Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát cách ngôn ngữ biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến trong tiếng hán h...

Tài liệu Khảo sát cách ngôn ngữ biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến trong tiếng hán hiện đại (liên hệ với tiếng việt)

.PDF
123
2156
126

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ VŨ LOAN KHẢO SÁT PHƯƠNG THỨC NGÔN NGỮ BIỂU HIỆN HÀNH VI TỪ CHỐI LỜI CẦU KHIẾN TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI (LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI – 2008 ĐẠI HỌC QUỐC GIA TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ VŨ LOAN KHẢO SÁT PHƯƠNG THỨC NGÔN NGỮ BIỂU HIỆN HÀNH VI TỪ CHỐI LỜI CẦU KHIẾN TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI (LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT) Chuyên ngành : Lí luận ngôn ngữ Mã số : 5 04 08 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học : GS.TS. NGUYỄN VĂN KHANG HÀ NỘI – 2008 MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................................4 0.1. Tính cấp thiết của đề tài...........................................................................4 0.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................5 0.3. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................5 0.4. Tư liệu nghiên cứu....................................................................................6 0.5. Bố cục luận văn........................................................................................6 CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT.......................................................................................8 1.1.Đặt vấn đề.................................................................................................8 1.2. Hội thoại và các khái niệm liên quan.......................................................8 1.2.1. Khái niệm hội thoại...............................................................................8 1.2.2. Các nguyên tắc hội thoại.......................................................................9 1.2.3. Các quy tắc hội thoại..........................................................................13 1.2.4. Cấu trúc hội thoại...............................................................................15 1.3. Hành vi ngôn ngữ và các khái niệm liên quan.......................................16 1.3.1. Lý thuyết về hành vi ngôn ngữ.............................................................16 1.3.2. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi ngôn ngữ gián tiếp................18 1.3.3. Các loại hành vi ngôn ngữ..................................................................18 1.4. Hành vi cầu khiến và các khái niệm liên quan.......................................19 1.4.1. Khái niệm hành vi cầu khiến...............................................................19 1.4.2. Phân loại hành vi cầu khiến................................................................19 1.5. Hành vi từ chối lời cầu khiến.................................................................21 1.5.1. Khái niệm từ chối và hành vi từ chối lời cầu khiến.............................21 1.5.2. Hoạt động thương lượng trong hành vi từ chối..................................24 1.5.3. Phân biệt hành vi từ chối với các hành vi khác..................................28 1.5.4. Phân loại hànhvi từ chối.....................................................................32 1.6. Các nhân tố tác động đến hành vi từ chối..............................................37 1.6.1. Vấn đề lịch sự......................................................................................37 1.6.2. Vấn đề văn hóa....................................................................................37 1.7. Tiểu kết...................................................................................................39 CHƯƠNG II. PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN HÀNH VI TỪ CHỐI TRỰC TIẾP TRONG TIẾNG HÁN (CÓ LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT)...............................................................40 2.1.Đặc điểm chung của hành vi TCTT.........................................................40 2.1.1. Khái niệm từ chối trực tiếp..................................................................40 2.1.2. Đặc điểm về phương thức thể hiện......................................................40 2.2. Các kiểu loại hành vi từ chối trực tiếp..................................................44 2.3. Các phương tiện biểu hiện HVTCTT chứa thành phần cốt lõi trung tâm.......45 2.3.1. Thành phần trung tâm chứa động từ ngôn hành.................................45 2.3.2. Thành phần trung tâm chứa từ phủ định............................................46 2.3.3. HVTCTT chứa thành phần trung tâm và thành phần mở rộng...........57 2.4. Tiểu kết......................................................................................................................66 CHƯƠNG III. PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN HÀNH VI TỪ CHỐI GIÁN TIẾP TRONG TIẾNG HÁN (CÓ LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT)...............................................................68 1 3.1. Đặc điểm chung của hành vi từ chối gián tiếp.......................................68 3.1.1. Khái niệm............................................................................................68 3.1.2. Đặc điểm về phương thức thể hiện......................................................69 3.1.3. Phân loại hành vi từ chối gián tiếp.....................................................69 3.2. Các phương tiện biểu hiện hành vi từ chối gián tiếp.............................73 3.2.1. Hành vi từ chối biểu hiện bằng lợi dụng từ vựng...............................73 3.3. Hành vi từ chối gián tiếp biểu hiện bằng thủ pháp cú pháp..................79 3.3.1. Hành vi từ chối biểu hiện bằng cấu trúc nghi vấn..............................79 3.3.2. Hành vi từ chối biểu hiện bằng cấu trúc trần thuật............................81 3.2.3. Hành vi từ chối biểu hiện bằng cấu trúc cầu khiến.............................91 3.4.. Tiểu kết CHƯƠNG IV. KHẢO SÁT CÁCH LỰA CHỌN HÌNH THỨC BIỂU HIỆN HÀNH VI TỪ CHỐI CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC VÀ NGƯỜI VIỆT NÓI TIẾNG HÁN (TRÊN CỨ LIỆU TRẮC NGHIỆM).....................................................................................................99 4.1 Đặt vấn đề...............................................................................................99 4.2 Khảo nghiệm cách lựa chọn hình thức biểu hiện hành vi từ chối trên cứ liệu phiếu điều tra.........................................................................................99 4.3. Phân tích tỉ lệ sử dụng các phương thức biểu hiện hành vi từ chối.....102 4.3.1 Về nhóm từ vựng.................................................................................102 4.3.2 Phân tích tỉ lệ sử dụng hình thức từ chối trực tiếp và gián tiếp.........103 4.4 Nhận xét.................................................................................................108 KẾT LUẬN......................................................................................................................110 TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................114 2 NHỮNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT CỦA LUẬN VĂN HVCK Hành vi cầu khiến HVNN Hành vi ngôn ngữ HVTC Hành vi từ chối TCTT Từ chối trực tiếp TCGT Từ chối gián tiếp MỞ ĐẦU 0.1. Tính cấp thiết của đề tài. Cùng với sự phát triển và hội nhập toàn cầu nhu cầu giao tiếp giữa các cộng đồng về ngôn ngữ - văn hóa càng được chú trọng và phát triển. Chính sách của Nhà nước Việt Nam là “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”, muốn làm bạn thì trước hết phải hiểu được ngôn ngữ của bạn và sau đó là văn hóa của bạn. Chính vì vậy việc phát triển và giảng dạy ngoại ngữ được nhà nước ta đặc biệt ưu tiên và phát triển. Bên cạnh tiếng Anh là ngôn ngữ chính còn có các ngôn ngữ khác, trong đó có tiếng Hán được tham gia giảng dạy tại các trường học. Trung Quốc là một quốc gia lớn nằm tiếp giáp với phía bắc Việt Nam. Nhu cầu thông thương và hội nhập giữa hai quốc gia là rất lớn. Chính vì vậy việc học tiếng Hán hiện nay đang là nhu cầu lớn ở các thành phố chứ không chỉ ở các tỉnh biên giới tiếp giáp với Trung Quốc. Tiếng Hán là kết tinh của tư duy trí tuệ của dân tộc Hán – một dân tộc có hơn 5000 năm phát triển và xây dựng qua từng thời kì. Tiếng Hán còn là sự kết tinh của một trong ba nền văn minh lớn nhất thế giới. Tiếng Hán là ngôn ngữ của dân tộc Hán thuộc hệ ngôn ngữ Hán Tạng, nó hình thành và phát triển cùng với nền văn hóa Trung Hoa trải qua các thời kì cổ đại đến cận đại và ngày nay nó trở thành tiếng Hán hiện đại. Nhu cầu học và giao tiếp bằng tiếng Hán phát triển nhanh trong những năm gần đây đã thúc đẩy quá trình nghiên cứu các hoạt động giao tiếp liên văn hóa. Đồng thời nó cũng hướng các nhà nghiên cứu đi vào tìm hiểu việc sử dụng ngôn ngữ theo hướng giao tiếp liên ngôn ngữ - văn hóa. Vì vậy, việc nghiên cứu và tìm hiểu mối quan hệ cũng như sự tương ứng hay không tương ứng ở phương thức biểu hiện hành vi ngôn ngữ trong giao tiếp liên ngữ nói chung và trong giao tiếp Hán – Việt nói riêng là hết sức cần thiết. Trong giao tiếp liên ngữ, để đạt được mục đích giao tiếp cũng như để tránh xảy ra những sai lầm đáng tiếc người tham gia giao tiếp cần phải có 3 những hiểu biết cả về chiều sâu lẫn chiều rộng về ngôn ngữ và văn hóa. Tại Trung Quốc giới Hán ngữ học cũng đã tiến hành nghiên cứu về HVNN. Các công trình nghiên cứu cũng chú ý tới đối chiếu các HVNN trong tiếng Hán với tiếng Anh, tiếng Hán với tiếng Nhật…ở những phương diện khác nhau như những khác biệt giao tiếp qua cách thức khen, chê, khác biệt về văn hóa ứng xử trong hành vi thỉnh cầu hoặc từ chối… Với mong muốn góp một phần vào việc nghiên cứu những biểu hiện khác biệt trong hoạt động giao tiếp ngôn ngữ giữa hai nền ngôn ngữ - văn hóa Trung – Việt, đồng thời đóng góp phần nào đó vào việc giảng dạy tiếng Hán cho người Việt và dạy tiếng Việt cho người Trung Quốc theo hướng giao tiếp liên văn hóa chúng tôi lựa chọn đề tài: “Khảo sát phương thức ngôn ngữ biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến trong tiếng Hán hiện đại”. Chúng tôi luôn mong muốn việc nghiên cứu này sẽ giúp người học và giảng dạy tiếng Hán cũng như người học và dạy tiếng Việt cho người Trung Quốc có được cái nhìn sâu sắc hơn về hoạt động giao tiếp ngôn ngữ - văn hóa của hai nước. 0.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong luận văn này chúng tôi tập trung khảo sát các phát ngôn từ chối trong hội thoại cầu khiến trong tiếng Hán, gồm : - Chỉ ra các đặc điểm của các phát ngôn từ chối trong tiếng Hán hiện đại. - Các phương thức biểu hiện hành vi từ chối trong tiếng Hán hiện đại. - Những đặc điểm văn hóa xã hội tác động đến phương thức biểu hiện hành vi từ chối trong tiếng Hán hiện đại. - Đối chiếu với tiếng Việt tương đương nhằm chỉ ra những đặc điểm giống và khác nhau giữa chúng. 0.3. Phương pháp nghiên cứu Nhằm làm sáng tỏ các phương thức biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến trong tiếng Hán và chỉ ra nét tương đồng và sự khác biệt giữa hành vi 4 từ chối lời cầu khiến trong tiếng Hán và tiếng Việt, trong đó lấy tiếng Hán làm ngôn ngữ gốc, tiếng Việt làm ngôn ngữ đích. Chúng tôi sử dụng phương pháp miêu tả định tính, phương pháp quy nạp và phương pháp thống kê. Qua đó dựa vào kết quả đã phân tích, sử dụng phương pháp của ngôn ngữ học đối chiếu để tiến hành đối chiếu, so sánh nhằm tìm ra những tương đồng và khác biệt, tương ứng và phi tương ứng của hành vi từ chối lời cầu khiến giữa hai ngôn ngữ Việt – Hán trên bình diện cấu trúc ngữ nghĩa và các nghĩa chuyển dịch. 0.4. Tư liệu nghiên cứu Tư liệu nghiên cứu được chúng tôi khai thác từ các nguồn: - Các tác phẩm văn học có chứa các đoạn thoại cầu khiến. - Các tác phẩm song ngữ là các giáo trình dạy tiếng Hán cho người nước ngoài. - Các đoạn thoại tự nhiên trong giao tiếp hàng ngày chứa các phát ngôn cầu khiến và từ chối theo quan sát cá nhân. Ngoài