Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hợp tác nghiên cứu trong cộng đồng khoa học hiện nay qua nghiên cứu trường hợp ...

Tài liệu Hợp tác nghiên cứu trong cộng đồng khoa học hiện nay qua nghiên cứu trường hợp tại trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, đại học quốc gia hà nội

.PDF
121
436
130

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------ TRẦN VĂN KHAM HỢP TÁC NGHIÊN CỨU TRONG CỘNG ĐỒNG KHOA HỌC HIỆN NAY (QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQG HÀ NỘI) LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI HỌC HÀ NỘI-2004 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------- TRẦN VĂN KHAM HỢP TÁC NGHIÊN CỨU TRONG CỘNG ĐỒNG KHOA HỌC HIỆN NAY (QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQG HÀ NỘI) LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI HỌC Người hướng dẫn khoa học PGS.TS Nguyễn An Lịch HÀ NỘI-2004 MỤC LỤC Phần mở đầu 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 3 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4 4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5 5. Đối tượng khảo sát và phạm vi khảo sát 5 6. Khung lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu 7 7. Bố cục của luận văn 8 Phần nội dung nghiên cứu 10 Chương 1: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 10 1.1. Lược sử vấn đề nghiên cứu 10 1.1.1. Điểm luận những hướng nghiên cứu cơ bản trong lịch sử xã hội học khoa học 10 1.1.2. Điểm luận những nghiên cứu về hợp tác nghiên cứu 11 1.1.3. Những công trình nghiên cứu về khoa học và hợp tác nghiên cứu tại Việt Nam 13 1.2. Những luận điểm lý thuyết 14 1.2.1. Chủ nghĩa Mác Lênin 14 1.2.2. Quan điểm xã hội học khoa học của R.Merton 16 1.2.3. Những quan điểm xã hội học trong giai đoạn chuyển từ 18 mô hình cũ sang mô hình mới 1.2.4. Lý luận về mạng lưới xã hội và lý thuyết trao đổi 1.3. Những khái niệm cơ bản 19 24 1.3.1. Cộng đồng khoa học 24 1.3.2. Hợp tác nghiên cứu 30 1.4. Các phương pháp thu thập thông tin 33 ii Chương 2: Hợp tác nghiên cứu trong cộng đồng khoá học (qua nghiên cứu tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) 34 2.1. Một số nét khái quát về cộng đồng khoa học Trường Đại học 34 Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội 2.2. Một số yếu tố thúc đẩy quá trình hợp tác nghiên cứu 46 2.3. Các hình thức hợp tác nghiên cứu 61 2.4. Các hình thức giao tiếp trong hợp tác nghiên cứu 79 2.5. Lợi ích và chi phí đạt được trong quá trình hợp tác nghiên cứu 84 Phần kết luận và khuyến nghị 90 1. Kết luận 90 2. Khuyến nghị 93 Tài liệu tham khảo và trích dẫn 95 Phụ lục A 97 Phụ lục B 101 iii PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Ngay sau khi thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định hoạt động khoa học là một trong những nội dung then chốt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một trong những vấn đề cốt lõi trong việc xây dựng đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nghị quyết 37 của Đảng ngày 20/01/1981 được xem như là một điểm khởi đầu cho việc hoạch định chính sách khoa học và kỹ thuật nước nhà trong tình hình mới. Quan điểm của Đảng được thể hiện trong Nghị quyết này là: mọi hoạt động khoa học và kỹ thuật trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội phải hướng vào phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm. Trong những năm tiếp theo, hoạt động khoa học và công nghệ nước nhà cũng có nhiều chuyển biến, có tác dụng hữu hiệu cho quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nước nhà. Sau 10 năm đổi mới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá 8 (ngày 24/12/1996) cũng xác định những chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến năm 2000. Đến Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Đảng và Nhà nước ta xác định tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII với phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ đến năm 2005 và đến năm 2010 theo tinh thần đổi mới quản lý, tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ… Đó là những vấn đề cơ bản và cần thiết đối với sự phát triển xã hội. Phân công lao động và phối hợp các hoạt động là hai nội dung cơ bản của một tổ chức, nhóm xã hội. Thực hiện được hai vấn đề này là điều kiện cần thiết để tổ chức, nhóm xã hội đó tồn tại và phát triển. Cộng đồng khoa học cũng được xem như là một nhóm xã hội đặc thù, gồm những nhà khoa học tham gia vào các hoạt động khoa học và công nghệ. Những cá nhân trong 1 nhóm xã hội này có những đặc điểm chung về chức năng xã hội của họ, có liên quan đến vị thế, vai trò, địa vị xã hội… Nghiên cứu các khía cạnh của cộng đồng khoa học sẽ góp phần làm rõ các luận cứ khoa học quan trọng trong việc thực hiện tinh thần Nghị quyết TW2 khoá VIII. Tuy nhiên, trong thời gian qua việc nghiên cứu những nội dung khác nhau của cộng đồng khoa học vẫn chưa thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu. Luật khoa học và công nghệ (2000) có xác định hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động xã hội hướng đến sản xuất, tạo dựng các tri thức khoa học, ứng dụng các tri thức khoa học, đáp ứng các nhu cầu phục vụ xã hội. Theo UNESCO, hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm tất cả các hoạt động có hệ thống liên quan chặt chẽ tới việc sản xuất, nâng cao, truyền bá và ứng dụng các kiến thức khoa học và công nghệ, chẳng hạn các khoa học chính xác và khoa học tự nhiên, cơ khí và kỹ thuật học, y học, khoa học nông nghiệp cũng như các khoa học xã hội và nhân văn. Đây là môi trường khoa học tạo dựng được nhiều hình thức tương tác lẫn nhau giữa các nhà khoa học. Để qua đó, các nhà khoa học thể hiện được mình, chứng tỏ được mình, tiếp thu được kinh nghiệm quý báu cho hoạt động chuyên môn của bản thân. Mối quan hệ giữa các thế hệ trong khoa học cũng như việc đào tạo lực lượng những nhà khoa học trẻ đang là vấn đề đáng lưu ý trong sự phát triển của cộng đồng khoa học (nghiên cứu và triển khai). Phối hợp, cộng tác nghiên cứu giữa các thành viên trong cộng đồng khoa học, giữa thành viên trong cộng đồng khoa học này với các thành viên cộng đồng khoa học khác là điều cần thiết, cần thúc đẩy. Hành động xã hội đó là những yếu tố sơ khởi, tiềm tàng, tạo nên được những nhân tố mở rộng về số lượng và chất lượng của các nhà khoa học, của cả cộng đồng khoa học. Theo Nghị định 97/CP ngày 10/12/1993 của Thủ tướng Chính phủ, Đại học Quốc gia Hà Nội được hình thành dựa trên sự sắp xếp, điều chỉnh một số trường Đại học lớn ở Hà Nội. Sứ mệnh của Đại học Quốc gia Hà Nội là phải 2 trở thành một trung tâm đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao, đạt trình độ tiên tiến, làm nòng cốt trong hệ thống giáo dục đại học, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội. Nội dung hoạt động khoa học và công nghệ của Đại học Quốc gia gồm 3 nội dung cơ bản: Nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ. Với tư cách là thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội, với truyền thống gần nửa thế kỷ của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn là nơi tập trung nhiều nhà khoa học với nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn khác nhau, đã trở thành cộng đồng khoa học vững mạnh, đang dần đáp ứng những nhu cầu do thực tiễn xã hội đặt ra. Trong 6 chương trình hoạt động định hướng phát triển Nhà trường theo hướng chuẩn hoá-hiện đại hoá đến năm 2010, việc đào tạo một lực lượng các nhà khoa học đủ chất lượng phục vụ nhu cầu thực tiễn xã hội, đòi hỏi có những hướng triển khai phù hợp. Trong thời gian qua, Nhà trường đã từng bước phát huy những lợi thế của các nhà khoa học theo các mô hình làm việc theo nhóm, tăng cường tính liên ngành, liên thế hệ, hỗ trợ bổ sung kiến thức lẫn nhau, cùng tham gia thực hiện những nội dung hoạt động khoa học và công nghệ đã được các nhà khoa học tiến hành thực hiện… Những hoạt động đó đã làm cho diện mạo hoạt động khoa học và công nghệ của Nhà trường được đổi mới, hoà nhập cùng xu hướng phát triển nghiên cứu và đào tạo trong tình hình mới, dần đáp ứng được những nhu cầu của xã hội đặt ra. Từ những vấn đề trên, luận văn đi vào nghiên cứu vấn đề Hợp tác nghiên cứu trong cộng đồng khoa học hiện nay (qua nghiên cứu tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội). 2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu 2.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu Trên cơ sở học hỏi và kế thừa những hướng nghiên cứu và lý luận nghiên cứu đi trước, đề tài bước đầu vận dụng những lý luận về cộng đồng khoa học, 3 hợp tác nghiên cứu, lý luận trao đổi… trong việc đánh giá, tiếp cận vấn đề nghiên cứu. Đồng thời, thông qua việc vận dụng những phương pháp nghiên cứu mới về nghiên cứu lịch sử cuộc đời và đo lường xã hội (scientometrics), luận văn cũng nhằm định hình được những phương pháp nghiên cứu cụ thể, hữu hiệu đối với những hình thức nghiên cứu về mô hình hợp tác. Mặt khác, luận văn cũng mong muốn tóm lược một số luận điểm mới của xã hội học khoa học đương đại phù hợp với đề tài nghiên cứu và những vấn đề hiện thực của xã hội Việt Nam. 2.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu Với những đánh giá, kết luận trong quá trình nghiên cứu, đề tài này sẽ đề xuất một số giả định về mặt chính sách nhằm khuyến khích và đẩy mạnh hoạt động hợp tác nghiên cứu giữa các nhà khoa học (tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội), góp phần vào sự nghiệp xây dựng Nhà trường theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá các mặt hoạt động, xây dựng Nhà trường, Đại học Quốc gia Hà Nội theo hướng Đại học nghiên cứu ngang tầm với các trường đại học trong khu vực và trên thế giới. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm sáng tỏ hoạt động hợp tác nghiên cứu giữa các nhà khoa học dưới góc nhìn của xã hội học khoa học. Hoạt động này đã được thực hiện dựa trên những mục đích khác nhau của hợp tác nghiên cứu giữa các nhà khoa học; tìm ra được những mô hình hợp tác phổ biến trong hoạt động nghiên cứu hiện nay giữa các nhà khoa học… 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tiến hành giải quyết những nhiệm vụ chính sau: Nhiệm vụ thứ nhất: Xác định những cơ sở lý luận chính và hướng tiếp cận chính cho vấn đề nghiên cứu. 4 Nhiệm vụ thứ hai: Mô tả và lý giải mối quan hệ giữa lợi ích và chi phí đạt được trong quá trình hợp tác giữa các nhà khoa học Nhiệm vụ thứ ba: Xác định một số cách đo lường hoạt động hợp tác giữa các nhà khoa học bằng việc ứng dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành. Nhiệm vụ thứ tư: Từ những đánh giá và kết luận ban đầu của vấn đề nghiên cứu, luận văn sẽ gợi mở những giải pháp, chính sách hợp lý nhằm đưa hoạt động hợp tác nghiên cứu theo hướng xây dựng Nhà trường trở thành đại học nghiên cứu. 4. Khách thể, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Khách thể nghiên cứu: hoạt động hợp tác nghiên cứu của các nhà khoa học 4.2. Đối tượng nghiên cứu: Hợp tác nghiên cứu trong cộng đồng khoa học 4.3. Phạm vi nghiên cứu: Do đây là vấn đề nghiên cứu khá phức tạp, đề tài nghiên cứu chỉ tập trung đến một số khía cạnh sau: (i) Mô tả những khác biệt trong hoạt động hợp tác giữa những nhà khoa học trong cộng đồng khoa học (trường đại học); xác định được vị trí và vai trò của các nhà khoa học với nhiệm vụ chính là nhà sư phạm; (ii) Lý giải những yếu tố tác động tạo nên sự khác biệt trong hoạt động hợp tác nghiên cứu giữa các nhà khoa học. 5. Đối tƣợng khảo sát và phạm vi khảo sát: 5.1. Đối tượng khảo sát: Đối tượng khảo sát của đề tài là những nhà khoa học đang làm việc tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 5.2. Phạm vi khảo sát: 5 Do những hạn chế về điều kiện vật chất, khoa học, đề tài chỉ dừng lại nghiên cứu tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Việc khảo sát được tiến hành từ tháng 3.2004 đến 9.2004 Những hoạt động hợp tác của các nhà khoa học được đề cập từ năm 2000 đến năm 2004. 5.3. Mô tả mẫu nghiên cứu Khảo sát 110 nhà khoa học bằng bảng hỏi với cơ cấu mẫu như sau: - Về giới tính: 70.9% là nam, 29.1% là nữ - Về độ tuổi: + Dưới 35 tuổi: 47.3% + Từ 35 đến 45 tuổi: 23.6% + Trên 45 tuổi: 29.1% Độ tuổi trung bình trong mẫu nghiên cứu là 38 tuổi - Về học vị: + Cử nhân: 18.2% + Thạc sỹ: 49.1% + Tiến sỹ: 32.7% - Về kết quả nghiên cứu trong 5 năm qua: + Dưới 5 công trình nghiên cứu: 72.2% + Từ 5 đến 10 công trình nghiên cứu: 18.2% + Trên 10 công trình nghiên cứu: 9.1% Số công trình nghiên cứu trung bình trong mẫu nghiên cứu của các nhà khoa học trong 5 năm qua là 4 công trình 6 6. Khung lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu 6.1. Khung lý thuyết SỨ MỆNH, VỊ THẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HỢP TÁC NGHIÊN CỨU Những yếu tố thúc đẩy, định hướng Những nội dung hợp tác Những hình thức giao tiếp Lợi ích-chi phí thông qua hợp tác 6.2. Giả thuyết nghiên TÍNH cứu CỐ KẾT CỦA CỘNG ĐỒNG KHOA HỌC 6.2.1. Giả thuyết 1: Hợp tác nghiên cứu là một mô hình hành động được nhiều nhà khoa học quan tâm, thực hiện. Hoạt động hợp tác được chủ yếu thực hiện qua các hoạt động đồng tác giả bài viết, đồng hướng dẫn luận văn/luận án; đồng chủ trì đề tài… sự kết hợp giữa nhà khoa học già và trẻ có xu hướng nổi bật hơn mô hình già-già, trẻ-trẻ. 6.2.2. Giả thuyết hai: Lợi ích thu được từ hành động hợp tác nghiên cứu được thể hiện đáng chú ý là sự chia sẻ - trao truyền: tri thức, kỹ năng, phương pháp; tạo nên những hình thức tranh luận, phê phán các quan điểm khoa học. 7 6.2.3. Giả thuyết ba: Chi phí từ hành động hợp tác sẽ thể hiện rõ nét ở khía cạnh kinh tế, thời gian, sự phức tạp trong quản lý. 6.2.4. Giả thuyết 4: Hợp tác nghiên cứu trong cộng đồng khoa học tạo thành chất cố kết cộng đồng khoa học. 7. Bố cục và nội dung của luận văn: Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài 2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5. Đối tượng khảo sát và phạm vi khảo sát 6. Khung lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu 7. Bố cục và nội dung của luận văn Phần nội dung nghiên cứu Chương 1: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 1.1. Lược sử vấn đề nghiên cứu 1.2. Những nguyên tắc phương pháp luận 1.3. Những khái niệm cơ bản 1.3.1. Khái niệm cộng đồng khoa học 1.3.2. Khái niệm hợp tác nghiên cứu 1.4. Những luận điểm xã hội học về hoạt động hợp tác 1.5. Các phương pháp thu thập thông tin Chương 2: Hợp tác nghiên cứu trong cộng đồng khoa học 2.1. Khái quát về trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn 2.2. Những yếu tố thúc đẩy quá trình hợp tác 2.3. Một số hình thức của hợp tác nghiên cứu 2.4. Các mô hình giao tiếp trong hoạt động hợp tác nghiên cứu 8 2.5. Lợi ích và chi phí của hoạt động hợp tác nghiên cứu Phần kết luận và đề xuất giải pháp 1. Kết luận 2. Đề xuất giải pháp Tài liệu tham khảo và Phần phụ lục 9 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. Lƣợc sử vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Điểm luận những hướng nghiên cứu cơ bản trong lịch sử xã hội học khoa học: Nguồn gốc chính của xã hội học khoa học được các nhà khoa học xã hội tạo dựng từ những năm 1850 đến 1920. K.Marx được xem như là một trong những thuyết gia đầu tiên đưa ra thuật ngữ khoa học là một sự kiện xã hội. Hoạt động khoa học này vẫn được xem là một hành động xã hội ngay khi được một cá nhân đơn lẻ thực hiện, bởi lẽ hành động đó là vì con người. Vào thời kỳ đó, E. Durkheim cũng đưa ra những quan niệm mang tính lô gíc của hoạt động khoa học, đó là việc có sự hiện diện và sáng tạo của tập thể. M.Weber cũng tập trung đến mối quan hệ giữa chủ nghĩa tư bản, đạo tin lành và khoa học hiện đại. Trong bài viết của mình với tiêu đề “khoa học với tư cách nghề nghiệp” (science as vocation), Weber cũng đánh giá những biến đổi mạnh trong đời sống học thuật ở Đức đầu thế kỷ 20. Những hình thức nghiên cứu khác của Fredrich Nietzsche, Peter Kropotkin, Michael Bakunin, Oswald Spengler vào những năm 1920 cũng giúp chúng ta nhận thức thêm về bản chất xã hội của khoa học [K.Marx, 1844; 104]. Lịch sử xã hội học đôi khi được nhìn nhận như là có sự tranh luận mạnh mẽ giữa Marx và Weber. Cuộc tranh luận này cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển xã hội học khoa học. Nhưng những quan điểm của Weber có nhiều ảnh hưởng hơn đối với sự phát triển ban đầu của xã hội học khoa học, một chuyên ngành nghiên cứu mới của xã hội học. R.Merton, được xem như là cha đẻ của xã hội học khoa học, ông bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu vào những năm 1930, qua việc tập trung nhiều đến mối quan hệ giữa khoa học và những hoạt động xã hội khác, cũng như về các thiết chế xã hội. Vào những năm 1930, xã hội học tri thức cũng có nhiều bước phát 10 triển, với những đóng góp quan trọng của các học giả Mác xít khi nghiên cứu về khoa học và xã hội, đó là Boris Hessen và E.Colman. Các nhà khoa học cấp tiến như J.D.Bernal cũng đi vào phê phán những bất bình đẳng xã hội về khoa học và xã hội và đưa ra các chương trình hành động nhằm xã hội hoá hoạt động khoa học. Giữa những năm 1940-1970, với những nghiên cứu của R.Merton và đồng nghiệp đã trở thành trào lưu chính trong xã hội học khoa học. Quan điểm xã hội học khoa học của R.Merton xuất hiện khi có những hình thức khủng hoảng trong nhận thức chính trị và xã hội trong thời gian đó. Xã hội học khoa học của ông nhanh chóng trở thành bộ công cụ hữu ích và hướng đến bảo vệ, thúc đẩy khoa học và nền văn hoá phương Tây. Xã hội học khoa học chức năng được hình thành qua việc phục hồi lại những nghiên cứu của E.Durkheim về sự phân loại và cấu trúc xã hội, đó là những nghiên cứu của Spengler về các con số và nền văn hoá, đánh giá của Ludwig Wittgenstein về nhân học triết học, về khoa học và toán học; các nhà xã hội học khoa học mới cũng bạo dạn khám phá những khía cạnh xã hội, văn hóa và lịch sử về tri thức khoa học. Rõ ràng là vào những năm 1970, đã có những xu hướng phát triển mạnh làm tách biệt mô hình xã hội học khoa học mới và cũ. Nhưng nhìn chung, cho dù các nhà xã hội học khoa học mới hay cũ đều vẫn bao hàm trong nó những quan điểm về giai cấp, quyền lực, hệ tư tưởng và sự hợp tác, liên kết. 1.1.2. Điểm luận những nghiên cứu về hợp tác nghiên cứu: Nhiều tác giả và hợp tác: Trong nhiều thập kỷ qua, những ấn phẩm có nhiều tác giả thường đề cập đến những ấn phẩm đồng tác giả, dấu hiệu này được xem là đơn vị đánh giá cơ bản nhằm đo các hoạt động hợp tác trong hoạt động khoa học. Smith là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên xem xét sự gia tăng về tỷ lệ các bài viết có nhiều tác giả và cho rằng những bài viết đó được xem là phép đo tương đối về sự kết hợp giữa những nhóm các nhà nghiên cứu với nhau. Ông cho rằng có một số hình thức tổng lược về các loại 11 hình quan hệ và các hoạt động của cá nhân liên quan đến ấn phẩm đều có khả năng tạo nên những biến số biểu hiện về sự nỗ lực nhóm, cách làm việc theo nhóm, dự báo được sự phát triển về những kết quả nghiên cứu sau này. Subramanyan [Katz, 1997; 13] cũng đi vào nghiên cứu vấn đề tương tự như vậy. Theo ông, một nhà khoa học cần thừa nhận một luận điểm toàn diện khi đánh giá sự hợp tác theo những lý do sau: Bản chất và cường độ của sự hợp tác không thể dễ dàng xác định thông qua các phương pháp về quan sát, phỏng vấn hay theo bản an két bởi vì bản chất phức tạp của các tương tác xã hội có thể biểu hiện ở một số nội dung ngầm định, xác định được vị trí quan trọng giữa những người hợp tác trong một khoảng thời gian nhất định. Xét về bản chất và cường độ, sự đóng góp của từng cá nhân các nhà khoa học hợp tác với nhau đều hướng đến nhằm thay đổi quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu. Một số khía cạnh ổn định về hợp tác nghiên cứu cũng có thể được định lượng trong khi một số yếu tố khác thì lại không. Thậm chí những đánh giá định tính về sự phối hợp, hợp tác cũng rất khó bởi vì mối quan hệ không xác định giữa các hoạt động đó có thể định lượng, còn những đóng góp của quá trình hợp tác đó thì có lẽ không thể nhìn nhận được. Subramanyan cho rằng một đánh giá tốt được một nhà khoa học tạo ra trong quá trình tranh luận có thể có giá trị hơn trong việc hình thành những luận điểm khoa học hoặc là kết quả của một đề tài nghiên cứu hơn là việc các nhà khoa học hợp tác mất hàng tuần hoạt động trong phòng thí nghiệm, trên nghiên cứu thực địa. Mặc dù có những giới hạn trong việc đánh giá về đồng tác giả, nhưng đã có nhiều nghiên cứu áp dụng kỹ năng này để điều tra về sự phối hợp, hợp tác nghiên cứu, coi đó là hình thức, công cụ phù hợp của quá trình nghiên cứu. De Solla Price đã có nghiên cứu đến các bài viết đồng tác giả, coi hình thức đồng tác giả như là cách đo những thay đổi trong hợp tác. Ông có đưa ra những bằng chứng nhằm hỗ trợ thêm những quan sát của Smith, quyền tác giả đang ngày càng gia tăng, đó chính là xu hướng được nhiều cuộc điều tra 12 khẳng định. Mặc dù vậy, những nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng tỷ lệ gia tăng các bài viết nhiều tác giả rất đa dạng với các lĩnh vực. Trong một số lĩnh vực có sự gia tăng đáng kể, một số lĩnh vực khác lại chưa biểu hiện được sự gia tăng như vậy. W.Hagstrom cho thấy có những dấu hiệu mà một số ấn phẩm đã thực hiện liệt kê danh mục các tác giả. Gần đây, điều tra về một số ví dụ về hoạt động khoa học cũng thấy được các hoạt động mà các đồng nghiệp đại học cùng tạo ra dựa trên đồng tác giả cũng trở nên ngày càng phổ biến. Mặc dù đánh giá về sự hợp tác có sử dụng ý nghĩa đồng tác giả chưa thật sự hoàn hảo lắm nhưng nó cũng tạo nên được nhiều khía cạnh thuận lợi sau: Thứ nhất, nó không thay đổi nhiều về cách thức, phương pháp đo lường và có thể xác định được. Qua đó, những nhà nghiên cứu khác cũng có thể khai thác tái tạo lại những kết quả đó. Thứ hai, đó là một phương pháp không phải chi phí lớn lắm và là phương pháp thực tế để lượng giá được sự hợp tác. Cuối Thứ ba, có một số đánh giá cho rằng những nghiên cứu bằng phương pháp đo ấn phẩm lại không thực hiện được dễ dàng. Những kết quả có được từ điều tra số ấn phẩm có lẽ có ảnh hưởng đến các hoạt động hợp tác trong thời gian dài. 1.1.3. Những công trình nghiên cứu về khoa học và hợp tác nghiên cứu khoa học tại Việt Nam Trong thời gian qua, các hướng nghiên cứu về cộng đồng khoa họbaowr Việt Nam chưa được các nhà xã hội học và các nhà khoa học ở các lĩnh vực khác quan tâm nhiều. Theo những đánh giá ban đầu của nhiều nhà khoa học, vấn đề hợp tác-gắn kết trong hoạt động nghiên cứu được nhìn nhận theo một số hướng cụ thể sau: (a) Nghiên cứu về các nhà tri thức Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử (Phạm Tất Dong, Trí thức Việt Nam-thực tiễn và triển vọng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; TS Nguyễn Thanh Tuấn, Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998; …), (b) hướng nghiên cứu về việc tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học (Trần Chí Đức, Đề tài V03, Một số khía cạnh tâm lý học và xã hội học trong tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, Viện quản lý 13 khoa học, Hà Nội 5/1994; …); (c) vấn đề di động trong cộng đồng khoa học và nhân lực khoa học và công nghệ (Trần Xuân Định, Phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ, Hà Nội-1997; Trần Chí Đức, Nhân lực cho nghiên cứu và đào tạo sau đại học ở Việt Nam, Báo cáo Hội thảo khoa học Nghiên cứu và đào tạo sau đại học ở Việt Nam, Hà Nội, 28-29 tháng 4 năm 2000; Nguyễn Thị Anh Thu, Đổi mới chính sách sử dụng nhân lực khoa học và công nghệ trong cơ quan nghiên cứu và phát triển, NXB khoa học xã hội, 2000;…); (d) hướng nghiên cứu liên kết nghiên cứu đào tạo giữa các viện nghiên cứu; giữa trường đại học và các cơ sở sản xuất (Nguyễn Việt Hoà, Luận văn thạc sỹ Xã hội học: Liên kết cộng đồng khoa học dưới tác động của hệ thống đổi mới quốc gia đang chuyển đổi (qua nghiên cứu Viện Cơ học), Viện Xã hội học năm 2003…). Hướng nghiên cứu về hợp tác giữa các nhà khoa học trong hoạt động nghiên cứu (nhiệm vụ chủ đạo của các nhà khoa học) chưa được nhiều công trình nghiên cứu đặt thành chủ đề chính để nghiên cứu. Có một số nghiên cứu cũng đề cập nhưng chưa tìm được những vấn đề thực chất của quá trình hợp tác. Chúng tôi hy vọng, hướng nghiên cứu của luận văn sẽ phần nào gợi mở, định hướng thêm những cách tiếp cận mới trong nghiên cứu về quan hệ xã hội của một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù- hợp tác nghiên cứu giữa các nhà khoa học trong cộng đồng khoa học. 1.2. Những luận điểm lý thuyết 1.2.1. Chủ nghĩa Mác Lênin: Cơ sở phương pháp luận của vấn đề nghiên cứu về hợp tác nghiên cứu giữa các nhà khoa học Chủ nghĩa Mác Lê nin được xem là khoa học về những quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội; là thành tựu khoa học cao nhất của xã hội loài người. “Chủ nghĩa Mác Lênin đã vạch ra được các đặc điểm của quy luật xã hội, vạch ra phép biện chứng của tự do với tính cách là cái tất yếu được nhận thức, đã xác định đúng đắn vai trò của con người trong đời sống và phát triển của xã hội” [Maccô, 1978; 13]. Chủ nghĩa Mác Lênin có vai trò quan trọng về mặt 14 phương pháp luận đối với các ngành khoa học xã hội. Đối với ngành xã hội học khoa học, việc áp dụng những nguyên lý, quan điểm, phương pháp luận khác nhau của chủ nghĩa Mác Lênin là điều hiển nhiên, nhằm tiếp tục đi sâu vào các vấn đề của cộng đồng khoa học, sự biến đổi về cấu trúc-chức năng trong cộng đồng khoa học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở để giải quyết sâu sắc nhất về mặt lý luận, phương pháp luận, những vấn đề mấu chốt của cộng đồng khoa học, cụ thể là những mô hình hành vi-tương tác trong chính cộng đồng khoa học đó. Theo cách hiểu đó, lý luận chung về cộng đồng khoa học, như đã được đề cập cần được tiếp tục làm rõ thông qua quá trình vận hành của các bộ phận cấu thành cộng đồng khoa học đó, cũng như những quy luật-chức năng xã hội khác cần thiết để cộng đồng khoa học đó tồn tại và phát triển. Khoa học, theo chủ nghĩa Mác Lênin, được xem như là hoạt động xã hội, có mục đích tạo ra những tri thức mới về tự nhiên, xã hội và tư duy. Hoạt động khoa học, nghiên cứu khoa học được xem như là kết quả tất yếu của phân công lao động xã hội. Nó xuất hiện tiếp theo của quá trình tách lao động trí óc khỏi lao động chân tay; khoa học đã trở thành lực lượng chủ chốt của quá trình sản xuất vật chất. Ý nghĩa và vai trò của khoa học còn được thể hiện sức mạnh của nó nếu được thể hiện ra qua các mối quan hệ xã hội, qua các mô hình tương tác, đi vào giải quyết-cải tạo những vấn đề cơ bản của xã hội. Lý luận về cách mạng khoa học kỹ thuật cũng được nhiều nhà mác xít đề ra. Các quan điểm khác nhau đó đều nhìn nhận được các khía cạnh khác nhau về bản chất của cuộc cách mạng khoa học trong mối liên hệ và quan hệ với những hiện tượng xã hội khác. Một trong những lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác đó là nguyên lý tính hệ thống. Mặc dù cả Mác và Ăng ghel không để lại những công trình nghiên cứu riêng về hệ thống dưới dạng một phương pháp luận hoàn chỉnh, mà qua việc nghiên cứu xã hội là một chỉnh thể để nhìn nhận rõ sự phát triển xã hội, sự phát triển các mặt khác nhau của hệ thống xã hội đó. Mác cũng đã tiến hành nghiên cứu bản thân tính hệ thống trên một số khía cạnh. Đó là, ông coi xã 15 hội là một loại hệ thống hữu cơ xác định, nó phát triển theo những quy luật của một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Qua ý nghĩa này, hình thái kinh tế xã hội là một kiểu cơ chế xã hội có ý nghĩa lịch sử, còn các cơ chế xã hội khác của hoạt động và cải tạo các hình thái được coi như là việc phát hiện ra tính hệ thống. Đồng thời, Mác cũng xem xét “tính hệ thống thể hiện qua việc nghiên cứu các hiện tượng xã hội, thông qua việc các hiện tượng đó về cơ sở của một hệ thống nhất định và giải thích chúng trong khuôn khổ những quy luật của hệ thống đó, thông qua việc nghiên cứu chúng qua lăng kính cấu trúc chung của hình thái xã hội”[Cu dơ min, 1986; 23]. Qua một số khía cạnh cụ thể của Mác về lý luận hệ thống, cũng cho phép tác giả có cách nhìn toàn diện về cộng đồng khoa học. Chúng tôi xác định cộng đồng khoa học là một hệ thống cũng như là một tiểu hệ thống trong hệ thống rộng lớn hơn. Các quá trình xã hội trong hệ thống cộng đồng khoa học đó được vận hành nhằm duy trì và phát triển hệ thống đó. Sự vận hành đó không chỉ đảm bảo sự tồn tại-phát triển của các yếu tố cấu thành trong hệ thống đó mà còn góp phần tạo sự ổn định và phát triển của bộ phận hệ thống lớn hơn. 1.2.2. Quan điểm xã hội học khoa học của R.K.Merton: Chúng tôi có áp dụng quan điểm của R.K.Merton về các chuẩn mực trong hoạt động khoa học (gồm các chuẩn mực: Tính phổ biến, tính cộng đồng, tính không thiên vị, tính nghi ngờ có tổ chức và tính căn nguyên (bổ sung năm 1957) và khiêm tốn (bổ sung năm 1963). Việc đánh giá sự hợp tác nghiên cứu của các nhà khoa học theo các chuẩn mực của Merton nhằm đưa các hoạt động hợp tác nghiên cứu của các thành viên trong cộng đồng vào trong kiểm soát xã hội (kiểm soát bằng phần thưởng, kiểm soát bằng sự thừa nhận chuyên môn). Từ những năm 1930 đến những năm 1970, Merton được xem như là nhân vật quan trọng trong xã hội học khoa học. Nội dung chính trong dạng thức nghiên cứu của Merton theo cách nói của Norman Storer chính là có sự xác định mối quan hệ chặt chẽ giữa cấu trúc chuẩn mực về khoa học với 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan