Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát đặc điểm đoạn thoại trong vài sách dạy tiếng việt hiện nay...

Tài liệu Khảo sát đặc điểm đoạn thoại trong vài sách dạy tiếng việt hiện nay

.PDF
118
1724
90

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------ NGUYỄN BÍCH DIỆP KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM ĐOẠN THOẠI TRONG MỘT SỐ SÁCH DẠY TIẾNG VIỆT HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội – 2011 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 3 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 3 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................... 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài .......................................................... 6 4. Ý nghĩa của luận văn ......................................................................................... 6 5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................... 7 6. Tư liệu nghiên cứu ............................................................................................ 7 7. Bố cục luận văn ................................................................................................. 8 PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 10 Chương 1: Khái quát cơ sở lý thuyết hội thoại .............................................. 10 1.1. Hội thoại là gì?.......................................................................................... 10 1.2. Vận động hội thoại.................................................................................... 11 1.3. Các yếu tố kèm lời và phi lời .................................................................... 13 1.4. Các quy tắc hội thoại ................................................................................ 14 1.5. Thương lượng hội thoại ............................................................................ 21 1.6. Cấu trúc hội thoại...................................................................................... 24 1.7. Ngữ pháp hội thoại ................................................................................... 30 1.8. Tính thống nhất của cuộc thoại................................................................. 32 1.9. Tiểu kết ..................................................................................................... 32 Chương 2: Khảo sát đặc điểm hội thoại trong một số sách dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài ........................................................................................ 34 2.1. Giới thiệu khái quát về nguồn tư liệu khảo sát ......................................... 34 2.2. Nội dung khảo sát đặc điểm hội thoại trong một số sách DTVCNNN .... 36 2.3. Tiểu kết ..................................................................................................... 66 Chương III: Thiết kế bài giảng hội thoại Tiếng Việt cho người nước ngoài và đề xuất một số bài hội thoại luyện nói theo chủ đề ở TĐCS .................... 69 1 3.1. Dẫn nhập ................................................................................................... 69 3.2. Thiết kế bài giảng hội thoại Tiếng Việt cho người nước ngoài69 3.3. Đề xuất một số hội thoại luyện nói cho học viên ở TĐCS ....................... 82 3.4. Tiểu kết ..................................................................................................... 93 PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................... 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 99 PHỤ LỤC ............................................................................................................ 102 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập và phát triển, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức, được tham gia vào sân chơi lớn nhất thế giới WTO. Có thể nói vị thế của Việt Nam đang ngày càng được củng cố, cải thiện và nâng cao trong con mắt của bạn bè và đối tác của Việt Nam trên toàn thế giới. Một trong những yếu tố góp phần quan trong trong việc duy trì và phát huy hiệu quả vị thế của một quốc gia đó chính là ngôn ngữ của quốc gia đó. Tiếng Việt đã, đang và sẽ là công cụ hữu hiệu để việt nam có thể giao lưu, tiếp cận và lĩnh hội văn minh văn hóa nhân loại cũng như là cầu nối giúp bà con Việt kiều nói riêng cũng như bạn bè và đối tác quốc tế hiểu về đất nước, con người và những tiềm năng của Việt Nam thật sự hiệu quả, thấu đáo và sâu sắc. Bởi vậy, việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài hiện đang trên đà phát triển khá mạnh mẽ. Nếu như trước đây chỉ có một số cơ sở trực thuộc một số trường đại học đảm nhận dạy tiếng Việt cho người nước ngoài thì nay con số đó đã lớn mạnh hơn rất nhiều. Khoa Việt Nam học không chỉ được thành lập ở một số trường đại học công lập như: Đại học KHXH &NV- ĐHQGHN, Đại học Hà Nội, Đại học Thương mại Hà Nội, Đại học Ngoại Thương Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Thái Nguyên, Đại học Hải Phòng, Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng, Đại học Ngoại ngữ- Đại học Huế, Đại học Ngoại ngữ Tin học TPHCM, Đại học KHXH &NV- ĐHQG TPHCM, vv .... mà còn được mở cả ở một số trường dân lập như Đại học dân lập Phương Đông, Đại học dân lập Thăng Long, Đại học dân lập Đông Đô vv.... Ngoài các trung tâm dạy tiếng Việt cho người nước ngoài các trường đại học quản lý còn có các trung tâm do cá nhân, tổ chức ngoài thống giáo dục mở ra và hoạt động theo nhu cầu của thị trường ở gần các khu thị tập trung đông đảo số lượng người nước ngoài đến sinh sống và làm việc Việt Nam như khu đô thị Trung Hòa Nhân Chính, khu vực quận Tây Hồ, khu thị Mỹ Đình vv..... do hệ đô tại đô Đã có ngày càng nhiều các cuộc hội thảo, hội nghị khoa học về Tiếng Việt và giảng dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài đã được tổ chức. Vấn đề Tiếng Việt cho người nước ngoài cũng đã được đưa ra bàn bạc, thảo luận một cách nghiêm túc và đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong ngành ngôn ngữ học. 3 Trong các nghiên cứu khoa học đặc biệt là các khóa luận, luận văn của các sinh viên, học viên cao học, số đề tài viết về sách dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài cũng đang dần mở rộng địa hạt của mình. Ví dụ như: Đỗ Thị Thúy Hoàn tác giả luận văn thạc sỹ ngôn ngữ về “Khảo sát hệ thống bài luyện và bài tập trong một số sách dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài ở Việt Nam từ năm 1980 đến nay” bảo vệ năm 2008; Đinh Thị Thùy Trang tác giả luận văn thạc sỹ ngôn ngữ học về “Trợ từ tình thái trong các giáo trình dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài ”, bảo vệ năm 2009; Nguyễn Thị Lệ Hằng viết khóa luận tốt nghiệp ngành ngôn ngữ học khóa 2005-2009 về “Bước đầu khảo sát việc cung cấp vốn từ trong một số giáo trình dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài” bảo vệ năm 2009 .... Điều đó chứng tỏ, việc dạy và học Tiếng Việt đang dần được quan tâm nhiều hơn không chỉ đối với các giáo viên và học viên có nhu cầu mà cả những nhà nghiên cứu ngôn ngữ, những người làm việc trong ngành cũng ít nhiều dành cho địa hạt này một sự lưu tâm nhất định. Trong quá trình học Tiếng Việt, một trong những nội dung được học viên quan tâm, thực hành và sử dụng nhiều và hiệu quả nhất đó chính là các hội thoại trong sách. Có thể thể nói mục đích cuối cùng và cơ bản nhất đối với hầu hết học viên nước ngoài trong quá trình học ngoại ngữ đó là giao tiếp được bằng ngoại ngữ đó với người bản địa. Trong nghiên cứu ngôn ngữ nói chung, việc nghiên cứu hội thoại đã được lưu tâm xem xét ở một số bình diện, dù vậy việc khảo sát các đoạn hội thoại để nắm bắt các đặc điểm cơ bản từ đó tiến tới chỗ giúp người sử dụng ngôn ngữ chủ động trong việc hiểu hội thoại, sử dụng hội thoại một cách tự nhiên, xây dựng hội thoại chuẩn mực... vẫn chưa được chú ý nhiều. Luận văn của chúng tôi sẽ hướng vào việc tìm hiểu, khảo sát các hội thoại trong các sách dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài. Trên cơ sở đó, chúng tôi cũng đề xuất một số cách thiết kế bài giảng về hội thoại Tiếng Việt, đồng thời tiến hành tìm hiểu và bước đầu xây dựng một số bài hội thoại tự nhiên, đạt chuẩn. Chính bởi vậy, chúng tôi chọn nội dung “Khảo sát đặc điểm đoạn thoại trong một số sách dạy Tiếng Việt hiện nay” làm đối tượng nghiên cứu trong luận văn của mình. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu + Đối tượng nghiên cứu 4 Đối tượng mà luận văn của chúng tôi tập trung hướng vào là các đoạn hội thoại được thể hiện trong các sách dạy Tiếng Việt cụ thể là các sách dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài mà trong luận văn về sau này chúng tôi sẽ dùng ký hiệu viết tắt là sách DTVCNNN. Chúng tôi sẽ tập trung khảo sát các hội thoại tại các sách DTVCNNN trong những năm gần đây. Sở dĩ chúng tôi làm rõ đối tượng như vậy thay vì cách đặt vấn đề như tên của đề tài đã có là nhằm mục đích tự hạn chế cho mình một phạm vi, đối tượng khảo sát hẹp hơn, cụ thể và phù hợp hơn với công việc mà chúng tôi đang đảm nhiệm là dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài. Với phạm vi đề tài cụ thể này, chúng tôi có thể đưa ra những số liệu và nhận định sát thực tế hơn. Việc tìm hiểu đặc điểm đoạn thoại trong sách dạy Tiếng Việt rõ ràng là có phần rộng và cũng chưa cụ thể. Khiếm khuyết này xuất phát từ chỗ chúng tôi phải xây dựng đề cương trước khi bắt tay vào nghiên cứu số liệu thực tế. Chúng tôi nói rõ điều này để thống nhất lại nội dung mà chúng tôi khảo cứu trong luận văn sẽ thể hiện tính cụ thể và có phạm vi hẹp hơn so với nhan đề của luận văn. Kính mong các thầy cô trong hội đồng đọc và đánh giá luận văn theo hướng triển khai mới. Cấu trúc của một giáo trình dạy Tiếng Việt dành cho người nước ngoài, về cơ bản thường chia thành ba phần chính đó là: hội thoại (hoặc bài đọc, bài nghe), chú giải ngữ pháp và phần luyện tập. Luận văn tập trung nghiên cứu và khảo sát phần hội thoại trong sách dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài hiện nay. Cụ thể là luận văn sẽ khảo sát toàn bộ nội dung các hội thoại có trong các cuốn sách dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài đã được lựa chọn để đưa ra những đặc điểm cơ bản nhất của các hội thoại đã được nghiên cứu. + Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các hội thoại có trong sách đã được lựa chọn dưới đây. Do điều kiện hạn chế nên luận văn chỉ tiến hành khảo sát tất cả các hội thoại chính trong sách học. Còn một số hội thoại của phần bài tập và cả một số hội thoại được trích từ đáp án bài nghe cũng như trong phần bài tập triển khai trong sách học tạm thời chúng tôi chưa có điều kiện nghiên cứu và hy vọng sẽ có cơ hội nghiên cứu trong đề tài có phạm vi rộng hơn. Bên cạnh đó trong quá trình khảo sát, luận văn cũng xem xét đến cả một số hoạt động đi kèm với hội thoại như: bảng từ mới, tranh ảnh, một số dạng bài tập triển khai cùng với hội thoại vv... nhằm làm rõ hơn đặc điểm của hội thoại trong sách dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài. 5 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài - Mục đích nghiên cứu + Vận dụng lý thuyết hội thoại nói chung và một số khái niệm cơ bản có liên quan đến lý thuyết hội thoại vào việc xem xét, khảo sát và tìm hiểu một cách khoa học về cấu trúc hội thoại trong sách dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài. + Cố gắng tìm ra được một số đặc điểm cơ bản nhất trong các hội thoại trong sách dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài. + Thiết kế bài soạn giảng về dạy hội thoại Tiếng Việt cho người nước ngoài và đề xuất được được một số bài hội thoại luyện nói cho học viên người nước ngoài một cách hiệu quả. - Để đạt được những mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau: + Tóm tắt những nét cơ bản nhất về lý thuyết hội thoại và một số khái niệm có liên quan. + Khảo sát cụ thể toàn bộ hệ thống các hội thoại trong các sách dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài đã được lựa chọn. + Nhận diện một số đặc điểm hội thoại trong các sách đã được lựa chọn nghiên cứu. + Xác định được các dạng hội thoại, nhận diện được các loại hình, kênh giao tiếp và các yếu tố có liên quan và chi phối trong quá trình khảo sát hội thoại. + Tìm hiểu, nghiên cứu và khảo sát cụ thể các hội thoại đã được lựa chọn để cuối cùng thiết kế được bài giảng hội thoại và đề xuất các bài hội thoại luyện nói giai đoạn đầu học Tiếng Việt một cách hiệu quả. 4. Ý nghĩa của luận văn Thực hiện tốt đề tài, luận văn sẽ góp phần nghiên cứu làm rõ đặc điểm của hội thoại Tiếng Việt. Đồng thời, việc tìm hiểu các đặc điểm cơ bản của các đoạn hội thoại Tiếng Việt trong một số sách dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài sẽ giúp các giáo viên dạy Tiếng Việt hiểu cặn kẽ và đầy đủ về các đoạn hội thoại trong các sách dạy Tiếng Việt. Qua đó, có thể tiếp cận và đưa ra những hội thoại Tiếng Việt dễ hiểu và cách thiết kế bài giảng một cách hiệu quả trong quá trình giảng dạy Tiếng Việt. 6 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng một số phương pháp cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu ngôn ngữ như: Phương pháp miêu tả, phân tích, phương pháp so sánh đối chiếu. Ngoài ra, để có thể thu thập số liệu phục vụ cho việc khảo sát, luận văn cũng sử dụng các thủ pháp nghiên cứu cụ thể trong quá trình thực hiện như: các thủ pháp phân loại và hệ thống hóa, thủ pháp phân tích, miêu tả, thủ pháp thống kê, phân loại theo tiêu chí cụ thể vv ... nhằm đưa ra được những số liệu và những dẫn chứng khoa học có tính xác thực cao nhất. 6. Tư liệu nghiên cứu Dưới đây là những tư liệu mà luận văn tiến hành khảo sát, thống kê và miêu tả trong luận văn từ 18 cuốn sách dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài được tạm chia thành hai trình độ như sau: Giáo trình Tiếng Việt cơ sở: 1. Phan Văn Giưỡng (2004), Tiếng Việt cho người nước ngoài, Tập 1, NXB Trẻ, TP HCM 2. Phan Văn Giưỡng (2004), Tiếng Việt cho người nước ngoài, Tập 2, NXB Trẻ, TPHCM 3. Nguyễn Văn Huệ (chủ biên) (2004), Tiếng Việt dành cho người nước ngoài, Tập 1, NXB GD, TPHCM 4. Nguyễn Văn Huệ (chủ biên) (2004), Tiếng Việt dành cho người nước ngoài, Tập 2, NXB GD, TPHCM 5. Nguyễn Văn Huệ (chủ biên) (2004), Tiếng Việt dành cho người nước ngoài, Tập 3, NXB GD, TPHCM 6. Nguyễn Việt Hương (1996), Thực hành Tiếng Việt, NXB ĐHQG, Hà Nội 7. Nguyễn Văn Phúc (chủ biên), Đào Văn Hùng, Nguyễn Văn Chính (2004), Tiếng Việt cho người nước ngoài, Chương trình cơ sở, NXB ĐHQG, Hà Nội 8. Đoàn Thiện Thuật(chủ biên) (2004), Thực hành Tiếng Việt Trình độ A, Tập 1, NXB Thế giới, Hà Nội 9. Đoàn Thiện Thuật (chủ biên) (2004), Thực hành Tiếng Việt Trình độ A, Tập 2, NXB Thế giới, Hà Nội Giáo trình Tiếng Việt nâng cao: 7 1. Mai Ngọc Chừ (2005), Học Tiếng Việt qua Tiếng Anh, NXB Thế giới, Hà Nội 2. Trịnh Đức Hiển(chủ biên), (2004), Tiếng Việt cho người nước ngoài trình độ nâng cao, ĐHQG, Hà Nội 3. Nguyễn Văn Huệ (chủ biên), (2004), Tiếng Việt dành cho người nước ngoài , Tập 4, NXB GD, TP HCM 4. Nguyễn Văn Huệ (chủ biên), (2004), Tiếng Việt dành cho người nước ngoài , Tập 5, NXB GD, TP HCM 5. Nguyễn Thiện Nam (1998), Tiếng Việt nâng cao, NXB GD, Hà Nội 6. Nguyễn Anh Quế (2000), Tiếng Việt cho người nước ngoài, NXB VHTT Hà Nội 7. Đoàn Thiện Thuật (chủ biên) (2004), Thực hành Tiếng Việt Trình độ B, NXB Thế giới, Hà Nội 8. Đoàn Thiện Thuật (chủ biên) (2001), Thực hành Tiếng Việt Trình độ C, NXB Thế giới, Hà Nội 9. Viện ngôn ngữ học- Viện khoa học xã hội Việt Nam (2004), Tiếng Việt nâng cao dành cho người nước ngoài, NXB KHXH, Hà Nội 7. Bố cục luận văn Ngoài danh mục từ viết tắt, danh mục bảng biểu trong luận văn, mục lục, phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo theo quy định, bố cục phần nội dung chính của luận văn được trình bày gồm ba chương như sau: Chương 1: Khái quát cơ sở lý thuyết hội thoại Chương 1 giới thiệu các vấn đề lý luận liên quan đến lý thuyết hội thoại và các yếu tố cấu thành hội thoại, tầm quan trọng của lý thuyết hội thoại trong nghiên cứu và giảng dạy hội thoại Tiếng Việt. Trong đó, đặc biệt lưu ý đến đặc điểm, cấu trúc hội thoại. Chương 2: Khảo sát đặc điểm hội thoại trong một số sách dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài Ở chương này, chúng tôi tập trung khảo sát và nhận diện các đặc điểm của hội thoại trong các sách dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài hiện nay. Cụ thể là 18 đầu sách với 588 hội thoại. Qua đó chúng tôi có thể có những nhận định khách quan logic và khoa học để đưa ra những đánh giá và nhận xét đúng đắn. Đồng 8 thời, trong chương 2, chúng tôi cũng tiến hành thống kê khảo sát các số liệu, bảng biểu một cách chi tiết, cụ thể và đầy đủ để bảo tính chính xác và khách quan trong quá trình đánh giá và nhận xét. Ngoài các đặc điểm cơ bản như: vai giao tiếp, đoạn thoại, cặp thoại, hành vi ngôn ngữ, kết cục hội thoại ..., chúng tôi còn đưa ra số liệu thống kê về các yếu tố khác đi kèm như: tranh ảnh, bảng từ, ngữ cảnh, câu hỏi, bài tập kèm theo ... trong quá trình khảo sát. Chương 3: Thiết kế bài giảng hội thoại Tiếng Việt cho người nước ngoài và đề xuất một số bài hội thoại luyện nói theo chủ đề ở TĐCS Đây là chương mà chúng tôi đã thiết kế, xây dựng có vận dụng việc nghiên cứu và tìm hiểu hệ thống lý thuyết hội thoại ở chương 1 và lĩnh hội những kết quả khảo nghiệm thực tế cụ thể qua phần khảo sát ở chương 2. Do vậy, chúng tôi mạnh dạn đề xuất chương này với mong muốn làm thế nào để có thể dạy hội thoại Tiếng Việt cho học viên người nước ngoài một cách hiệu quả nhất. Đây cũng là mục đích mà chúng tôi hướng tới khi chọn đề tài nghiên cứu “Đặc điểm đoạn thoại trong một số sách dạy Tiếng Việt hiện nay”. 9 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Khái quát cơ sở lý thuyết hội thoại Bản chất của quá trình giao tiếp bao giờ cũng mang tính xã hội. Điều này được thể hiện trước hết ở chỗ con người là một thực thể xã hội. Chỉ khi con người giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ con người mới thực sự thoát khỏi cuộc sống mang tính bản năng động vật để trở thành con người có ý thức, con người với bản tính xã hội. Để quá trình giao tiếp đạt được kết quả mong đợi nhất đòi hỏi nội dung hội thoại phải đảm bảo được tính nhất quán, khoa học cũng như đảm bảo được tất cả các mục tiêu mà một quá trình giao tiếp hiệu quả hướng tới. Bởi vậy, hội thoại không chỉ là sản phẩm của quá trình giao tiếp mà nó còn là cơ sở để hình thành và phát triển quá trình giao tiếp. Một số khái niệm cơ bản dưới đây sẽ phần nào cung cấp một số nội dung về lý thuyết hội thoại để có thể tiếp cận một cách khoa học vấn đề đặt ra : 1.1. Hội thoại là gì? Theo Đỗ Hữu Châu: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác. ”[2, tr. 201] Còn theo Nguyễn Thiện Giáp: “Hội thoại là phương tiện phổ biến và cơ bản nhất để dẫn dắt công việc của con người. Giao tiếp hội thoại là hoạt động cơ bản của ngôn ngữ. Trong giao tiếp hội thoại luôn có sự hồi đáp giữa người nói và người nghe, chẳng những người nói và người nghe tác động lẫn nhau mà lời nói của từng người cũng tác động lẫn nhau ...”[6, tr. 219] Mặt khác, theo Nguyễn Đức Dân: “Các hành vi ngôn ngữ không đứng độc lập, riêng lẻ. Chúng kế tiếp nhau thành chuỗi. Sự kết thúc của hành vi này là tiền đề cho những hành vi tiếp theo, dù đó là lời của một người hay là lần lượt của hai người. Chuỗi các hành vi đó tạo thành một hội thoại. ”[3, tr. 233] Qua ba định nghĩa trên, có thể dễ dàng nhận thấy, “Hội thoại là hình thức giao tiếp phố biến của ngôn ngữ. Hội thoại không phải là các hành vi ngôn ngữ đứng độc lập mà chúng kế tiếp nhau thành chuỗi. Sự kết thúc của hành vi này là tiền đề cho những hành vi tiếp theo.” 10 Tuy nhiên, không phải mọi cuộc hội thoại đều giống nhau. “Các cuộc hội thoại có thể khác nhau ở một số đặc điểm như sau: 1. Chúng khác nhau về đặc điểm của thoại trường (không gian, thời gian) ở đó diễn ra cuộc hội thoại. 2. Sự khác biệt về số lượng người tham gia. “Số lượng nhân vật hội thoại hay còn gọi là đối tác hội thoại hay đối tác - thay đổi từ hai đến một số lượng lớn. Có những cuộc hội thoại tay đôi (song thoại), tay ba (tam thoại), tay tư hoặc nhiều hơn nữa (đa thoại). 3. Các cuộc thoại còn khác nhau về cương vị và tư cách của những người tham gia hội thoại. Cương vị và tư cách của những người tham gia hội thoại rất khác nhau tùy theo các cuộc hội thoại, chẳng hạn như: tính chủ động hay thụ động của đối tác, vị thế giao tiếp mạnh hay vị thế giao tiếp yếu.... 4. Sự khác nhau ở tính có đích hay không có đích. Những cuộc hội thoại như thương thuyết ngoại giao, hội thảo khoa học có đích được xác định trước rõ ràng. Những cuộc tán gẫu được xem là không có đích. Nói đến đích của hội thoại cũng là nói đến đặc tính nội dung của cuộc hội thoại. Có những cuộc hội thoại ngẫu hứng, tự do và những cuộc hội thoại được định trước về nội dung. Có những cuộc hội thoại có nội dung nghiêm túc và có những cuộc hội thoại nói những chuyện “tào lao”. Và cuối cùng, là sự khác nhau về tính có hình thức hay không có hình thức. Những cuộc thương nghị, hội thảo là những cuộc hội thảo mà hình thức tổ chức khá chặt chẽ, trang trọng đến mức thành nghi lễ, còn những chuyện trò đời thường không cần một hình thức tổ chức nào cả.”[2, tr. 203, 204] 1.2. Vận động hội thoại Trong bất cứ cuộc hội thoại nào cũng có ba vận động chủ yếu: trao lời, trao đáp và tương tác. 1.2.1. Sự trao lời (allocution, allocution) Chuỗi đơn vị ngôn ngữ được một nhân vật hội thoại nói ra, kể từ lúc bắt đầu cho đến lúc chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia nói chuỗi của mình là một lượt lời. Chúng ta đã dùng kí hiệu SP chỉ người tham gia vào hội thoại. SP1 là vai nói, SP2 là vai nghe. SP1, SP2 và SPn là các đối tượng hội thoại. Trao lời là vận động mà SP1 nói lượt lời của mình ra và hướng lượt lời của mình về phía SP2 nhằm làm cho SP2 nhận biết được rằng lượt lời được nói ra đó là dành cho SP2. 11 Trong lời trao, sự có mặt của SP1 là điều tất yếu. Sự có mặt đó thể hiện ở từ xưng hô ngôi thứ nhất, ở tình cảm, thái độ, hiểu biết, ở quan điểm của SP1 trong nội dung của lượt lời trao. Nói một cách tổng quát, ngay trước khi SP2 đáp lời, tức thực hiện sự trao lời của mình, người nghe đã được đưa vào lượt lời, cùng tồn tại với ngôi thứ nhất “ tôi” trong lượt lời, thường xuyên kiểm tra và điều hành sự trao lời của SP1. Trong hội thoại dù trong những cuộc đối thoại tùy ý, ngẫu hứng nhất, SP1 không hoàn toàn tự do, muốn nói gì, nói theo cách nào thì nói. SP2 luôn luôn theo dõi anh ta và SP2 sẽ có phản ứng nếu như lượt lời của SP1 có gì không phù hợp với SP2. Chính vì vậy, phía mình, SP1 người trao lời phải lấn trước (anticipation, anticipation) vào SP2 phải dự kiến trước, phải hình dung được SP2 về tâm lí, tình cảm, sở thích, hiểu biết tình trạng công việc v.v... trước khi nói. Không những thế, SP1 còn phải dự đoán trước hiệu quả của lượt lời của mình, dự đoán cả cách đáp lời của SP2 nữa. Hình ảnh tâm lí, vật lí, xã hội về SP2 càng đúng với SP2 bao nhiêu thì khả năng thành công của sự trao lời và khả năng áp đặt điều SP1 muốn nói trong hội thoại càng lớn bấy nhiêu. 1.2.2. Sự trao đáp (exchange, exchange) Cuộc hội thoại chính thức hình thành khi SP2 nói ra lượt lời đáp lại lượt lời của SP1. Trong vận động trao đáp, cái lõi của hội thoại sẽ diễn ra liên tục, lúc nhịp nhàng, lúc khúc mắc, lúc nhanh, lúc chậm cùng với sự đổi thay liên tục vai nói, vai nghe. Cũng như sự trao lời, sự hồi đáp có thể thực hiện bằng các yếu tố phi lời hoặc bằng lời, thường thì hai loại yếu tố này đồng hành với nhau. Chúng ta đã biết diễn ngôn là sản phẩm của các hành vi ngôn ngữ. Tất cả các hành vi ngôn ngữ đều đòi hỏi sự hồi đáp. Sự hồi đáp có thể bằng các hành vi ngôn ngữ tương thích với hành vi dẫn nhập lập thành cặp như hỏi/ trả lời, chào/ chào, cầu khiến/ nhận lời hoặc từ chối, cảm ơn/ đáp lời, xin lỗi/ đáp lời mà sau này sẽ gọi là cặp kế cận. 1.2.3. Sự tương tác Trong hội thoại, các nhân vật hội thoại ảnh hưởng lẫn nhau, tác động qua lại với nhau biến đổi lẫn nhau. Trước cuộc hội thoại, giữa các nhân vật có sự khác biệt, đối lập, thậm chí trái ngược về các mặt (hiểu biết, tâm lí, tình cảm, ý muốn v.v...). Không có sự khác biệt này thì giao tiếp thành thừa. Trong hội thoại và qua 12 hội thoại những khác biệt này giảm đi hoặc mở rộng ra, căng lên có khi thành xung đột. Hội thoại có thể ở hai cực: điều hòa, nhịp nhàng hoặc hỗn độn, vướng mắc mà tiêu biểu là những cuộc cãi