ra, để có những ví dụ và số liệu cho việc nghiên cứu, chúng tôi tiến hành làm phiếu điều tra về : “Phương tiện biểu hiện hành vi từ chối” đối với 50 sinh viên Trung Quốc hiện đang theo học tiếng Việt tại khoa Ngôn ngữ Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia và 50 phiếu đối với sinh viên Việt Nam học tiếng Hán hiện đại tại Học viện Khoa học quân sự và trường Đại học Hà Nội. Chúng tôi đưa ra 10 câu cầu khiến theo 10 tình huống cố định, sau đó cho các sinh viên trả lời một cách tự nhiên nhất. Các ví dụ được trích trong luận văn sẽ kí hiệu theo mẫu sau: Nếu là tình huống của sinh viên người Trung Quốc chúng tôi kí hiệu là C (Chinese), là của sinh viên Việt Nam chúng tôi kí hiệu là V (Vietnammese). Ví dụ nếu là tình huống thứ nhất của sinh viên Trung Quốc thì kí hiệu là [S1-C]. 5 0.5. Bố cục luận văn Ngoài các phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo luận văn gồm ba chương : Chương I : Cơ sở lí thuyết. Chương II : Phương thức biểu hiện hành vi từ chối trực tiếp trong tiếng Hán (Liên hệ với tiếng Việt). Chương III : Phương thức biểu hiện hành vi từ chối gián tiếp trong tiếng Hán (Liên hệ với tiếng Việt). Chương IV : Khảo sát cách lựa chọn hình thức biểu hiện hành vi từ chối của người Trung Quốc và người Việt nói tiếng Hán (Trên cứ liệu trắc nghiệm). 6 CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. Đặt vấn đề Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người. Nằm trong hoạt động giao tiếp của loài người, HVNN là một vấn đề được khá nhiều các nhà nghiên cứu ngôn ngữ quan tâm. Việc nghiên cứu HVNN không chỉ giới hạn trong phạm vi một ngôn ngữ mà việc nghiên cứu đối chiếu HVNN ở hai hoặc hơn hai ngôn ngữ khác nhau, giữa các nền văn hoá, giữa các cộng đồng người khác nhau ngày càng được mở rộng và quan tâm hơn nữa. Nghiên cứu khoa học về HVNN ngày càng được nhằm giải quyết những vấn đề sau: - Nghiên cứu làm sáng tỏ ngay trong một ngôn ngữ cũng có các phương thức biểu hiện HVNN khác nhau được con người vận dụng. Đặc điểm giao tiếp ngôn từ khác nhau từ những phạm trù khác nhau như: lịch sự, giới tính, quyền lực, các quan hệ xã hội cũng như mối quan hệ giữa các tầng nghĩa của cấu trúc để từ đó có những mẫu phân tích giao tiếp hội thoại cho ngôn ngữ giao tiếp nói chung. - Nghiên cứu nhằm tìm ra dưới sự tác động của các yếu tố dân tộc, văn hoá thì các ngôn ngữ có sự thể hiện khác nhau như thế nào. - Nghiên cứu nhằm tìm ra các cách diễn đạt khác nhau về hình thức được bộc lộ qua phân tích hàm ý ngôn từ. - Việc nghiên cứu HVNN là nghiên cứ vấn đề các hoạt động ngôn ngữ được sử dụng theo mục đích và phong cách sử dụng. 1.2. Hội thoại và các khái niệm liên quan 1.2.1. Khái niệm hội thoại Hội thoại là một hoạt động giao tiếp hai chiều gồm một người nói và một người nghe và phản hồi trở lại. Hội thoại không phải là hoạt động dành 7 cho một phía tức là một người nói với chính bản thân mình. Hội thoại cũng có thể là từ ba bên hoặc nhiều hơn nhưng hội thoại hai bên là quan trọng nhất. Trong hội thoại, bên nói và bên nghe có những phản hồi nhất định với nhau thì vai trò của bên nói và bên nghe sẽ có những thay đổi nhất định với nhau. Trong quá trình tham gia hội thoại thì hai bên sẽ chịu những tác động từ bối cảnh giao tiếp, bối cảnh xã hội và kiểu tiếp xúc giữa hai bên. Song nền tảng cơ bản của hội thoại vẫn là cấu trúc bên nói – bên nghe và ngược lại. Theo Đỗ Hữu Châu (2001)[6] có nhiều yếu tố liên quan đến hội thoại như : thời gian, không gian, nơi chốn, lượng người tham gia cuộc hội thoại, tư cách cương vị của người tham gia cuộc hội thoại, tính chất cuộc thoại, về tính có đích hay không có đích, về tính hình thức hay không hình thức, về vị thế giao tiếp, về ngữ điệu hay các động tác kèm lời v.v... Tất cả những yếu tố trên đây không tách rời nhau mà liên kết lại tạo thành khối thống nhất điều hoà chi phối hội thoại. Như vậy, hội thoại là một hoạt động xã hội quan trọng và trong nó chứa nhiều yếu tố và các yếu tố ấy cũng chi phối và kéo hội thoại vào trong một hoạt động theo những yêu cầu riêng biệt. Người tham gia hội thoại cũng sẽ phải tuân theo những hoạt động ấy, những yếu tố ấy. Nếu người tham thoại mà không cung cấp lời đáp hay phản hồi thông tin trở lại thì cuộc thoại sẽ trở lên căng thẳng và có thể dẫn đến nguy cơ phá vỡ cuộc thoại. Để cuộc thoại có được kết quả thì ngoài các yếu tố chi phối cuộc thoại ra hai bên phải cùng có biểu lộ “nhiệt tình” với đối tác của mình tức là phải chuẩn bị “tích cực ” thông tin từ phía mình để mong muốn đổi lại những điều mà mình muốn nhận được. 1.2.2. Các nguyên tắc hội thoại 1.2.2.1. Nguyên tắc cộng tác Theo G.Price (1975), nguyên tắc cộng tác trong hội thoại là: hãy làm cho phần đóng góp của bạn đúng như nó được đòi hỏi, đúng vào các giai đoạn mà nó xuất hiện bởi các mục đích hoặc các phương hướng đã được chấp nhận của lần trao đổi bằng lời mà bạn được tham dự. 8 Như vậy, khi tham gia hội thoại người tham thoại phải có thái độ tích cực trong quan sát và thực hiện nguyên tắc cộng tác theo những phương châm nhất định. Cũng theo P.Grice, hai bên tham gia hội thoại phải cùng cố gắng để đối tác của mình hưởng ứng và phát triển cuộc hội thoại. Nguyên tắc cộng tác có vai trò trung tâm trong lí thuyết hội thoại. Nguyên tác này gồm 4 phương châm: Lượng: 1. Hãy làm cho phần đóng góp của bạn có chứa tin như nó được đòi hỏi (đối với những mục đích hiện hữu của lần trao đổi đó). 2. Không làm cho phần đóng góp của bạn chứa nhiều tin hơn đang được đòi hỏi. Chất: 1. Không nói điều mà bạn tin là không chân thực. 2. Không nói điều mà bạn không chứng minh được thoả đáng. Quan hệ: Phải thích dụng . Cách thức: Phải rõ ràng. 1. Tránh diễn đạt tối nghĩa. 2. Tránh mơ hồ. 3. Phải ngắn gọn (tránh dài dòng không cần thiết). 4. Phải có thứ tự. (dẫn theo George Yule - Dụng học - Một số dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ). Tuy nhiên thực tế giao tiếp các phương châm trên đây đã nảy sinh ra những tình huống vi phạm nguyên tắc cộng tác hội thoại do nhiều nguyên nhân. Có thể thấy có những nguyên nhân chủ quan và khách quan mà đôi khi người tham thoại vô tình vi phạm. Ví dụ do sự khác biệt về tôn giáo, 9 văn hoá, kinh nghiệm cuộc sống. Đôi khi cuộc hội thoại đổ vỡ rồi người tham gia mới biết được nguyên nhân do sự khác biệt giữa các nền văn hoá, sự khác biệt về quy ước giao tiếp văn hoá của từng cộng đồng người. Như vậy, để giao tiếp thành công cần phải có những chuẩn bị cần thiết cho một cuộc hội thoại, Chẳng hạn, những hiểu biết về đối tượng giao tiếp sẽ giúp tránh được những hiểu lầm không đáng có. Và khi ta bắt đầu tham thoại thì người tham gia đều hiểu rằng họ đang đảm nhận nhiệm vụ duy trì cuộc thoại. Khi muốn kết thúc cuộc thoại thì cách thức thực hiện cũng là một vấn đề nhạy cảm. Đối tác có thể thấy rằng cuộc thoại không phải bị tuỳ tiện cắt đứt mà phải có sự thương lượng để đối tác hiểu được ý định của mình và cảm thấy hài lòng với sự kết thúc đó. Sự thương lượng này có nhiều hình thức khác nhau có thể là một dáng vẻ, một cử chỉ thái độ hoặc ít nhất là một lời xin lỗi. Thái độ trong giao tiếp hội thoại chỉ ra người tham gia hội thoại có tinh thần hợp tác hay không, một người khi tham gia hội thoại không chỉ độc thoại, giữ cuộc thoại và lái cuộc thoại cho riêng mình mà phải để đối tác của mình có những hưởng ứng tích cực, tạo cơ hội cho đối tác của mình cùng tham gia. Việc ngắt lời hoặc ngăn không cho người cùng đối thoại đưa ra ý kiến là một cách phủ quyết quyền được nói của đối tác. Một cuộc hội thoại rơi vào tình trạng có nguy cơ bị phá vỡ do các nguyên nhân như cách biểu đạt không đầy đủ, sự hồi đáp thông tin thiếu hụt, sự thiếu thiện cảm.... Song, có một thực tế là trong cuộc hội thoại người tham gia luôn mong muốn đạt được mục đích giao tiếp, tránh gây sự thiếu hài lòng về nhau. Chính vì vậy cần có cách biểu đạt tế nhị, nhẹ nhàng khôn khéo để đạt được mục đích trong hội thoại. Hội thoại là một hoạt động giao tiếp xã hội và nó luôn được điều chỉnh trong quá trình thực hiện. Sự mong muốn hội thoại thành công không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được dù người tham thoại có mong muốn nó thành công và hoàn hảo. 10 1.2.2.2. Nguyên tắc lịch sự a. Quan điểm của George Yule: “Có thể xem lịch sự như là một khái niệm cố định như trong khái niệm hành vi xã hội lịch sự hay nghi thức xã giao, bên trong một nền văn hoá” [37.tr118]. Trong mỗi một nền văn hóa khác nhau sẽ có những nguyên tắc chung khác nhau cho lịch sự trong tương tác hội thoại. Tác giả đưa ra khái niệm “thể diện” (face) chỉ “hình ảnh của ta trước công chúng”. Lịch sự trong một cuộc giao tiếp hội thoại có thể được hiểu là phương tiện để chứng tỏ việc nhận thức được thể diện của người khác. Sự nhận ra thể diện của người khác được tác giả đưa ra như là mô tả sự kính trọng hay tôn trọng của người cộng tác hội thoại hay khoảng cách xã hội của người tham thoại. Ví dụ, khoảng cách xã hội gần thường được mô tả là quan hệ anh và em, tình hữu nghị, tình bằng hữu, khoảng cách xã hội xa như quan hệ lãnh đạo và cấp dưới, quan hệ đối tác làm ăn v.v.... Như vậy người tham gia cộng tác sẽ phải nắm được nhu cầu thể diện của họ để đưa ra quyết định khoảng cách xã hội tương đối cho cuộc hội thoại. b. Quan điểm của R. Lakoff: Tác giả đã đưa ra quy tắc: Quy tắc 1: Không áp đặt. Là quy tắc mà người nói không đưa ra những quy định cá nhân, tránh động chạm đến cá nhân khác ở nhiều phương diện. Nói cách khác, người tham thoại sẽ tránh hoặc tìm cách giảm nhẹ tính áp đặt trong phát ngôn của mình khi mong muốn từ chối thực hiện một nhiệm vụ gì đó. Quy tắc 2: Để ngỏ sự lựa chọn. Là quy tắc mà người nói để dành cho người nghe sự lựa chọn sao cho lời từ chối của mình được chấp nhận mà không gây khó chịu, ảnh hưởng đến quan hệ với người nghe. Quy tắc này cũng sẽ giúp cho người nghe cảm thấy nhẹ nhàng hơn trong hành vi từ chối của người nói. Quy tắc 3: Tăng cường tình cảm bằng hữu. 11 Là quy tắc cho phép người tham thoại có thể đưa ra mọi đề tài kể cả các vấn đề cấm kị lẫn riêng tư nhằm bày tỏ sự quan tâm, tin tưởng lẫn nhau giữa người tham gia hội thoại. Quy tắc này có thể được xem xét và nhìn nhận lịch sự ở góc độ xã hội học. Lịch sự vốn được quan niệm thuộc phạm trù đạo đức và có chuẩn mực nhất định. Song, trong thực tế các quan hệ xã hội vô cùng phong phú. Người nói ở mỗi vị trí xã hội, ở mỗi đối tác giao tiếp đều phải có những ứng xử giao tiếp sao cho phù hợp và đạt được mục đích giao tiếp của mình. Người nói ở đây dù ở vai nào (thấp hơn hay cao hơn đối tượng giao tiếp) đều phải có những thái độ đúng mực và cư xử sao cho phải phép đúng chuẩn mực xã hội. c. Quan điểm lịch sự của Brown và Levinson: Lịch sự và thể diện có mối liên hệ với nhau, Brown và Levinson đã cùng nhau tiến thêm một bước khi đưa ra sự phân loại của thể diện thành hai phương diện, đó là thể diện tích cực (positive face) và thể diện tiêu cực (negative face). Thể diện tích cực chỉ sự hi vọng đạt được sự khẳng định, yêu thích hoặc khen ngợi, trọng thị của người nói với người cùng tham gia hội thoại. Nếu những yêu cầu trên đạt được thì thể diện tích cực mới tiếp tục được duy trì và bảo lưu. Thể diện tiêu cực chỉ việc có quyền tự chủ có tự do trong hành động, hành vi không chịu sự can dự hoặc cưỡng chế của người khác. Trong giao tiếp ngôn ngữ bình thường người nói luôn tìm cách bảo vệ thể diện cho người nghe hoặc cho người thứ ba. Nếu một người trong tình huống do bị ép thay đổi quan điểm của mình hoặc bị ép làm việc gì đó thì anh ta sẽ bị mất thể diện (losing face). Vì vậy, trong giao tiếp nói chung, người nói bắt buộc phải nghĩ tới mức độ quan hệ thân thiết giữa hai bên hoặc quan hệ về quyền lực giữa hai bên mà đưa ra những yêu cầu đối với đối phương. 12 1.2.3. Các qui tắc hội thoại Hội thoại diễn ra và bị chi phối theo những qui tắc nhất định. Theo Crechioni qui tắc hội thoại chia thành 3 nhánh như sau: - Các quy tắc về điều hành sự luân phiên lượt lời. - Những quy tắc chi phối cấu trúc của hội thoại. - Những quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân trong hội thoại. [Dẫn theo Đỗ Hữu Châu 6-tr225] a. Quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời tức là trong cuộc hội thoại người nói theo trật tự lần lượt mà diễn ra đồng thời. Theo George Yule, cấu trúc hội thoại được ví như “các hoạt động của một nền kinh tế thị trường”. Trong đó thứ hàng hóa quý hiếm được gọi là “quyền được nói” (floor turn). Tác giả cho rằng, hội thoại là một hình thức hoạt động xã hội, các lượt lời hoạt động theo một “hệ thống điều hành cục bộ” (local management system) được hiểu theo lối quy ước giữa các thành viên trong một nhóm xã hội. Các quy ước này điều chỉnh sao cho việc nắm lấy lượt lời, giữ hoặc trao lượt lời cho người đối thoại một cách uyển chuyển. b. Quy tắc chi phối cấu trúc hội thoại. Theo Nguyễn Đức Dân [16] thì những phát ngôn trong một lượt lời là những hành vi hội thoại. Chính hành vi hội thoại này gây ra những dạng hành vi ngôn ngữ nhất định. Ví dụ như một HVNN chào hỏi, yêu cầu có trả lời, đề nghị phản hồi chấp nhận hay từ chối, hành vi cám ơn yêu cầu một sự đáp lời. Như vậy người tham thoại phải có phương tiện biểu đạt trong hành vi hồi đáp của mình. Trong giao tiếp thực tế có những khuôn mẫu về hình thức biểu hiện hành vi này. Song, việc lựa chọn hình thức nào để biểu hiện một HVNN để có được hiệu lực tại lời nói là rất quan trọng. Điều này quyết định hiệu quả trong giao tiếp. c. Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân trong hội thoại. Theo tác giả Nguyễn Đức Dân, quan hệ cá nhân được xem xét dưới góc độ sau: - Quan hệ ngang (hay còn gọi là quan hệ thân sơ). 13 - Quan hệ dọc (hay còn gọi là quan hệ vị thế). Quan hệ ngang là mối quan hệ chỉ rõ sự mức độ gần gũi hay xa cách giữa người tham gia hội thoại. Dựa vào mối quan hệ này mà người nói phải sử dụng ngôn ngữ sao cho phù hợp với mối quan hệ của mình. Trong những dấu hiệu bằng lời có thể thấy hệ thống đại từ xưng hô của Tiếng Việt phong phú nhiều sắc thái. Ví dụ: từ tự xưng: tôi - tớ - tao – mìnhđằng này – ông... hay gọi người đối thoại trực tiếp bằng ông - bà - anh chị - ngài - mày - cậu - ấy... Trong tiếng Hán các ngôi xưng hô đơn giản hơn trong tiếng Việt, có thể chỉ là cặp từ phản ánh quan hệ 我你 (anh/tôi) giữa hai người tham thoại. Sử dụng đúng từ xưng hô là thể hiện vốn văn hoá, sự lịch thiệp, mức độ tôn trọng đối với người mình cùng tham thoại. Sự khác biệt về hệ thống đại từ nhân xưng trong tiếng Hán và tiếng Việt sẽ khiến cho quá trình chuyển dịch ngôn ngữ gặp phải không ít khó khăn nhưng cũng đem lại không ít lí thú. Trong cuộc thoại nếu thay đổi xưng hô sẽ có thể làm ảnh hưởng đến nguyên tắc lịch sự trong giao tiếp, và có tính đe dọa đến cuộc thoại. Quan hệ dọc là mối quan hệ tôn ti trật tự trong xã hội, tạo thành các vị thế trên dưới trong giao tiếp. Quan hệ này được đặc trưng bằng yếu tố quyền lực. Quan hệ vị thế phụ thuộc vào các yếu tố khách quan như cương vị xã hội, giới tính, tuổi tác. Những yếu tố khách quan này lại tuỳ thuộc vào quan niệm văn hoá truyền thống của từng cộng đồng người, từng ngôn ngữ. Trong quá trình tham gia hội thoại người tham thoại phải có những nắm bắt về quan niệm vị thế giữa các dân tộc, các nền văn hoá để tránh những hành vi ứng xử không đáng có. Mỗi bên khi tham gia giao tiếp cũng phải chú ý đến dấu hiệu kèm lời, âm lượng , không gian giao tiếp hình thức trang phục... để nắm bắt quan hệ vị thế và có những điều chỉnh kịp thời phù hợp với mục đích cuộc thoại và mang lại hiệu quả cho cuộc thoại. 14 1.2.4. Cấu trúc hội thoại Cấu trúc hội thoại bao gồm một số thành tố và dưới những cách nhìn khác nhau thì các thành tố tạo nên cấu trúc hội thoại có phần khác nhau. Theo tác giả Diệp Quang Ban, cấu trúc hội thoại nhìn trong “phân tích hội thoại” là “cấu trúc của ngữ cảnh chuỗi” hay là tổ chức chuỗi, tức là trong quan hệ của một lượt lời nói với các lượt lời là ngữ cảnh của nó (một lượt lời nằm trong một chuỗi nối tiếp của các lượt lời), và cấu trúc của các cặp kế cận với phần thứ hai được ưa chuộng/ không được ưa chuộng, tức là tổ chức ưa chuộng của cặp kế cận Nhìn trong phân tích diễn ngôn thì cấu trúc của hội thoại được xem xét như một chỉnh thể của nó. “Một cuộc thoại được coi như một diễn ngôn tổng thể. Trên điểm nhìn đó, cấu trúc hội thoại là cấu trúc của một cuộc thoại tổng thể bao gồm các bộ phận bên trong nó” [Dẫn theo Diệp Quang Ban - Tài liệu chuyên đề Cao Học- Phân tích diễn ngôn – trang 11] Một số tác giả Pháp, Thụy Sỹ đã đưa ra các đơn vị của cấu trúc hội thoại gần: - Cuộc thoại (cuộc tương tác :/ conversation). - Chùm lời thoại (sequence). - Loạt trao đáp (exchange). - Tham thoại (intervention). - Hành động nói (speech act). (Dẫn theo Diệp Quang Ban – Tài liệu chuyên đề Cao Học- Phân tích diễn ngôn). 1.3. Hành vi ngôn ngữ và các khái niệm liên quan 1.3.1. Lý thuyết về hành vi ngôn ngữ. Người đầu tiên đưa ra lý thuyết HVNN là Austin (1962) trong công trình nghiên cứu: “How to do thing with words” 15 Trước đây F.D.Sausure là người đầu tiên phân biệt ngôn ngữ và lời nói. Song Austin(1962) đã đưa ra tiêu chí phân biệt sự khác nhau trong cùng một HVNN. Những tiêu chí này đã chỉ ra một cách sâu sắc hơn nữa mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói. Đó là các tiêu chí: - Hành vi ở lời nói (illocutionary act) là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của hành vi này gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận. - Hành vi tạo lời (locutionary act) là hành vi sử dụng các yếu tố ngôn ngữ như ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu... để tạo ra được một phát ngôn về hình thức và nội dung. - Hành vi mượn lời (locutionary act) là những hành vi mượn phương tiện ngôn ngữ để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào đó ở người nghe, người nhận hoặc chính người nói. Sau Austin, vào năm 1969 trong cuốn “Speech acts” tác giả Searle đã đưa ra những tiêu chí cơ bản làm nền tảng cho sự phân bịêt các hành vi ở lời. Quan sát và tóm lược các tiêu chí này, tác giả Nguyễn Đức Dân (16,28-29) đã chọn ra ba tiêu chí cơ bản để phân loại các hành vi tạo lời như sau: - Đích ở lời. Đích ở lời của một HVNN là mục đích của hành vi đó. Đích ở lời không trùng với hiệu lực tại lời. Nó chỉ là một bộ phận của hiệu lực ở lời. Hai hành vi khác nhau có thể cùng đích ở lời nhưng hiệu lực ở lời khác nhau. Searle đã đưa ra ví dụ như sau: hai hành vi mệnh lệnh và thỉnh cầu đều cùng một đích tạo lời là người nghe sẽ nhận thực hiện hoặc không thực hiện một hành động có hiệu lực tại lời khác nhau, hành vi mệnh lệnh là bắt buộc, còn thỉnh cầu là kêu gọi thiện chí. - Hướng của sự ăn khớp. Sự ăn khớp ở đây là mối quan hệ ăn khớp giữa từ ngữ ( tức ngôn từ) với “thế giới” ( hiện thực khách quan) của một hành vi, sự ăn khớp có thể 16 được xây dựng theo hai chiều: từ ngôn ngữ tới hiện thực và từ hiện thực tới ngôn ngữ. - Trạng thái ngôn ngữ được biểu hiện. Khi thực hiện một HVNN người tham gia giao tiếp qua đó bày tỏ lòng tin, sự mong muốn hoặc ăn năn....vì vậy khi nhìn nhận nhiều hành vi khác nhau về bề ngoài ta có thể thấy dưới cùng một góc độ. Hành vi ở lời mang lại những hiệu quả nhất định trong giao tiếp. Đây là loại HVNN mang tính xã hội do phụ thuộc vào ngữ cảnh. Các phát ngôn nhất định xuất hiện trong tình huống nhất định phù hợp với ngữ cảnh, có tính quy ước và xác định theo những quy ước đó. 1.3.2. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi ngôn ngữ gián tiếp Hành vi ngôn ngữ trực tiếp là một sự nói thẳng công khai, không ẩn chứa dụng ý về một điều gì đó. Hành vi ngôn ngữ gián tiếp là điều không được nói ra lớn hơn hoặc khác hơn điều được nói ra. Phân biệt sự khác nhau giữa hai khái niệm này Searle (1975) cho rằng: “một hành vi ở lời được thực hiện gián tiếp thông qua sự thực hiện một hành vi ở lời khác sẽ được gọi là một hành vi gián tiếp”[tr72]. 1.3.3. Các loại hành vi ngôn ngữ Việc phân loại HVNN căn cứ vào phản ứng qua lại của những người tham gia hội thoại. Đây là căn cứ để nhận ra hành vi ở lời. a. Phân loại của Austin(1962). Austin chia các loại HVNN thành năm phạm trù : Phán xử, hành xử, cam kết, trình bày, ứng xử. Trong đó thì HVTC thuộc phạm trù trình bày. b. Phân loại của Searle(1975). Searle dùng 12 tiêu chí để phân loại HVNN, HVNN được phân lập thành năm loại hành vi ở lời là: tái hiện, điều khiển, cam kết, biểu cảm, tuyên bố. Trong đó HVTC thuộc nhóm điều khiển. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan