ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------
ÔNG THỊ MAI HUYỀN
HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ TRẺ KHUYẾT TẬT HÕA NHẬP CỘNG
ĐỒNG TẠI TRUNG TÂM DẠY NGHỀ NGƢỜI TÀN TẬT NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------
ÔNG THỊ MAI HUYỀN
HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ TRẺ KHUYẾT TẬT HÕA NHẬP CỘNG
ĐỒNG TẠI TRUNG TÂM DẠY NGHỀ NGƢỜI TÀN TẬT NGHỆ AN
Luận văn thạc sỹ ngành : Công tác xã hội
Mã số
: 60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH XÃ HỘI HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hữu Minh
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Hữu Minh
Các tài liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, đảm bảo
tính khách quan, khoa học, mọi kết quả đều dựa vào quá trình khảo sát và
thực địa trên thực tế. Các tài liệu tham khảo đều có nguồn gốc xuất xứ rõ
ràng.
Tác giả
Ông Thị Mai Huyền
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành được luận văn tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực
không ngừng của bản thân tôi còn nhận được rất nhiều sự hướng dẫn, giúp đỡ,
động viên của thầy cô, gia đình, bạn bè cũng như chính quyền địa phương và
các cơ quan đoàn thể tại địa bàn nghiên cứu.
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn
Hữu Minh – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam, người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình, định hướng
chuyên môn và truyền đạt những kinh nghiệm quý báu cho tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tập thể các thầy cô giáo đã
trực tiếp, cũng như các thầy cô giáo trong khoa Xã hội học – Trường đại học
khoa học xã hội và nhân văn đã truyền tải những kiến thức chuyên ngành
trong suốt quá trình học tập để tôi có được nền tảng kiến thức vững chắc.
Tôi xin cảm ơn chính quyền địa phương, Trung tâm dạy nghề người tàn
tật Nghệ An đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi có thể hoàn thành luận văn
này
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã quan tâm
giúp đỡ và động viên, khuyến khích tôi trong suốt thời gian qua để tôi hoàn
thành luận văn được tốt hơn.
Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2014
Học viên cao học
Ông Thị Mai Huyền
BẢNG TÓM TẮT
PVS
Phỏng vấn sâu
TKT
Trẻ khuyết tật
CB, NV
Cán bộ, nhân viên
GĐ
Gia đình
NVXH
Nhân viên xã hội
CTXH
Công tác xã hội
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
NỘI DUNG CHÍNH ............................................................................................. 22
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU . 22
1.1. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ............................................................ 22
1.1.1. Lý thuyết hệ thống ........................................................................................ 22
1.1.2. Lý thuyết Quản trị Công tác xã hội ............................................................. 24
1.1.3. Lý thuyết nhu cầu ......................................................................................... 26
1.2. Khái niệm công cụ ........................................................................................... 27
1.3. Chính sách của Đảng và Nhà nước về người khuyết tật ............................... 32
1.4. Đặc diểm địa bàn nghiên cứu.......................................................................... 33
1.4.1. Một vài nét sơ lược về điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của tỉnh Nghệ
An ............................................................................................................................. 33
1.4.2. Một số nét cơ bản về Trung tâm giáo dục và dạy nghề người tàn tật nghệ
An ............................................................................................................................. 35
CHƢƠNG 2. HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ CHO TRẺ KHUYẾT TẬT HÕA
NHẬP CỘNG ĐỒNG TẠI TRUNG TÂM DẠY NGHỀ NGƢỜI TÀN TẬT
NGHỆ AN .............................................................................................................. 37
2.1. Nguyên tắc hoạt động của trung tâm trong các hoạt động hỗ trợ trẻ khuyết
tật hòa nhập cộng đồng ........................................................................................... 37
2.1.1. Quan điểm, tư tưởng của trung tâm trong hoạt động hỗ trợ TKT hòa nhập
cộng đồng ................................................................................................................ 37
2.1.2. Mục đích của trung tâm: .............................................................................. 39
2.1.3. Mục tiêu của trung tâm................................................................................. 40
2.1.4. Đội ngũ cán bộ, nhân viên làm việc tại trung tâm ...................................... 41
2.1.5. Đối tượng tham gia mô hình trong trung tâm ............................................. 42
2.1.6. Ngân sách hoạt động .................................................................................... 43
2.2. Hoạt động hỗ trợ trẻ khuyết tật trong trung tâm: ........................................... 44
2.2.1. Hoạt động quản lý, chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ khuyết tật....................... 44
2.2.2. Hoạt động giáo dục văn hóa – phục hồi chức năng.................................... 47
2.2.3. Hoạt động hướng nghiệp và dạy nghề ........................................................ 51
2.2.4. Hoạt động tư vấn việc làm ........................................................................... 53
2.2.5. Hoạt động dạy kỹ năng sống........................................................................ 55
2.2.6. Một số hoạt động khác ................................................................................. 58
CHƢƠNG 3: SỰ HÕA NHẬP CỦA TRẺ KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG
TÂM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG .................................................. 60
3.1. Đặc điểm tâm lý của trẻ khuyết tật tại trung tâm ........................................... 60
3.2. Sự hòa nhập của trẻ khuyết tật tại trung tâm.................................................. 61
3.2.1. Hòa nhập trong môi trường sinh hoạt.......................................................... 61
3.2.2. Hòa nhập trong cộng đồng ........................................................................... 68
3.3. Nhu cầu nâng cao hoạt động kỹ năng sống tại trung tâm ............................. 72
3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hòa nhập của trẻ khuyết tật tại trung tâm...... 75
3.4.1. Yếu tố cơ sở vật chất của trung tâm ............................................................ 75
3.4.2. Phương thức quản lý của trung tâm và hoạt động của nhân viên .............. 77
3.4.3. Yếu tố cá nhân của các em ........................................................................... 81
3.4.4. Yếu tố gia đình.............................................................................................. 84
3.5. Vai trò của cán bộ, nhân viên tại trung tâm ................................................... 88
3.6. Ưu Điểm và hạn chế của trung tâm ................................................................ 92
3.7. Đề xuất nâng cao hoạt động kỹ năng sống cho trẻ khuyết tật....................... 94
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ....................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 101
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Khuyết tật là một trong những vấn đề đang nhận được nhiều sự quan tâm
không chỉ riêng ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới. Theo thống kê của
Liên Hợp Quốc (UN) khảo sát năm 2007, trên thế giới có khoảng 10% người
khuyết tật tương đương với 650 triệu người. Cứ 10 trẻ em thì có 1 trẻ phải đối
mặt với khuyết tật. Cũng theo tổ chức này, 90% trẻ khuyết tật ở các nước
đang phát triển không được đến trường [41]. Trong bản “Báo cáo tình hình
trẻ em thế giới 2013: Trẻ em khuyết tật” của UNICEF, cho đến nay trên toàn
thế giới có khoảng 93 triệu trẻ em (dưới 14 tuổi) bị khuyết tật ở mức độ vừa
hoặc nặng [36]. Tuy nhiên, trong thực tế con số này chưa phải là con số chính
xác số lượng trẻ khuyết tật trên thế giới, mà con số chính xác sẽ phải cao hơn
nhiều.
Ở trong nước, theo con số thống kê năm 2010, Việt Nam có khoảng 6,7
triệu người khuyết tật, trong đó 3,6 triệu là phụ nữ và hơn 5 triệu người sống
ở nông thôn. Việt Nam có khoảng 1,2 triệu TKT, trong đó tỉ lệ TKT trí tuệ:
27%; TKT vận động 20%; TKT ngôn ngữ: 19%; Khiếm thính: 12,43%;
Khiếm thị: 12%; các loại KT khác: 7%; trẻ đa tật chiếm 12,62 %.Trẻ khuyết
tật nặng chiếm khoảng 31% [12].
Nguyên nhân gây nên khuyết tật chủ yếu là do bẩm sinh, bệnh tật, do hậu
quả chiến tranh và do tai nạn lao động. Dự báo trong nhiều năm tới số lượng
người khuyết tật ở Việt Nam chưa giảm do tác động của ô nhiễm môi trường,
ảnh hưởng của chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam,
tai nạn giao thông và tai nạn lao động, hậu quả thiên tai…
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và triển khai nhiều hoạt động nhằm trợ
giúp cho người khuyết tật, đặc biệt là sau khi Luật cho người khuyết tật và các
chính sách hỗ trợ liên quan được thực hiện cuộc sống của người khuyết tật
1
trong và ngoài các trung tâm xã hội đã được quan tâm hơn rất nhiều đặc biệt
là trong việc dạy nghề, hỗ trợ trong việc tìm kiếm việc làm cho người khuyết
tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng.
Bên cạnh những hoạt động đã làm được thì hoạt động hỗ trợ kỹ năng
sống, quan tâm đến các vấn đề tâm lý trong các trung tâm cho trẻ em khuyết
tật vẫn chưa được nhìn nhận và đánh giá đúng đắn. Để trẻ khuyết tật nói
chung và trẻ khuyết tật trong trung tâm nói riêng có thể hòa nhập với xã hội
một cách tốt hơn thì ngoài việc giáo dục, dạy nghề cho các em chúng ta cũng
cần phải chú trọng đến vấn đề đảm bảo các kỹ năng sống cho trẻ khuyết tật để
các em có tâm thế vững vàng và những kỹ năng cần có để có thể hòa nhập
cộng đồng một cách tốt hơn.
Tỉnh Nghệ An nằm ở vùng Bắc Trung Bộ nước Việt Nam, với địa hình
đồi núi bị chia cắt phức tạp, việc đi lại không thuận lợi nên nhiều vùng dân
tộc còn gặp khó khăn và bị hạn chế về nhiều mặt trong đó có việc tiếp cận
với các dịch vụ hỗ trợ cho trẻ khuyết tật. Dân số Nghệ An gần 3 triệu người
với 20 huyện thị xã thành phố. Tỉnh Nghệ An có gần 203.900 đối tượng [44]
là người khuyết tật, so với toàn quốc thì Nghệ An là tỉnh có số người khuyết
tật cao nhất. Trung tâm dạy nghề người tàn tật Nghệ An là trung tâm dạy nghề
lớn nhất của tỉnh về công tác giáo dục và dạy nghề cho người khuyết tật nói
chung và trẻ em khuyết tật nói riêng. Ngoài số lượng trẻ khuyết tật từ thành
phố còn có trẻ khuyết tật từ các vùng quê của tỉnh đến nhập học, phần nhiều
trong số đó là những trẻ em, gia đình có hoàn cảnh khó khăn từ các vùng
nông thôn, miền núi đến với hi vọng được học tập và đào tạo nghề. Mặc dù
đây là trung tâm dạy nghề cho người khuyết tật lớn nhất của tỉnh, đội ngũ cán
bộ giáo viên tâm huyết với nghề, là trung tâm áp dụng mô hình hoạt động
giáo dục, dạy nghề cho trẻ khuyết tật khá hiệu quả nhưng với số lượng người
khuyết tật nói chung và trẻ khuyết tật nói riêng của Tỉnh quá đông nên việc
2
giúp đỡ được các đối tượng còn gặp những hạn chế nhất định. Đặc biệt là
trong việc tiếp cận với các khóa học về kỹ năng sống cho các em vẫn chưa
được quan tâm, trong khi đó các kiến thức và kỹ năng (mang tính bài bản
chuyên nghiệp) của cán bộ, nhân viên trong trung tâm - với tư cách là một
nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp lại còn nhiều hạn chế.
Tất cả những vấn đề trên đã gợi nên trong tôi hướng đề tài nghiên cứu:
“Hoạt động hỗ trợ trẻ khuyết tật hòa nhập cộng đồng tại Trung tâm dạy
nghề người tàn tật Nghệ An”
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu trên thế giới về vấn đề hòa nhập cho trẻ khuyết tật
Trên thế giới có các nghiên cứu về trẻ khuyết tật với những nhóm người
và trẻ khuyết tật khác nhau. Trong đó, nhiều nghiên cứu về các hoạt động trợ
giúp người khuyết tật nói chung và TKT nói riêng là vấn đề được giới chuyên
môn quan tâm và trên thế giới đã có không ít công trình nghiên cứu về vấn đề
này. Đã có các vấn đề được nghiên cứu như hòa nhập cho trẻ hướng vào xã
hội, tại cộng đồng, địa bàn nơi trẻ sinh sống, trong trường lớp, trong các hoạt
động xã hội khác…
Nghiên cứu của Ervin Goffman (1963) đã miêu tả 3 loại kì thị: (1) “sự
ghê sợ cơ thể”, tức là những kì thị liên quan đến những biến dạng thể chất; (2)
“nhược điểm về tính cách của một cá nhân”, chẳng hạn như một người bị coi
là thiếu ý chí nếu có những đam mê không bình thường hoặc không trung
thực; (3) “kỳ thị bộ lạc”, tức là kì thị về sắc tộc, quốc tịch hoặc tôn giáo hoặc
làm việc hay tham gia một tổ chức xã hội bị khinh miệt. Công trình sau đó
của Parker và Aggleton (2003) đã coi kì thị là một quá trình xã hội, sản sinh
và tái sản sinh ra những mối quan hệ về quyền lực và sự kiểm soát. Họ cũng
nghiên cứu kì thị được sử dụng như thế nào để biến sự khác biệt thành sự bất
3
bình đẳng, giúp một số nhóm người hạ thấp giá trị của nhóm khác dựa trên
những thuộc tính “khác biệt” (Ogden và Nyblade, 2005).
Theo định nghĩa của Goffman, tình trạng khuyết tật có thể dẫn đến kỳ thị
loại thứ nhất đối với người khuyết tật. Tuy nhiên, một số dạng khuyết tật cũng
có thể dẫn đến kỳ thị loại thứ hai. Ngoài ra, quan điểm truyền thống coi
khuyết tật là sự trừng phạt tội lỗi của tổ tiên, thần linh cũng có ảnh hưởng lớn
ở đây. Vì vậy, khuyết tật có liên quan đến sự xỉ nhục và sự thương hại. Kỳ thị
có lẽ xảy ra ở mức độ nặng nhất đối với người khuyết tật về tâm thần vì theo
quan điểm của đạo Phật và thuyết duy linh thì họ bị coi là bị quỷ ám (Hunt,
2002, dẫn lại từ viện nghiên cứu phát triển xã hội, 2009) [20].
Từ những nghiên cứu này, chúng ta có thể liên hệ đến tình trạng kì thị ở
Việt Nam khi vẫn có nhiều người (đặc biệt là ở các vùng nông thôn, vùng sâu
vùng xa) cho rằng, khuyết tật (nhất là những người bị khuyết tật bẩm sinh) là
sự trừng phạt của tổ tiên, thần linh đến cá nhân, gia đình đấy vì một lỗi lầm
nào đó mà họ đã gây ra, hay nói một cách khác nó là “luật nhân quả” mà họ
phải gánh chịu. Đây là một trong những nguyên nhân khiến nhiều người có
định kiến về người khuyết tật, không chỉ người khác có cái nhìn kì thị mà có
một số người khuyết tật cảm thấy tự ti và nhiều khi kì thị chính bản thân
mình.
Nghiên cứu “Supporting Families including children with disabilities”
[24] dịch là “Hỗ trợ gia đình bao gồm trẻ em khuyết tật” năm 2008, của hai
tiến sỹ Eileen Brennan và Julie M. Rosenzweig, Nhân viên xã hội chuyên
nghiệp Lisa Stewart đã nhấn mạnh đến việc chăm sóc trẻ có nhu cầu đặc biệt
(ở đây nhấn mạnh đến trẻ khuyết tật) trong các gia đình ở Mỹ. Tại đây, nghiên
cứu đã đưa ra những số liệu về nhóm trẻ khuyết tật có nhu cầu chăm sóc đặc
biệt, về sự khó khăn của trẻ em trong vấn đề hòa nhập và học tập, sự khó khăn
của cha mẹ về thời gian, tài chính và áp lực xã hội khi chăm sóc con cái là trẻ
4
khuyết tật, những rào cản ngăn trở sự phát triển hòa nhập của trẻ. Nghiên cứu
này giúp chúng ta có một cái nhìn so sánh với những vấn đề khó khăn của
TKT trong vấn đề hòa nhập và khó khăn của gia đình trong chăm sóc trẻ
khuyết tật ở Việt Nam, những khó khăn tương tự mà cha mẹ có TKT gặp phải
như phân chia công việc như thế nào để có thể chăm sóc trẻ, áp lực khi có con
cái là TKT ra sao, khó khăn trong vấn đề cho trẻ học hòa nhập như thế
nào…Nghiên cứu giúp chúng ta nhìn nhận một số phương pháp có thể áp
dụng nhằm trợ giúp trẻ khuyết tật hòa nhập cộng đồng được tốt hơn như tăng
cường sự tham gia của cộng đồng, giảm bớt sự kì thị, giúp đỡ, hỗ trợ cả trẻ và
gia đình trong vấn đề ổn định tâm lý và cân bằng thời gian chăm sóc cho trẻ.
Nghiên cứu “The inclusion of children with a disability in child care:
The influence of experience, training and attitudes of childcare staff” [32]
dịch là “Vấn đề hòa nhập trẻ em khuyết tật trong việc chăm sóc trẻ: Những
ảnh hưởng từ kinh nghiệm, quá trình tập huấn và thái độ của độ ngũ đảm nhận
công việc chăm sóc trẻ" của Heather Mohay, Emma Reid, Queensland
University of Technology, Úc, năm 2013 đã điều tra các mối quan hệ giữa
thái độ đối với người khuyết tật, đào tạo, kinh nghiệm và ảnh hưởng của mỗi
khách thể ghi danh trong chăm sóc trẻ em đối với trẻ em khuyết tật. Nghiên
cứu này xem xét mối quan hệ giữa đào tạo và kinh nghiệm của nhân viên
chăm sóc trẻ và thái độ của họ đối với người khuyết tật. Sự ảnh hưởng của
đào tạo, kinh nghiệm và thái độ về việc thực hành bao gồm cả trẻ em khuyết
tật tại các trung tâm chăm sóc trẻ em trong một khu vực đô thị của Thành phố
Brisbane. Ý kiến của học viên về các yếu tố khác có ảnh hưởng bao gồm
thành công của trẻ em đó trong chương trình của họ cũng đã được tìm kiếm.
Dựa vào các công cụ nghiên cứu, các chỉ số về rào cản hòa nhập, kinh
nghiệm, đào tạo, thái độ đã cho ra kết quả như sau: xu hướng người nhân viên
chăm sóc trẻ thiên về thái độ tích cực hơn đối với người khuyết tật. Hơn nữa,
5
nó thể hiện nhiều hơn ở những người đã được trải qua các khóa đào tạo, tập
huấn và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực khuyết tật ở trẻ. Nghiên cứu này
giúp chúng ta có một cái nhìn so sánh về nhân viên chăm sóc TKT, nó giúp
chúng ta có thêm cơ sở, dữ liệu nhằm liên hệ và tìm hiểu về thái độ và trình
độ nhân viên chăm sóc trẻ trong các trung tâm ở Việt Nam. Từ đó xem xét
các chương tình giáo dục và dạy nghề và các hoạt động ngoại khóa nhằm giúp
TKT tiến tới mục tiêu hòa nhập cộng đồng được dễ dàng hơn.
Nghiên cứu “Teaching Functional Life Skills to Youth with Disabilities”
[23] dịch là “Giảng dạy kỹ năng sống về phục hồi chức năng cho thanh thiếu
niên khuyết tật”, nghiên cứu được tiến hành tại tiểu bang Colorado của
Morgen Alwell và Brian Cobb, 2006 cho thấy việc giảng dạy kỹ năng sống
cho thanh thiếu niên khuyết tật là rất cần thiết. Nghiên cứu chỉ ra các kỹ năng
thiết yếu mà thanh thiếu niên khuyết tật cần được dạy trong từng lĩnh vực như
kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho
việc giảng dạy; kỹ năng tự chăm sóc cá nhân, kỹ năng trong vấn đề giải trí và
nhu cầu tinh thần, kỹ năng tự bảo vệ bản thân và hướng dẫn họ dựa vào cộng
đồng như thế nào. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng cần có một hệ thống bộ công
cụ giảng dạy phong phú, linh hoạt, có phần riêng biệt và các kỹ năng can
thiệp riêng cho từng mức độ loại khuyết tật khác nhau với từng dạng đối
tượng.
Nghiên cứu “Outcomes for Disabled Children” [34] dịch là “Kết quả
nghiên cứu trẻ em khuyết tật” của Patricia Sloper, Parvaneh Rabiee, Bryony
Beresford, năm 2007 cho thấy những mơ ước, khao khát của TKT không có
sự khác biệt so với trẻ không khuyết tật. Tuy nhiên, ý nghĩa của những mong
đợi đó, cái cách mà trẻ được ưu tiên và mức độ về thành quả mà trẻ mong đợi
thì lại khác với trẻ không khuyết tật. Ví dụ như trẻ muốn có bạn bè, được xem
là một phần của cộng đồng địa phương, được xã hội thừa nhận và quan tâm,
6
có các kỹ năng sống để có thể sống độc lập trong tương lai…Nghiên cứu cũng
chỉ ra nguyện vọng giáo dục và học tập của phụ huynh đối với vấn đề giáo
dục của con em mình thay đổi theo mức độ nghiêm trọng khuyết tật mà trẻ
gặp phải. Tất cả các bậc cha mẹ muốn con mình phát huy tiềm năng học tập
của mình. Đối với TKT có khả năng nhận thức cao hơn những trẻ có vấn đề
khuyết tật nặng, các bậc cha mẹ muốn con của họ ít nhất là đạt được các kỹ
năng cơ bản như đọc, viết và một số nhận thức cơ bản nhất.
Đối với kỹ năng tự chăm sóc trong cuộc sống: Trong khi trẻ em không
bị khuyết tật độc lập thường có thể làm một cái gì đó mà không cần sự giúp
đỡ thì đối với nhiều trẻ em khuyết tật, điều này là không thể đạt được trong
một số lĩnh vực của cuộc sống của họ. Chính vì vậy kỹ năng tự chăm sóc như
làm sinh hoạt cá nhân, tự làm đồ ăn nhẹ, có thể đi ra ngoài một mình, biết
quản lý tiền bạc là một trong những kỹ năng được xem là quan trọng nhất cần
quan tâm trong giảng dạy cho TKT.
2.2. Nghiên cứu tại Việt nam về vấn đề hòa nhập cộng đồng cho trẻ
khuyết tật
Nghiên cứu “Người khuyết tật ở Việt Nam: Một số kết quả chủ yếu từ
tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam 2009” [18], năm 2011 cho thấy, tỷ lệ
khuyết tật thị giác là lớn nhất, tiếp đó là khuyết tật vận động và tập trung hoặc
ghi nhớ. Tuy nhiên, trong nhóm khuyết tật có mức độ vừa và nặng thì khuyết
tật về vận động, ghi nhớ hoặc tập trung lại phổ biến hơn, tình trạng đa khuyết
tật thì khá phổ biến trong nhóm người khuyết tật. Nghiên cứu cũng đã chỉ ra
sự thiệt thòi của người khuyết tật trong mọi mặt như trong giáo dục là tỷ lệ
người khuyết tật trưởng thành không biết đọc, biết viết cao hơn người không
khuyết tật trưởng thành, khác biệt này càng lớn khi mức độ khuyết tật càng
nặng. Tương tự, tỷ lệ biết đọc, biết viết của thanh thiếu niên không khuyết tật
cao hơn đáng kể so với thanh thiếu niên khuyết tật (97.1% so với 69.1%)
7
[18;tr.27]. Tỷ lệ người khuyết tật được đi học và hoàn thành các bậc học cũng
cao hơn so với người khuyết tật. Tài liệu này cũng cho biết thực trạng giáo
dục của trẻ em có khuyết tật nặng hơn và trẻ em đa khuyết tật kém hơn hẳn so
với trẻ em không khuyết tật.
Trong hôn nhân và điều kiện sống: Người khuyết tật thường sống độc
thân hoặc sống trong hộ gia đình có quy mô nhỏ khá phổ biến. Họ cũng có
mong muốn được kết hôn và xây dựng gia đình nhưng số lượng người khuyết
tật có thể kết hôn còn thấp. Người khuyết tật có nhu cầu nhưng lại ít nhận
được sự hỗ trợ và chăm sóc trong gia đình.
Trong việc tham gia lực lượng lao động và việc làm: Người khuyết tật có
tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thấp hơn và tỷ lệ thất nghiệp ở cả khu vực
nông thôn và đô thị cao hơn so với người không khuyết tật.
Nghiên cứu cũng đề xuất những chính sách, giải pháp xuất phát từ
những nhu cầu thực tiễn của người khuyết tật liên quan đến mọi mặt như về
việc làm, giáo dục, văn hóa… tạo điều kiện cho người khuyết tật dễ dàng hơn
trong vấn đề hòa nhập cộng đồng.
“Báo cáo về trẻ khuyết tật và gia đình trẻ khuyết tật tại Đà Nẵng” [3]
năm 2009 cho thấy rằng, những cụm có hoạt động giáo dục hòa nhập hiệu quả
thì kiến thức, thái độ, hành vi của các cấp (chính quyền, cộng đồng, nhà
trường…) đều theo chiều hướng tích cực hơn những cụm ít có hoặc giáo dục
hòa nhập không hiệu quả. Tài liệu cũng chỉ ra các hệ thống hiện tại ảnh hưởng
đến sự hòa nhập xã hội của địa bàn như về hệ thống hỗ trợ xã hội thì quan
điểm của nhiều gia đình có TKT chia sẻ rằng họ đã không nhận được bất kỳ
sự tư vấn hay hướng dẫn cần thiết nào từ các nhân viên y tế liên quan đến việc
điều trị và hỗ trợ cho trẻ khuyết tật. Nhiều cha mẹ của trẻ khuyết tật đang rất
thiếu kiến thức tổng quát về chăm sóc sức khỏe cho chính con cái mình. Xét
về mặt tích cực, tại địa bàn các bậc cha mẹ mong muốn tham gia vào các
8
chương trình phục hồi cho trẻ khuyết tật và thực tế các chương trình phục hồi
hiệu quả đã được thực hiện và đem lại kết quả tích cực ở một số nơi. Tuy
nhiên trong thực tế thì vẫn còn rất ít cha mẹ tham gia vào các khóa tập huấn
soạn riêng cho các gia đình có trẻ khuyết tật về các vấn đề liên quan đến việc
can thiệp sớm, giáo dục hòa nhập, phục hồi chức năng, chăm sóc trẻ...
Nguyên nhân của vấn đề này là do thông tin hạn chế về các khóa tập huấn,
thiếu thời gian, tâm lý ngại tiếp xúc với người khác, thái độ „cứ để mọi việc
diễn ra tự nhiên‟; không thấy ích lợi cho con cái từ những khóa đào tạo, đặc
biệt là cho những trẻ bị khuyết tật nặng bởi họ cho rằng tình hình của con
mình là không thể điều trị hoặc không thể nào cải thiện được. Quan điểm của
các bên hữu quan cho biết dù đã có rất nhiều loại hình hỗ trợ từ chính quyền
địa phương cho trẻ khuyết tật nhưng những hỗ trợ này vẫn chưa thể đáp ứng
được các nhu cầu của trẻ khuyết tật và gia đình có trẻ khuyết tật ở Đà Nẵng.
Điều đó là do sự thiếu đồng bộ trong việc phân loại tình trạng khuyết tật và
thiếu nguồn quỹ khiến cho TKT và gia đình chúng nhận được ít hỗ trợ hơn,
ngoài ra UNICEF chỉ ra rằng vấn đề không chỉ nằm ở chỗ là thiếu ngân quỹ
mà còn nằm ở hệ thống kế hoạch, việc phân bổ ngân quỹ từ khu vực này sang
khu vực khác.
Về giáo dục, phần lớn các bậc cha mẹ đều muốn gửi con khuyết tật đến
các trường chuyên biệt. Họ có cảm giác đây mới là những môi trường được
chăm sóc chuyên biệt và phù hợp cho tình trạng khuyết tật của con mình.
Việc tạo môi trường thân thiện cho giáo dục hòa nhập và sự can thiệp sớm
cũng như giáo dục dạy nghề lâu dài hơn sẽ cho phép trẻ khuyết tật không chỉ
phát triển các kỹ năng tự chăm sóc cơ bản cho trẻ mà còn cho phép trẻ có
được cơ hội có việc làm trong tương lai và trong cộng đồng sinh sống nói
chung. Quan điểm của các bên hữu quan thì khuyến khích giáo dục hòa nhập
9
và cung cấp các chương trình chuyên sâu cho trẻ khuyết tật với sự hỗ trợ từ
các tổ chức phi chính phủ.
Dự án “Chương trình hòa nhập cộng đồng cho người khuyết tật” [19]
của Tổ chức cứu trợ nhân đạo Việt Nam (CRS) dưới sự tài trợ của Cơ quan
phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) được tiến hành tại Việt Nam từ 2005 –
2013 thúc đẩy hòa nhập giáo dục và xã hội cho người khuyết tật. Dự án nhấn
mạnh đến vấn đề xây dựng giáo trình giảng dạy cho giáo viên trên nguyên tắc
và thực hành giáo dục hòa nhập, tổ chức các khóa đào tạo cán bộ và giáo viên
về giáo dục hòa nhập. Chiến lược của dự án cũng nhấn mạnh nâng cao nhận
thức của gia đình TKT về vấn đề giáo dục hòa nhập và xã hội cho trẻ, hỗ trợ
hoạt động của các nhóm đồng đẳng và đào tạo các kỹ năng sống cho trẻ
khuyết tật để thúc đẩy hào nhập xã hội, nâng cao sự tự tin và giúp TKT có các
kỹ năng cơ bản, đặc biệt là những kỹ năng tự chăm sóc bản thân. Đối với
thanh niên khuyết tật còn có đào tạo các kỹ năng công nghệ thông tin nâng
cao, kỹ năng mềm mà kỹ năng tìm kiếm việc làm.
Sau những chính sách, luật pháp ban hành làm cơ sở để hỗ trợ về học tập
và đào tạo nghề cho trẻ khuyết tật thì việc nâng cao kỹ năng sống, hỗ trợ tâm
lý cho trẻ khuyết tật ngày một được quan tâm. Năm 2011, “Nghiên cứu định
tính về trẻ khuyết tật tại An Giang và Đồng Nai” [17] cho thấy rằng, kiến thức
về khái niệm, các nguyên nhân và phân loại TKT, thái độ, không đồng đều
giữa các nhóm đối tượng đích khác nhau, kiến thức về phòng ngừa khuyết tật,
phát hiện và can thiệp sớm của các bậc phụ huynh tham gia nghiên cứu cũng
bị hạn chế. Đặc biệt, khi nghiên cứu về thái độ, nghiên cứu cho thấy gia đình,
nhà trường đã không chú ý tới sự kì thị vô tình hay cố ý của những trẻ không
khuyết tật đối với TKT, sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương là rất nhỏ và
nhiều TKT nặng ít có cơ hội được tiếp nhận các dịch vụ xã hội cần có. Nghiên
cứu cũng đề cập đến kỹ năng sống của trẻ khuyết tật khi phân tích vấn đề
10
TKT thường có xu hướng kìm nén cảm xúc trước những phiền toái và bất
công mà những người khác gây ra cho các em. Hình thái này xảy ra ở cả hai
địa bàn nghiên cứu: ở trong trường và ngoài trung tâm. Trong khi nhiều trẻ có
xu hướng kìm nén cảm xúc thì có một số em lại có những cách cư xử tinh tế
giúp các em tránh khỏi sự trêu ghẹo, đàm tếu mà ngược lại còn giúp các em
củng cố các mối quan hệ. Nghiên cứu phát hiện rằng, một số trẻ có thể cư xử
tinh tế thì được sống trong sự chăm sóc tận tình và tình thương bao la của gia
đình và hàng xóm.
Từ các cuộc nghiên cứu trên, người nghiên cứu đã có một cái nhìn khái
quát về tình trạng người khuyết tật nói chung và TKT nói riêng. Những phát
hiện trong vấn đề tìm hiểu về kiến thức, thái độ, hành vi của các đối tượng
cần quan tâm đã giúp cho người nghiên cứu định hướng những bước đi trong
nghiên cứu của mình. Đặc biệt là sự kết nối giữa các ban ngành, đoàn thể
cộng đồng trong vấn đề trợ giúp người khuyết tật nói chung và TKT hòa nhập
cộng đồng nói riêng.
Bên cạnh những nghiên cứu đã được tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy rằng
ở Việt Nam vẫn chưa có một nghiên cứu chính thức, tổng quát nào chuyên
sâu về các hoạt động hỗ trợ trẻ khuyết tật hòa nhập cộng đồng, đặc biệt là vấn
đề dạy kỹ năng sống cho trẻ khuyết tật ở trong và ngoài trung tâm. Hiện nay
nước ta đã ban hành những chính sách, văn bản pháp luật hỗ trợ người khuyết
tật, đặc biệt là trong việc giáo dục và hỗ trợ việc làm nhưng lại chưa có những
quan tâm đúng mức trong việc dạy kỹ năng sống cho người khuyết tật nói
chung và trẻ khuyết tật nói riêng.
Người khuyết tật cũng rất cần được quan tâm và được đào tạo về kỹ năng
sống để có thể đương đầu với những khó khăn, thử thách khi bước vào một
môi trường làm việc mới hay nơi ở mới để tránh cho bản thân không bị khủng
hoảng khi gặp những trở ngại, rào cản mà trước đó họ không hề đối mặt.
11
Cho đến nay, đã có những nghiên cứu về trẻ khuyết tật trên các mặt như
y học, thực trạng, giải pháp nhưng chưa có những nghiên cứu theo hướng
công tác xã hội, đặc biệt là trong vấn đề kỹ năng sống cho trẻ khuyết tật nhằm
nâng cao khả năng hòa nhập cộng đồng được tốt hơn. Đó cũng là một trong
những lý do chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu về hoạt động hỗ trợ cho trẻ
khuyết tật hòa nhập cộng đồng tại trung tâm.
2.3. Một số hoạt động cơ bản hỗ trợ trẻ khuyết tật hòa nhập cộng đồng ở
Việt Nam
Những năm gần đây, vấn đề xây dựng luật pháp và các văn bản chính
sách nhằm nâng cao quyền lợi và hỗ trợ người khuyết tật nói chung, TKT nói
riêng đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Các chỉ thị và văn bản
hướng dẫn chính sách, luật cho cán bộ nhằm giúp đỡ người khuyết tật được
trải khai rải khắp các địa bàn cả nước, nhờ đó các hoạt động hỗ trợ người
khuyết tật và TKT hòa nhập cộng đồng cũng đạt được một số thành tựu đáng
kể.
Trong các hoạt động hỗ trợ TKT hòa nhập cộng đồng, hoạt động giáo
dục hòa nhập cho TKT được xem là mục tiêu chiến lược. Hiện nay Việt Nam
có ba hướng tiếp cận giáo dục cho TKT đó là giáo dục hòa nhập, giáo dục bán
hòa nhập và giáo dục chuyên biệt. Theo Bộ Giáo dục và đào tạo, Việt Nam có
trên 100 trường chuyên biệt chăm sóc khoảng 7000 trẻ bị khuyết tật nặng [16;
tr.193]. Các trường này dạy dỗ, đào tạo nghề, chăm sóc thể chất và chăm sóc
y tế cho các em.
Việt Nam đã xây dựng giáo dục hòa nhập thành một mục tiêu chính
sách, nhằm giáo dục tất cả trẻ em trong một bối cảnh giáo dục chung. Mục
tiêu này đặc biệt hướng tới những em bị tách khỏi hệ thống giáo dục chung vì
các lí do liên quan đến vấn đề giới, dân tộc, vùng sâu vùng xa, đói nghèo và
khuyết tật. Giáo dục hòa nhập thúc đẩy ý tưởng rằng với các phương pháp
12
giáo dục tốt và có sự hỗ trợ của cộng đồng, tất cả trẻ em đều được hưởng lợi
từ việc học chung trong một lớp học bình thường. Đó cũng được xem là
phương pháp hiệu quả để tạo ra cộng đồng, trường học và xã hội không phân
biệt đối xử. Theo chính sách quốc gia ưu tiên đưa TKT và trẻ em thuộc các
nhóm thiệt thòi khác vào giáo dục chính quy, giáo dục hòa nhập đã trở thành
mô hình chuyển tải dịch vụ giáo dục được ưa chuộng. TKT ở mức độ nhẹ và
trung bình được khuyến khích học tập cùng với các trẻ em khác trong cộng
đồng bình thường. Giáo dục hòa nhập được thực hiện ở cả 63 tỉnh thành với
sự tham gia của hơn 300.000 TKT. Nhiều lớp có “Vòng bè bạn” gồm những
người bạn cùng lớp sẵn sàng hỗ trợ TKT trong trường học [27]
Mặc dù chúng ta biết rằng giáo dục hòa nhập cho TKT rất quan trọng và
cần thực hiện ngay nhưng do điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ cán bộ giảng
dạy và một số yếu tố khách quan khác nên việc cho hầu hết các TKT vào học
môi trường giáo dục hòa nhập tại các trường bình thường là chưa thể thực
hiện ngay lập tức. Nước ta vẫn đang có những chính sách chuyển đổi dần cho
phù hợp các mục tiêu vì TKT được hòa nhập cộng đồng. Một số chuyển đổi
chính đó là lồng ghép các chương trình giáo dục cơ bản vào các các giáo trình
dạy học chuyên biệt cho TKT tại các cơ sở trung tâm chuyên biệt.
Về dịch vụ y tế, mạng lưới trạm y tế xã đã phát triển ở hầu hết các tỉnh,
thành phố của cả nước, 98,6% xã, phường có trạm y tế xã và 67,7% xã,
phường có bác sỹ và gần 85% thôn bản có cán bộ y tế cộng đồng, đảm bảo
đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh tối thiểu cho người dân và khám cho
người khuyết tật. Mạng lưới phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng đã được
phát triển ở 51/63 tỉnh, thành phố với hơn 50% số huyện, trên 50% số xã.
Theo đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008 có
52,4% người khuyết tật đi khám bệnh, phục hồi chức năng nhận được sự hỗ
trợ về kinh phí (giảm viện phí) [1; tr.15]. Các hoạt động, chính sách nhằm
13
- Xem thêm -