lộn. Ở những cuộc cãi lộn ngoài cử chỉ, điệu bộ và ngữ điệu, sự trùng lời, dẫm đạp lên lượt lời của nhau, cướp lời của nhau là dấu hiệu của cuộc chiến bằng lời này. Như vậy có nghĩa là trong các cuộc đối thoại đều phải có sự hòa phối (synchronisation) các hoạt động của các đối tác về mọi mặt, trước hết là hòa phối của lượt lời. Sự hòa phối nếu hoàn hảo thì cuộc hội thoại sẽ diễn ra nghiêng về cực thứ nhất, nếu không tốt thì cuộc đối thoại nghiêng về thế cực thứ hai. Ba vận động trao lời, trao đáp và tương tác là ba vận động đặc trưng cho hội thoại, trong đó hai vận động đầu do từng đối tác thực hiện nhằm phối hợp với nhau thành vận động thứ ba. Bằng vận động trao lời và trao đáp, các nhân vật hội thoại sẽ hòa phối để thực hiện sự liên hòa phối. Đó là cốt lõi của vận động tương tác. 1.3. Các yếu tố kèm lời và phi lời Trong những cuộc đối thoại, ngoài việc sử dụng những yếu tố ngôn ngữ được hiểu theo nghĩa hẹp - bao gồm các đơn vị từ vựng và các đơn vị cú pháp, chúng ta còn sử dụng những yếu tố kèm lời và những yếu tố phi lời. Yếu tố kèm lời (paraverbal) là các yếu tố mặc dầu không có đoạn tính như âm vị và âm tiết nhưng đi kèm với các yếu tố đoạn tính. Không một yếu tố đoạn tính nào được phát âm ra mà không có yếu tố kèm lời đi theo. Những yếu tố kèm lời gồm có: ngữ điệu, trọng âm, cường độ, độ dài và đỉnh giọng (pitch). Các yếu tố này có vai trò biểu nghĩa, đặc biệt biểu nghĩa ngữ dụng của các yếu tố kèm lời là hiển nhiên. Yếu tố phi lời (non verbal) là những yếu tố không phải là những yếu tố kèm lời được dùng trong đối thoại mặt đối mặt. Thuộc yếu tố phi lời là: cử chỉ, khoảng không gian, tiếp xúc cơ thể, tư thế cơ thể và định hướng cơ thể, vẻ mặt, ánh mắt (gesture, proxemics, body contact, posture and body orientation, facial expression, gaze). Cũng được tính là tín hiệu phi lời những tín hiệu âm thanh như tiếng gõ, tiếng kéo bàn, xô ghê, tiếng huýt sáo, tiếng còi v.v... Nói một cách tổng quát, chúng ta không thể loại bỏ các tín hiệu kèm lời và phi lời khi giao tiếp bằng lời. Ngay cả khi chúng ta nói chuyện bằng điện thoại, nghĩa là không đương diện với người đối thoại, không ít người vẫn “hoa chân múa tay” với cái máy điện thoại kẹp ở cổ. Arbercrombie viết “chúng ta nói bằng các cơ 13 quan cấu âm nhưng chúng ta hội thoại với cả cơ thể chúng ta” ... Những sự kiện kèm ngôn ngữ (paralinguistic) xuất hiện song song với ngôn ngữ nói, hòa lẫn vào ngôn ngữ nói và cùng ngôn ngữ nói hình thành nên một hệ thống giao tiếp trọn vẹn ... Do vậy, nghiên cứu về các hành vi kèm ngôn ngữ là một bộ phận của quá trình nghiên cứu hội thoại. 1.4. Các quy tắc hội thoại Hội thoại diễn tiến theo những quy tắc nhất định. Nguyên lí chi phối các quy tắc hội thoại là nguyên lí cộng tác bởi vì như đã nói hội thoại là một hoạt động xã hội. Từ nguyên lí chung này mà các quy tắc hội thoại ràng buộc các đối tác hội thoại trong một hệ thống những quyền lợi và trách nhiệm. Thực ra, các quy tắc hội thoại không hoàn toàn xác định cũng không thật chặt chẽ. C.K. Orecchioni cho rằng quy tắc hội thoại có những tính chất sau: + Trong hội thoại các quy tắc tổ chức điều hành tổ chức các đơn vị hội thoại. + Quy tắc chuẩn tắc chi phối việc nói năng thế nào cho đạt được đích của mình. + Có những quy tắc hội thoại chung cùng cho mọi cuộc hội thoại nhưng cũng có những quy tắc riêng cho mỗi loại hình, mỗi kiểu hội thoại. + Các quy tắc hội thoại gắn rất chặt với ngữ cảnh. + Các quy tắc hội thoại thể hiện rất khác nhau tuy theo từng xã hội và từng nền văn hóa. + Nhìn chung, quy tắc hội thoại khá mềm dẻo, linh hoạt. (mềm dẻo, linh hoạt hơn các quy tắc cú pháp) + Quy tắc hội thoại được thụ đắc một cách tuần tự từ thuở nhỏ nhưng không được truyền thụ một cách hệ thống, cho nên phần lớn chúng được vận dụng một cách tự phát. Mặt khác, C.K. Orecchioni đã chia các quy tắc hội thoại thành ba nhóm: Thứ nhất là các quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời. Thứ hai là những quy tắc chi phối cấu trúc của hội thoại. Thứ ba là những quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân trong hội thoại. Đỗ Hữu Châu cho rằng nên thêm một nhóm quy tắc nữa là nhóm quy tắc điều hành nội dung của hội thoại. 14 Nghiên cứu hội thoại có nhiệm vụ tường minh hóa các loại quy tắc hội thoại khác nhau đó, những quy tắc làm cơ sở, đứng đằng sau sự vận hành của hội thoại. 1.4.1. Quy tắc điều hành luân phiên lượt lời Các quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời gồm một hệ những điều khoản mà Sacks và các đồng tác giả phát biểu như sau: + “Thứ nhất, vai nói thường xuyên thay đổi nhau (luân phiên) trong một cuộc hội thoại. Theo điều khoản này thì một cuộc hội thoại lí tưởng là cuộc hội thoại có sự cân bằng về lượt lời. Điều khoản cân bằng lượt lời này cũng có tác dụng về mặt nội dung: người nào nói quá nhiều về mình trong cuộc hội thoại - dù nói theo kiểu tự khen hay kể khổ - cũng đều đáng bị lên án. + Thứ hai, mỗi lần chỉ có một người nói. + Thứ ba, lượt lời của mỗi người thường thay đổi về độ dài, do đó cần có những biện pháp để nhận biết khi nào thì một lượt lời chấm dứt. + Thứ tư, vị trí ở đó nhiều người cùng nói một lúc tuy thường gặp nhưng không bao giờ kéo dài. + Thứ năm, thông thường lượt lời của đối tác này chuyển tiếp cho đối tác kia diễn ra không bị ngắt quãng quá dài, cũng không bị dẫm đạp lên nhau. + Thứ sáu, trật tự (nói trước, nói sau) của những người nói không cố định, trái lại luôn luôn thay đổi. Do đó một số phương tiện được dùng để chỉ định và phân phối lượt lời là cần thiết.”[2, tr. 226- 227] Đằng sau sự liên hòa phối là các quy tắc luân phiên lượt lời. Phải liên hòa phối là để cho các quy tắc luân phiên lượt lời vận hành được tốt, mà các quy tắc luân phiên lượt lời có vận hành tốt thì cuộc hội thoại mới có kết quả. 1.4.2. Quy tắc điều hành nội dung của hội thoại Nội dung của một cuộc hội thoại được phân phối thành nội dung của các lượt lời. Quy tắc luân phiên lượt lời có mục đích là phục vụ cho sự phát triển vấn đề mà cuộc hội thoại chấp nhận làm nội dung. Bởi vậy, một cuộc hội thoại còn cần đến những quy tắc điều hành nội dung của nó, đúng hơn là quy tắc điều hành quan hệ giữa nội dung các lượt lời tạo nên cuộc hội thoại đó. 15 Các quy tắc điều hành nội dung của hội thoại theo đó là hai nguyên tắc cộng tác hội thoại và nguyên tắc quan yếu. 1.4.2.1. Nguyên tắc cộng tác (cooperative principle) Theo H.P. Grice, nguyên tắc cộng tác hội thoại có dạng tổng quát như sau: Hãy làm cho phần đóng góp của anh, chị (vào cuộc hội thoại) đúng như nó được hỏi ở giai đoạn (của cuộc hội thoại) mà nó xuất hiện phù hợp với đích hay phương hướng của một cuộc hội thoại mà anh chị đã chấp nhận tham gia vào. Nguyên tắc này bao trùm bốn phạm trù mà Grice gọi là phạm trù lượng, phạm trù chất, phạm trù quan hệ, phạm trù cách thức theo tinh thần các phạm trù của nhà triết học Kant. 1. Phương châm về lượng Hãy làm cho phần đóng góp của anh có lượng tin đúng như đòi hỏi (của đích đang diễn ra của từng phần của cuộc hội thoại). Đừng làm cho phần đóng góp của anh có lượng tin lớn hơn đòi hỏi. 2. Phương châm về chất Đừng nói những điều mà anh tin rằng không đúng. Đừng nói điều mà anh không có bằng chứng xác thực. 3. Phương châm quan hệ Hãy quan yếu. (be relevant) 4. Phương châm cách thức Tránh lối nói tối nghĩa. Tránh lối nói mập mờ. (có thể hiểu nhiều nghĩa) Hãy ngắn gọn. (tránh dài dòng) Hãy nói có trật tự. Có thể hiểu các phương châm đó một cách cụ thể như sau: + Phương châm về lượng: Nếu ai đó giúp tôi sửa xe, tôi mong đợi sự đóng góp của người đó phù hợp không hơn không kém với điều tôi đang chờ đợi. Nếu tôi cần bốn cái vít thì người đó đưa cho tôi không phải sáu, cũng không phải hai cái vít. + Phương châm về chất: Tôi trông đợi một sự giúp đỡ thực sự chứ không phải một sự giúp đỡ vớ vẩn. Nếu tôi cần đường để làm một chiếc bánh ga tô thì tôi 16 mong đợi người đó đưa cho tôi đường chứ không phải đưa cho tôi muối. Nếu tôi cần một chiếc thìa thì tôi mong anh ta đưa tôi một chiếc thìa chứ không phải một cái cặp chả. + Phương châm quan hệ: Tôi trông đợi sự giúp đỡ của người giúp tôi đúng vào điều tôi đang cần ở thời điểm cụ thể của việc tôi đương làm. Nếu tôi đang nhào bột làm bánh thì tôi không mong người giúp tôi đưa cho tôi cuốn sách hướng dẫn làm bánh hoặc đưa tôi một cái dĩa để xiên thịt. (Mặc dầu cuốn sách làm bánh, chiếc dĩa xiên thịt có thể cũng cần cho việc làm bánh nhưng không phải ở giai đoạn nhào bột.) 1.4.2.2. Lý thuyết quan yếu Quan yếu theo Grice là tính chất của phát ngôn xét trong quan hệ với các phát ngôn khác, chủ yếu là với tiền ngôn trong ngôn cảnh với hướng và đích của cuộc hội thoại. Không đối chiếu phát ngôn đang xem xét với tiền ngôn thì không thể kết luận rằng nó có quan yếu hay không. Khái niệm về hiệu lực đối với ngữ cảnh là cơ bản để xác định tính quan yếu. Có thể nói, hiệu lực đối với ngữ cảnh là điều rất cần thiết của tính quan yếu và trong những điều kiện giống nhau thì hiệu lực đối với ngữ cảnh càng cao thì tính quan yếu của phát ngôn càng lớn. Một phát ngôn càng quan yếu với lượng tin càng ít thì nó sẽ làm cho người nghe làm giàu thêm hoặc thay đổi càng nhiều hiểu biết và quan niệm của anh ta. “Theo C.K. Orecchioni, một phát ngôn có thể quan yếu về các phương diện sau đây: - Quan yếu về ngữ dụng: Một phát ngôn quan yếu về ngữ dụng khi nó có những hệ quả đối với hành động, cách xử sự của những người tham gia hội thoại. - Quan yếu về lập luận: Một phát ngôn quan yếu về lập luận khi nó có thể làm cơ sở để người nghe rút ra được những suy ý làm thay đổi hiểu biết hay tín điều của mình, hoặc để dẫn tới một lập luận nào đó cho dù phát ngôn có lượng tin hay không. - Quan yếu về hứng thú: Một phát ngôn được xem là quan yếu về hứng thú khi những thông tin mà nó cung cấp có một hứng thú, gây ra được một sự quan tâm nào đấy đối với người nghe. Có rất nhiều phát ngôn rất phong phú về lượng tin nhưng không quan yếu chỉ vì nói không đúng lúc, đúng chỗ. - Quan yếu về đề tài: Khi tham gia vào hội thoại, mọi người đều nhất trí với nhau một chấp ước, đó là phát ngôn được nói ra trong cuộc hội thoại phải có quan 17 hệ với đề tài của cuộc hội thoại và qua quan hệ với đề tài mà có quan hệ với nhau. Do chấp ước này mà chúng ta cố gắng tìm ra tính quan yếu với đề tài của những phát ngôn có vẻ như không dính líu gì với câu chuyện đang nói.”[29, tr. 199] Bởi vậy, làm cho phát ngôn đạt tính quan yếu tối ưu lại tùy thuộc vào hai quy tắc, thứ nhất là quy tắc về quan hệ giữa tính quan yếu và lượng tin, thứ hai là quy tắc về mối liên hệ giữa tính quan yếu và nỗ lực của người nghe để tìm ra dự ước quan yếu. Theo quy tắc thứ nhất thì, một quy tắc chứa lượng tin càng thấp thì càng quan yếu. Theo quy tắc thứ hai thì giữa nỗ lực tìm ra dự ước quan yếu và tính quan yếu có tỷ lệ nghịch. Có nghĩa là quan yếu có thể có những mức độ khác nhau. Theo Wilson và Sperber thì nỗ lực bỏ ra để tìm dự ước quan yếu càng lớn thì tính quan yếu càng thấp. Trên đây chỉ là sự trình bày đại lược những tư tưởng và khái niệm chính của lý thuyết quan yếu. Với lý thuyết quan yếu, Wilson và Sperber chứng minh rằng, tất cả phương châm hội thoại của Grice đều có thể quy về nguyên tắc quan yếu. Như vậy, nguyên tắc quan yếu đóng vai trò là một siêu nguyên tắc đủ sức giải thích không chỉ hoạt động giao tiếp mà còn là một siêu lý thuyết cho lý thuyết tri nhận. 1.4.3. Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân - phép lịch sự 1.4.3.1. Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân Quan hệ liên cá nhân giữa những người tham thoại cũng có tầm quan trọng đặc biệt trong tương tác hội thoại. Đó là những nhân tố sẵn có trong cuộc tương tác nhưng chúng nằm ngoài tương tác. Chúng liên quan tới quan hệ thân - sơ, quan hệ vị thế xã hội, tuổi tác, quyền lực ... và được thể hiện khác nhau ở cộng đồng người. Theo Nguyễn Đức Dân, quan hệ cá nhân được xem xét dưới các góc độ: quan hệ ngang (quan hệ thân - sơ) và quan hệ dọc (quan hệ vị thế). Trong đó: - Quan hệ ngang chỉ rõ mối quan hệ gần gũi, thân cận hay xa cách giữa những người tham gia giao tiếp. Mối quan hệ này có thể thay đổi và điều chỉnh trong quá trình hội thoại từ thân đến sơ hoặc ngược lại. - Quan hệ dọc là quan hệ tôn ti trong xã hội tạo thành các vị thế trên dưới trong giao tiếp. Quan hệ này được đánh dấu bằng yếu tố quyền lực. Quan hệ này có tính chất tương đối và phụ thuộc vào những yếu tố khách quan như cương vị xã hội, giới tính, tuổi tác ... Có nhiều dấu hiệu thể hiện qua hệ vị thế như bằng lời, bằng cử chỉ hoặc điệu bộ .... Hầu như mọi yếu tố trong hội thoại đều thể hiện quan hệ vị thế và điều 18 này được thể hiện khác nhau ở từng cộng đồng ngôn ngữ - văn hóa. Do vậy, người tham gia giao tiếp cần hiểu và nắm bắt được những quan niệm về vị thế giữa các dân tộc, giữa các nền văn hóa để có những hành vi ứng xử đúng đắn. 1.4.3.2. Phép lịch sự a. Định nghĩa lịch sự - Theo Lakoff, lịch sự là một phương thức để giảm thiểu sự xung đột diễn ra trong diễn ngôn. Những chiến lược lịch sự có nhiệm vụ đặc biệt là làm cho cuộc tương tác được thuận lợi. - Còn Brown và Levinson đưa ra định nghĩa về lịch sự dựa trên khái niệm thể diện (face), đó là hình ảnh về ta - cộng đồng mà mỗi thành viên muốn mình có được. Thể diện gồm thể diện âm tính và thể diện dương tính. Thể diện âm tính có nghĩa là mong muốn không bị can thiệp, mong muốn được hành động tự do theo như mình đã chọn lựa. Còn thể diện dương tính là cái được phản ánh trong ý muốn của mình được ưa thích, tán thưởng, tôn trọng và đánh giá cao. b. Các thuyết về lịch sự Lakoff nêu lên ba loại quy tắc lịch sự. Đó là quy tắc không được áp đặt, quy tắc dành cho người đối thoại sự lựa chọn và quy tắc khuyến khích tình cảm bạn bè. - Quy tắc không được áp đặt thích hợp với những ngữ cảnh trong đó, giữa những người tham gia tương tác có những khác biệt được nhận biết về quyền lực và cương vị như giữa sinh viên và chủ nhiệm khoa, giữa công nhân và ông giám đốc nhà máy. - Quy tắc dành cho người đối thoại sự lựa chọn thích hợp với những ngữ cảnh, trong đó người tham gia có quyền lực và cương vị gần tương đương với nhau nhưng không gần gũi về quan hệ xã hội. Ví dụ như giữa thương nhân và khách hàng mới, giữa hai người không quen biết nhau trong phòng bệnh. Dành cho sự lựa chọn có nghĩa là bày tỏ ý kiến sao cho ý kiến hay lời thỉnh cầu của mình có thể không được biết đến mà không bị bác bỏ hay từ chối. - Quy tắc khuyến khích tình cảm bạn bè thích hợp với bạn bè gần gũi hoặc thực sự thân mật với nhau. Nguyên tắc chi phối ở đây không phải là chỉ dừng ở chỗ tỏ ra quan tâm thực sự lẫn nhau mà còn tỏ ra săn sóc nhau, tin cậy nhau bằng cách “thổ lộ hết tâm can với nhau”. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan