấp, hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo công lý. Bản chất của hoạt động xét xử - tài phán là hoạt động đòi hỏi phải độc lập để đảm bảo công bằng, nếu hoạt động xét xử không độc lập thì việc xét xử sẽ không khách quan, sự độc lập của Tòa án được thể hiện cơ bản qua sự độc lập của Thẩm phán. Về sự độc lập của Tòa án trong hoạt động xét xử, C.Mác đã nói: “Cấp trên của quan toà là luật pháp”. Điều này đòi hỏi rằng khi xét xử, Thẩm phán độc lập, không bị ràng buộc bởi ý kiến của bất cứ ai, không bị chi phối bởi ý kiến của ai; không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử của Thẩm phán. Khi xét xử, Thẩm phán độc lập, nhưng phải tuân theo pháp luật. Thẩm phán phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để đưa ra ý kiến, quyết định của mình về từng vấn đề của vụ án, không được tuỳ tiện hay bằng cảm tính. Do đó, để đảm bảo sự độc lập của Tòa án, pháp luật cần có sự quy định rõ ràng trách nhiệm độc lập của tòa án, của thẩm phán và cơ chế đảm bảo không có sự tham gia, can thiệp trái pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Muốn vậy, trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, cần thiết phải có sự phân định rõ ràng về thẩm quyền của Tòa án và các cơ quan lập pháp và hành pháp cùng với trách nhiệm, nghĩa vụ tương ứng để ngăn ngừa sự lạm quyền và can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử. Để đảm bảo sự độc lập của tòa án, nhiều nước thiết kế mô hình tổ chức tòa án theo địa hạt mà không trùng với phạm vi địa giới quản lý hành chính của các cơ quan quản lý hành chính địa phương nhằm giảm thiểu sự can thiệp của cơ quan hành chính đối với hoạt động của tòa án; quy định những cơ chế, điều kiện đảm bảo sự độc lập của thẩm phán không 13 chỉ trong hoạt động xét xử mà còn liên quan đến các vấn đề an ninh khác đối với Thẩm phán và gia đình họ. Yêu cầu đặt ra đối với thẩm phán là độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không chịu áp lực của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Bởi vậy, pháp luật tố tụng của các nước đều quy định quyền của người tham gia tố tụng được yêu cầu thay đổi thẩm phán khi có căn cứ cho rằng họ không vô tư, khách quan khi thực thi nhiệm vụ xét xử, đồng thời cũng quy định trách nhiệm của thẩm phán phải từ chối tiến hành các hoạt động tố tụng khi có những căn cứ tương tự. Nguyên tắc này cũng được thể hiện ở sự độc lập của thẩm phán tòa án cấp dưới trước sự chỉ đạo của tòa án cấp trên và trường hợp bản án sơ thẩm không đúng pháp luật sẽ được xem xét lại theo các trình tự, thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Để có sự độc lập của thẩm phán, ngoài việc quy định trách nhiệm của tòa án, thẩm phán thì đòi hỏi thẩm phán được lựa chọn, bổ nhiệm phải là những người có trình độ chuyên môn, pháp luật cao, có kinh nghiệm thực tiễn và sự công tâm, trách nhiệm trong việc thực thi nhiệm vụ bảo vệ công lý. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy rằng để đảm bảo sự độc lập của thẩm phán, pháp luật quy định thẩm phán được bổ nhiệm bởi nguyên thủ quốc gia theo nhiệm kỳ hoặc suốt đời và những điều kiện đảm bảo chế độ đãi ngộ về lương, điều kiện làm việc nhằm thể hiện sự tôn vinh và đề cao trách nhiệm của thẩm phán phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong thực thi các nhiệm vụ, quyền hạn xét xử theo pháp luật. 1.2.2. Nguyên tắc xét xử tập thể Xét xử tập thể là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Tòa án. Nguyên tắc này thể hiện việc xét xử thông qua hội đồng (tùy vào cấp xét xử và tính chất vụ việc) nhằm phát huy trí tuệ tập thể, đảm bảo tính dân chủ, thận trọng, khách quan khi Tòa án đưa ra phán quyết. Việc thực hiện nguyên tắc xét xử tập thể sẽ góp phần tạo ra sự đồng thuận, thống nhất về quan điểm, cách thức giải quyết vụ việc từ nhiều góc độ để đảm 14 bảo tính khách quan, đúng pháp luật và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Đồng thời, việc xét xử theo nguyên tắc tập thể còn là cơ chế để tạo ra sự vô tư trong hoạt động xét xử, ngăn ngừa sự tùy tiện, thiên vị trong xét xử và điều này sẽ tạo được niềm tin cho công chúng trong việc tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh các phán quyết của tòa án. Nguyên tắc này ở một chừng mực nào đó cũng là rào cản để ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử từ những cơ quan, tổ chức, cá nhân bên ngoài cũng như sự e dè, ngần ngại của thẩm phán và giảm áp lực cho thẩm phán trong hoạt động xét xử. Việc thực hiện nguyên tắc xét xử tập thể cũng phụ thuộc vào điều kiện cụ thể ở mỗi nước. Có nước thực hiện nguyên tắc xét xử tập thể theo hội đồng; có nước xét xử thông qua bồi thẩm đoàn và thẩm phán; có nước áp dụng nguyên tắc tập thể khi xét xử những vụ việc phức tạp và chỉ ở cấp sơ thẩm ….Tuy việc áp dụng nguyên tắc xét xử tập thể có sự khác nhau ở mỗi nước nhưng nguyên tắc này góp phần quan trọng trong việc đảm bảo sự độc lập, khách quan của thẩm phán trong hoạt động xét xử. 1.2.3. Nguyên tắc xem xét lại bản án theo trình tự phúc thẩm Xét xử là hoạt động liên quan trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người, quyền công dân (quyền sống, quyền tự do, quyền sở hữu, danh dự, nhân phẩm…), vì vậy, yêu cầu đối với hoạt động xét xử là phải đảm bảo sự công bằng, khách quan, đúng pháp luật. Thực tế cho thấy rằng hoạt động xét xử là hoạt động tư duy của con người có thẩm quyền xét xử là thẩm phán, hội thẩm, vì thế có thể có những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án không khách quan, không đúng pháp luật đòi hỏi phải có sự xem xét lại theo trình tự, thủ tục phúc thẩm để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Nguyên tắc xem xét lại bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án theo trình tự phúc thẩm tạo thành nguyên tắc xét xử hai cấp trong tổ chức và hoạt động của tòa án. Việc thực hiện hai cấp xét xử có ý nghĩa đảm bảo quyền 15 kháng cáo, kháng nghị và đảm bảo tính chính xác, phù hợp và đúng đắn nhất của bản án, quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định, pháp luật nhiều nước còn quy định quyền của công dân, trong thời hạn nhất định, được yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm khi có căn cứ cho rằng có vi phạm pháp luật trong quá trình xét xử hay có tình tiết mới liên quan làm thay đổi nội dung vụ án. Cùng với việc quy định các trình tự xét xử theo hai cấp, pháp luật của một số nước cũng quy định đối với trường hợp vụ việc đơn giản, tranh chấp nhỏ bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể được tổ chức thi hành ngay mà không cần chờ hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. 1.2.4. Nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của đại diện nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vì vậy sự tham gia của nhân dân vào hoạt động xét xử của tòa án là cần thiết để bảo đảm các giá trị dân chủ, công bằng trong tổ chức và hoạt động của Tòa án. Sự tham gia của nhân dân vào hoạt động xét xử được thể hiện ở việc nhân dân thực hiện quyền giám sát, tham gia hoạt động xét xử thông qua hội thẩm, bồi thẩm. Nguyên tắc này được pháp luật của nhiều nước quy định nhưng tùy điều kiện từng nước mà cách thức tham gia có sự khác nhau. Một số nước quy định sự tham gia của bồi thẩm đoàn trong hoạt động xét xử, xác định bị cáo có tội hay không, còn bị cáo phạm tội gì, mức phạt như thế nào lại do thẩm phán quyết định; có nước quy định sự tham gia của hội thẩm nhân dân hay phụ thẩm trong hội đồng xét xử để đảm bảo sự thận trọng, khách quan trong hoạt động xét xử. 1.2.5. Nguyên tắc xét xử công khai Trong lịch sử hoạt động xét xử của tòa án, các tội phạm thường được đưa ra xét xử tại công đường để bàn dân thiên hạ có thể chứng kiến. Với việc chứng kiến việc xét xử các hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp, người dân có thể nhận thức đúng đắn được các quy tắc xử sự, những điều cấm của pháp luật trong đời sống xã hội, góp phần răn đe, giáo dục 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan