Luận văn tốt nghiệp
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------
NGUYỄN THU HIỀN
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ĐỐI THOẠI
TRONG KỊCH LƯU QUANG VŨ VÀ VAI TRÕ CỦA NÓ ĐỐI
VỚI VIỆC TẠO RA TÍNH MẠCH LẠC CỦA VĂN BẢN KỊCH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI, 2011
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
9
Luận văn tốt nghiệp
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………. ...5
2. Mục đích, ý nghĩa…………………………………………………………6
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu…………………………………………6
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………….6
5. Bố cục của luận văn…………………………………………….………...7
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận……………………………………………………9
1.1. Lý thuyết về phong cách nghệ thuật…………………….………………9
1.1.1. Đặc điểm ngôn ngữ của phong cách nghệ thuật……………………9
1.1.1.1. Chức năng ngôn ngữ………………………………………….9
1.1.1.2. Đặc điểm về tính hình tượng…………………………………10
1.1.1.3. Đặc điểm về tính thẩm mỹ……………………………………10
1.1.1.4. Đặc điểm về tính sinh động và biểu cảm………………..……11
1.1.1.5. Đặc điểm về tính tổng hợp của ngôn ngữ nghệ thuật………..11
1.1.1.6. Đặc điểm về sử dụng từ, ngữ…………………………………11
1.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ kịch dưới ánh sáng của lý thuyết phong cách
chức năng…………………………………………………………......12
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
10
Luận văn tốt nghiệp
1.2. Lý thuyết về hội thoại và hội thoại sân khấu……………………………14
1.2.1. Khái niệm về hội thoại (conversation;collo-quial)………….…….14
1.2.2. Các khái niệm: cuộc thoại, đoạn thoại, lượt lời và cặp thoại…......16
1.2.3. Các hành vi giao tiếp trong đối thoại……………………..………18
1.2.3.1. Hành vi ngôn ngữ……………………………………………18
1.2.3.2. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp và gián tiếp………………….....21
1.3. Lý thuyết về mạch lạc…….………………………….………….………23
1.3.1. Khái niệm mạch lạc………………………………………………..23
1.3.2. Các kiểu mạch lạc trong văn bản…………………………………..26
1.3.2.1. Kiểu 1: Mạch lạc trong triển khai mệnh đề…………………..27
1.3.2.2. Kiểu 2: Mạch lạc trong hành động ngôn ngữ………………..30
1.3.2.3. Kiểu 3: Mạch lạc theo nguyên tắc cộng tác………………….32
Chương 2: Đặc điểm ngôn ngữ đối thoại trong kịch Lưu Quang Vũ…….34
2.1 Các dạng ngôn ngữ đối thoại trong kịch bản Lưu Quang Vũ……..……..34
2.1.1. Đối thoại đơn tuyến (đơn thoại, độc thoại nội tâm)………………..35
2.1.2. Đối thoại song tuyến…………………………………………..…..41
2.1.3. Đối thoại đa tuyến………………………………………………....42
2.2. Đặc điểm cấu trúc đối thoại trong kịch Lưu Quang Vũ…………………46
2.2.1. Các kiểu cấu trúc cầu khiến gián tiếp bằng lời hỏi - cầu khiến trong
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
11
Luận văn tốt nghiệp
tham thoại dẫn nhập của ngôn ngữ đối thoại kịch Lưu Quang Vũ………….47
2.2.1.1. Lời hỏi cầu khiến đồng hướng……………………………….47
2.2.1.2. Lời cầu khiến ngược hướng……………………………….…..51
2.2.1.3. Mô hình 5: Lời hỏi nhằm khuyên không nên hành động….…...55
2.2.2. Cấu trúc tham thoại hồi đáp trong ngôn ngữ đối thoại kịch
Lưu Quang Vũ……………………………………………………….…57
2.2.2.1. Tham thoại hồi đáp là một hành động ngôn trung, được cấu
tạo bởi 1 câu (1 phát ngôn)……………………………………………………57
2.2.2.2. Tham thoại hồi đáp là hai hành động ngôn trung, được cấu tạo
từ 2 câu trở lên (lớn hơn 2 phát ngôn)………………….……………………..62
2.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của các kiểu đối thoại……………………………….65
2.3.1. Vận động tương tác của các lượt lời tạo nên tính chất của đối thoại…65
2.3.1.1. Vận động tương tác của các lượt lời làm nên ngôn ngữ kịch
giàu chất chính luận……………………………………………………..65
2.3.1.2. Vận động tương tác của các lượt lời làm nên ngôn ngữ kịch
giàu tính triết lý…………………………………………………………..75
2.3.1.3. Vận động tương tác của các lượt lời làm nên ngôn ngữ kịch với
giọng điệu mềm mại giàu chất thơ, giọng điệu đanh thép khi phê phán, lên án..82
2.3.2. Lập luận trong đối thoại kịch Lưu Quang Vũ………………………...91
2.3.2.1. Lập luận có luận cứ và kết luận đều tường minh……………….92.
2.3.2.2. Lập luận có luận cứ tường minh và kết luận hàm ẩn hoặc kết
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
12
Luận văn tốt nghiệp
luận hàm ẩn - luận cứ tường minh……………………………………………..95
Chương 3: Vai trò ngôn ngữ đối thoại trong việc tạo ra tính mạch lạc của kịch
bản văn học Lưu Quang Vũ……………………………………………… ..100
3.1. Mạch lạc hình thành theo chủ đề …….……………………………… …100
3.1.1. Mạch lạc được thể hiện qua các đối thoại sử dụng phép lặp từ vựng...101
3.1.2. Mạch lạc qua các đối thoại sử dụng phép thế………………………...103
3.1.2.1. Mạch lạc đối thoại với phép thế bằng đại từ hồi chỉ……………103
3.1.2.2. Mạch lạc đối thoại nhờ phép thế đồng nghĩa lâm thời…………. 104
3.1.2.3. Mạch lạc đối thoại nhờ phép thế đại từ xưng hô…………….…..105
3.1.3. Mạch lạc được thể hiện qua các đối thoại sử dụng phép đối………...106
3.1.4. Mạch lạc được thể hiện qua các đối thoại bằng phép tỉnh lược….…..108
3.2. Mạch lạc hình thành theo thời gian trong đối thoại kịch Lưu Quang Vũ...111
3.2.1. Mạch lạc hình thành theo thời gian một chiều…………………….…113
3.2.2. Mạch lạc hình thành theo thời gian đa chiều……………………… . 120
3.2.2.1.Thời gian hai chiều - sự đan cài giữa quá khứ và hiện tại………122
3.2.2.2. Thời gian 3 chiều: Mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương
lai - một bút pháp của nghệ thuật đồng hiện……….………………………....128
Phần kết luận…………………………………………………………………………135
Tư liệu khảo sát..………………………………………………………….….139
Tài liệu tham khảo luận văn…………………………………………..……..140
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
13
Luận văn tốt nghiệp
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lý thuyết về phong cách nghệ thuật
Trong chương này, căn cứ vào đối tượng và mục tiêu của luận văn, chúng
tôi sẽ sử dụng những cơ sở lý luận về phong cách nghệ thuật, lý luận về hội
thoại, lý luận về tính mạch lạc của văn bản.
1.1.1. Đặc điểm ngôn ngữ của phong cách nghệ thuật
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật với những biến thể sử dụng ngôn ngữ
qua các chuỗi câu hay văn bản có chức năng thông báo - thẩm mỹ, tức là vừa
thông tin một nội dung nào đó vừa thoả mãn nhu cầu thưởng thức cái đẹp của
con người bằng chính ngôn ngữ của mình.
Theo tác giả Hữu Đạt "Phong cách nghệ thuật là một phong cách chức
năng được dùng để sáng tạo hình tượng nghệ thuật và tác phẩm nghệ thuật
nhằm phục vụ cho nhu cầu về đời sống tinh thần của con người" [9]
Theo ông ngôn ngữ nghệ thuật có các đặc điểm sau:
1.1.1.1. Chức năng ngôn ngữ
Các đơn vị ngôn ngữ hoạt động với chức năng nổi bật nhất là chức năng
tác động bằng hình tượng. Để thực hiện chức năng này, ngôn ngữ trong phong
cách nghệ thuật tác động theo các hướng sau:
a. Tác động theo hướng giải trí:
Ngôn ngữ là phương tiện dẫn dắt các tình tiết sự kiện và là điểm nút làm
bật ra tiếng cười ở độc giả và khán thính giả. Đó chính là "thể loại hài" tồn tại
dưới nhiều hình thức khác nhau:
- Thơ trào phúng, thơ châm biếm, đả kích, thơ vui.
- Truyện cười, tiếu lâm, truyện vui.
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
14
Luận văn tốt nghiệp
- Hài kịch
- Phim hài
b. Tác động theo hướng nhận thức, giáo dục:
Thông qua các hình thức ngôn ngữ nghệ thuật người ta ngày càng nhận
thức được cuộc sống một cách đầy đủ hơn, ngày càng khám phá ra được các hiện
tượng xã hội và thiên nhiên một cách sâu sắc hơn. Từ đó giáo dục con người
hướng đến "chân, thiện, mỹ" để hành động đúng đắn phù hợp với quy luật thực
tiễn.
c. Tác động theo hướng thẩm mỹ:
Ngôn ngữ nghệ thuật làm thức dậy ở người đọc sự hoà đồng trên cơ sở
những tiềm năng có sẵn hướng về cái đẹp ở cả hai mặt:
+ Mặt nội dung: (cung bậc tình cảm, tâm hồn).
+ Mặt hình thức: (lợi thế của ngôn ngữ trong việc biểu đạt tư tưởng nghệ
thuật như: hình ảnh, nhạc điệu, tiết tấu ...)
1.1.1.2. Đặc điểm về tính hình tƣợng:
Đặc điểm về tính hình tượng là tiêu chuẩn hàng đầu của ngôn ngữ nghệ
thuật. Vì có đặc điểm này mà phong cách nghệ thuật khác biệt với các phong
cách chức năng còn lại. Các đơn vị ngôn ngữ tham gia với tư cách là các tham tố
tạo nên hình tượng nghệ thuật, từ đó đã làm mờ nhạt đi tính bản thể của tín hiệu
ngôn ngữ để tạo nên một loại nghĩa mới ngoài bản thể ("siêu tín hiệu"). Do đó,
việc hiểu nghĩa văn bản phải bằng con đường lý giải quá trình biểu tượng hóa
các tín hiệu qua các thao tác tư duy trừu tượng.
1.1.1.3. Đặc điểm về tính thẩm mỹ
Để khái quát hóa trong quá trình xây dựng hình tượng, nhà văn phải biết
lựa chọn, gọt giũa các phương tiện từ ngữ khi đưa vào tác phẩm. Nhà văn làm
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
15
Luận văn tốt nghiệp
cho ngôn ngữ của đời sống có màu sắc văn hóa thời đại và mang tính thẩm mỹ
nghệ thuật. Thông qua bút pháp miêu tả với những cách nói tượng trưng, so sánh
đã làm nên tính thẩm mỹ của phong cách nghệ thuật.
1.1.1.4. Đặc điểm về tính sinh động và biểu cảm
Tính sinh động và biểu cảm của ngôn ngữ là một trong các thành tố quan
trọng làm nên chất trữ tình ở văn bản nghệ thuật. Việc tạo ra các kiểu kết hợp từ,
các kiểu kết cấu cú pháp mới lạ nhưng không đi chệch khỏi chuẩn mực, các từ
tình thái, các loại câu than gọi, câu hỏi tu từ .... vừa nối liền cảm xúc giữa tác giả
và người đọc, vừa góp phần giúp cho văn bản nghệ thuật đa giọng điệu.
1.1.1.5. Đặc điểm về tính tổng hợp của ngôn ngữ nghệ thuật
Để điển hình hóa nghệ thuật, xây dựng các hình tượng vừa mang tính
khái quát vừa mang tính cụ thể, nghệ sỹ phải dùng ngôn ngữ phù hợp để miêu
tả những diễn biến tâm lý của đối tượng. Đây là lý do làm cho ngôn ngữ nghệ
thuật có tính tổng hợp và đa dạng nhất. Cụ thể là:
a) Sử dụng các phương tiện của tất cả các phong cách khác.
b) Tính đa dạng trong hình thức thể hiện ngôn ngữ:
- Ngôn ngữ tác giả (ngôn ngữ người kể chuyện)
- Ngôn ngữ độc thoại nội tâm
- Ngôn ngữ đối thoại (đặc biệt là kịch)
- Sử dụng nhiều từ ngữ địa phương, tiếng lóng, biệt ngữ, từ nghề nghiệp.
- Vận dụng tất cả các lợi thế về giá trị phong cách của các đơn vị từ ngữ
trên các mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp để phục vụ cho mục đích xây dựng hình
tượng.
1.1.1.6. Đặc điểm về sử dụng từ, ngữ
- Sử dụng nhiều từ láy, từ tượng hình, tượng thanh.
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
16
Luận văn tốt nghiệp
- Có hiện tượng tách từ nhằm cấp nghĩa cho vỏ âm thanh của từ.
- Thường xuyên sử dụng các đơn vị thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ
- Phong cách nghệ thuật hay dùng các câu mở rộng thành phần định ngữ,
trạng ngữ và các kết cấu đảo.
1.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ kịch dƣới ánh sáng của lý thuyết phong cách chức
năng
Trên cơ sở của thực tế hoạt động giao tiếp, tác giả Hữu Đạt đã phân loại
các phong cách chức năng trong tiếng việt theo sơ đồ sau: [ 9, tr.77]
Phong cách ngôn ngữ viết
Tiếng
việt
(Các PC
chức
năng
PC HC
công
vụ
PC
khoa
học
PC khẩu ngữ
tự nhiên
PC
chính
luận
PC
báo
chí
Phong cách
hội thảo
PC văn học nghệ thuật
(sáng tác văn học,
kịch bản văn học)
PC diễn xuất sân
khấu, điện ảnh
Phong cách ngôn ngữ nói
Nhìn vào sơ đồ trên chúng ta thấy tiếng việt bao gồm hai phong cách chức
năng lớn: Phong cách ngôn ngữ nói và phong cách ngôn ngữ viết. Mỗi phong
cách chức năng lại bao gồm trong nó các phong cách chức năng nhỏ hơn. Giữa
các phong cách chức năng như sơ đồ trên có mối quan hệ biện chứng và có khả
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
17
Luận văn tốt nghiệp
năng chuyển hóa lẫn nhau. Chẳng hạn một đối thoại trong khẩu ngữ tự nhiên,
qua bàn tay của người nghệ sỹ có thể trở thành một đối thoại văn học có giá trị
nghệ thuật cao. Ngược lại, một đối thoại văn học ít được gọt giũa hay ít được sự
gia công của nhà văn sẽ trở thành đối thoại của khẩu ngữ tự nhiên.
Đối thoại là đặc trưng đầu tiên mà người ta thường quan tâm chú
trọng của loại hình kịch. Văn bản kịch được viết ra chủ yếu để dàn dựng trên
sân khấu, do đó nó có nhiều đặc điểm gắn liền với khẩu ngữ tự nhiên. Từ phong
cách khẩu ngữ tự nhiên cho đến phong cách sáng tác kịch bản văn học là một
quá trình chuyển hoá chức năng.
Tác giả Nguyễn Lai trong [ 22, tr.131] đã nhấn mạnh: Ở thể loại kịch,
cũng xuất phát từ đặc trưng cơ bản là đối thoại. Cú pháp trong ngôn ngữ kịch là
một thứ cú pháp tỉnh lược cao độ nhưng hoàn toàn rất dễ chấp nhận và dễ hiểu.
Mỗi nhân vật ở đây vốn đã mang một thông tin riêng về ngôn ngữ trong quá
trình diễn biến logíc của vở kịch. Câu nào nhân vật nói ra cũng nằm trong thế
tỉnh lược ở bề mặt. Nhưng người nghe tiếp nhận đầy đủ những cái cần có ở cấu
trúc sâu.
Với loại hình kịch ít khi xuất hiện người kể chuyện mà chỉ có đối thoại
giữa các nhân vật với nhau. Vì được xây dựng trên các lời thoại nên ngôn ngữ
kịch là ngôn ngữ gần với khẩu ngữ nhất.
Kịch nói lấy văn xuôi làm phương tiện chính để chuyển tải các sự kiện,
xây dựng các xung đột. Toàn vở kịch là một chuỗi các hành động và xung đột
liên tiếp từ lúc "mở nút" đến "phát triển cao trào" và cuối cùng là "giải quyết các
mâu thuẫn". Trong đó ngôn ngữ không những có vai trò quan trọng là trực tiếp
tạo ra xung đột mà còn có tác dụng xâu chuỗi các sự kiện, hành động tạo nên
một tác phẩm.
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
18
Luận văn tốt nghiệp
Ngôn ngữ kịch nói ít có tính cách điệu như ngôn ngữ trong ca kịch mà
giàu tính hành động và tính triết lý. Nó là thứ văn xuôi sử dụng nhiều động từ,
nhiều câu mệnh lệnh thức và nhiều câu cảm thán. Mặt khác nó cũng là thứ
ngôn ngữ chứa đựng nhiều yếu tố khẩu ngữ hiện đại, có khả năng tiếp cận
nhanh đến các sự kiện cập nhật của đời sống xã hội. Chính đặc điểm này làm cho
kịch nói thường thành công ở đề tài hiện đại mà ít thành công ở đề tài lịch sử.
[9, tr.298 ]
1.2. Lý thuyết về hội thoại và hội thoại sân khấu
Khi nghiên cứu về một tác phẩm kịch bản thì nhất thiết chúng ta cần đề
cập đến hội thoại sân khấu. Đó là thứ ngôn ngữ hội thoại đã được sáng tạo qua
bàn tay của một kịch tác gia. Nhưng nó vẫn tuân theo những quy tắc chuẩn mực
của hội thoại trong giao tiếp.
Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi chỉ quan tâm đến một số khái niệm
thường gặp khi phân tích hội thoại. Đó là những khái niệm then chốt, là "kim chỉ
nam", là cơ sở để triển khai các chương tiếp theo.
1.2.1. Khái niệm về hội thoại (conversation;collo-quial)
● Tác giả Đỗ Hữu Châu đã khẳng định : "Hội thoại là hình thức giao tiếp
thường xuyên phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt
động ngôn ngữ khác".
● Cũng theo tác giả Đỗ Hữu Châu, Cao Xuân Hạo, hội thoại là:
“Hoạt động giao tiếp bằng lời ở dạng nói giữa các nhân vật giao tiếp nhằm
trao đổi các nội dung miêu tả và liên cá nhân theo đích được đặt ra.
Tuỳ theo các nhân tố giao tiếp hội thoại có nhiều kiểu khác nhau . Tuỳ theo
nhân vật giao tiếp, ta có hội thoại giữa hai người , giữa ba người, bốn người và
nhiều người ; hội thoại mà người nghe hiện diện và vắng mặt ( như : phát thanh
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
19
Luận văn tốt nghiệp
trên đài, trên vô tuyến truyền hình…) [5] Căn cứ vào đề tài có những cuộc hội
thoại phân chia theo phạm vi sinh hoạt , hoạt động của xã hội như giao dịch
(mua bán), [5]. Nội dung và hình thức của ngôn bản khác nhau nhiều hay ít là
tuỳ theo các kiểu hội thoại nói trên”.(Dẫn theo [4] ).
Hai nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán khi đề
cập đến hội thoại cũng nhấn mạnh về các dạng cơ bản của hội thoại: “dạng cơ
bản của hội thoại là song thoại(dialogue) tức là dạng diễn ra giữa hai nhân vật
đối đáp. Tuy nhiên hội thoại có thể có dạng tam thoại (trilogue) (ba nhân vật)
và nói chung là đa thoại (polylogue) (nhiều nhân vật)”. (Dẫn theo [4] ).
Quan niệm của tác giả Nguyễn Thiện Giáp "hội thoại là hành động giao
tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất của con người. Đó là giao tiếp hai chiều có sự
tương tác qua lại giữa người nói và người nghe với sự luân phiên lượt lời" .
Tác giả Đỗ Thị Kim Liên [26] đã định nghĩa về hội thoại như sau: "Hội
thoại là một trong những hoạt động ngôn ngữ thành lời giữa hai hoặc nhiều
nhân vật trực tiếp trong một ngữ cảnh nhất định mà giữa họ có sự tương tác qua
lại về hành vi ngôn ngữ hay hành vi nhận thức nhằm đi đến một đích nhất định".
Như vậy các quan niệm của các tác giả vừa nêu trên đều có mẫu số chung,
đều thống nhất: Hội thoại là hoạt động giao tiếp thường xuyên, phổ biến của con
người. Con người với nhu cầu trao đổi thông tin, ý tưởng, thông điệp của mình
nhằm đạt được những mục đích nhất định khi tham gia hoạt động giao tiếp.
Ngôn ngữ là yếu tố tiên quyết đánh giá hiệu quả giao tiếp hội thoại.
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
20
Luận văn tốt nghiệp
1.2.2. Các khái niệm: cuộc thoại, đoạn thoại, lƣợt lời và cặp thoại
Mỗi cuộc thoại có những chủ đề và đối tượng tham gia giao tiếp khác
nhau vô cùng phong phú, đa dạng như chính cuộc sống không ngừng biến đổi,
nhiều màu sắc của chúng ta vậy. Mặc dù nội dung khác nhau nhưng trong các
cuộc thoại đều ngầm ẩn cấu trúc giống nhau. Trên thế giới có các trường phái
phân tích hội thoại như ở Mĩ (conversation analysis), phân tích diễn ngôn (discourese analysis), và lý thuyết hội thoại ở Pháp và Thuỵ Sĩ (Geneve). Các nhà
nghiên cứu đều cho rằng hội thoại được cấu tạo bởi 3 bậc sau: Cuộc thoại (talk),
đoạn thoại (sequence) và cặp thoại (adjacency). Cuộc thoại là đơn vị lớn nhất của
hội thoại, sau đó là đoạn thoại.Dưới đoạn thoại là các cặp thoại, tham thoại.
a. Cuộc thoại
Cuộc thoại là một lần trao đổi nói chuyện giữa các cá nhân trong hoàn
cảnh xã hội nào đó. Theo C.K.Orcchioni, để có một và chỉ một cuộc thoại điều
kiện cần và đủ là có một nhóm nhân vật có thể thay đổi nhưng không đứt quãng,
trong một khung thời gian - không gian có thể thay đổi nhưng không đứt quãng,
nói về một vấn đề thay đổi nhưng không đứt quãng.[ 4 ] Chẳng hạn như: Cuộc
đàm phán ngoại giao, buổi giảng bài trên lớp về tác giả Nam Cao, buổi thảo luận
về ngữ dụng học…
Cấu trúc của cuộc thoại cũng bao gồm: Mở thoại, thân thoại và kết thoại.
b. Khái niệm đoạn thoại
Cuộc thoại bao giờ cũng có điểm khởi đầu và kết thúc, chúng làm nên
ranh giới của một cuộc thoại. Theo Nguyễn Thiện Giáp trong "Dụng học Việt
ngữ" thì "mỗi cuộc thoại có thể chứa nhiều chủ đề, mỗi chủ đề lại có nhiều vấn
đề. Tập hợp các lượt lời trao đổi về một vấn đề làm thành một đoạn thoại.
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
21
Luận văn tốt nghiệp
Đoạn thoại cũng có cấu trúc như cuộc thoại: mở đoạn thoại, thân đoạn
thoại, kết đoạn thoại.
c. Khái niệm lượt lời và cặp thoại
- Lượt lời: Là đơn vị cơ bản của hội thoại. Đó là một lần nói xong của một
người trong khi những người khác không nói, rồi đến lượt một người tiếp theo
nói. Một lượt lời được xây dựng trên cơ sở những lượt lời trước đó. Sự luân
phiên lượt lời chính là nguyên lý của hội thoại.
- Cặp thoại: Hai lượt lời có liên quan trực tiếp với nhau và đứng kề nhau
làm nên một cặp thoại, chẳng hạn như các cặp thoại tiêu biểu:
+ Chào - chào
+ Trao - nhận
+ Hỏi - đáp
+ Xin lỗi - chấp nhận xin lỗi
+ Yêu cầu - chấp thuận
+ Phê phán - bác bỏ
Hay nói cách khác thì các cặp thoại được tạo nên từ các tham thoại.
Thông thường cặp thoại có cấu trúc là hai tham thoại (dẫn nhập và hồi đáp)
thuộc về hai đối tượng giao tiếp của cuộc thoại tạo nên. Còn cấu tạo của tham
thoại chính là các hành động ngôn từ. Về tổ chức nội tại thì một tham thoại có
thể gồm một hoặc nhiều hành động ngôn từ tạo nên. Nhưng trong đó có một
hành động ngôn ngữ chủ hướng (tức là hành động ngôn ngữ nòng cốt) và một
hay nhiều hành động phụ thuộc. Hành động ngôn ngữ chủ hướng quyết định đến
tham thoại hồi đáp, quyết định bản chất của tham thoại (dẫn nhập) và cả cặp
thoại.
- Như chúng ta đã biết đặc trưng của kịch nói là:
+ tính hành động
+ tính đối thoại
Tính hành động của kịch được bộc lộ ngay khi mỗi lời được nói ra
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
22
Luận văn tốt nghiệp
Tính đối thoại của kịch giữ vai trò quan trọng như thể chất và linh hồn
kịch. Đối thoại kịch bao gồm những lời trao đổi giữa hai hay nhiều nhân vật, kể
cả độc thoại. Nhưng thực chất, độc thoại cũng chính là đối thoại với một nhân
vật vắng mặt hoặc với bản thân mình (phân thân để đối thoại) hay với khán giả
xem kịch.
Đối thoại trong kịch có tác dụng kể chuyện, thông báo các sự kiện, xung
đột, giải quyết các mâu thuẫn xung đột đó. Đối thoại trong kịch như một hồ nước
mênh mông ngầm chứa và hiển hiện những nỗi niềm tâm sự, hạnh phúc và đấu
tranh, ý nghĩa nhân sinh của cuộc sống, quan niệm, tin tưởng của tác giả .... diễn
đạt tính trữ tình, tính bi hùng hay anh hùng ca của tác phẩm kịch.
1.2.3. Các hành vi giao tiếp trong đối thoại
1.2.3.1. Hành vi ngôn ngữ
a. Lý thuyết hành vi ngôn ngữ của Austin
J.L.Austin là người đầu tiên đặt nền tảng cho lý thuyết hành vi ngôn ngữ
với công trình "How to do thing with word" (Hành động như thế nào bằng lời
nói).
Theo Austin, khi thực hiện một phát ngôn là ta thực hiện đồng thời ba
hành động:
- Hành động tạo lời
- Hành động mượn lời
- Hành động ở lời
Trong ba hành động trên, ngôn ngữ học quan tâm nhiều nhất đến hành
động ở lời. Hành động ở lời được Austin phân thành 5 lớp:
1. Phán xử (verditives) là đánh giá về một sự kiện hoặc một giá trị dựa
trên những chứng cớ hoặc lý lẽ xác đáng. Như: coi là, định giá trị, ước lượng ,
trù tính, lên án, bác bỏ…
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
23
Luận văn tốt nghiệp
2. Hành xử (exercitivies) bao gồm những hình thức thể hiện quyền lực (thế
lực) như: chỉ định, miễn trừ, ra lệnh, đặt tên, kết án.
3. Cam kết (commissves) bao gồm những hành vi ràng buộc người nói vào
những trách nhiệm, nghĩa vụ nhất định . Như: hứa hẹn, kí kết, giao kèo, thoả
thuận, thề bồi, cá cược …
4. Trình bày(expositives, bày tỏ) bao gồm những hành vi dùng để trình
bày các quan niệm, dẫn dắt các lập luận ,giải thích từ ngữ, bảo đảm sự qui dẫn.
Như: Khẳng định, phủ định, bác bỏ, trả lời, đưa ví dụ, giải thích, minh hoạ…
5. Ứng xử (Behabitives): gồm những hành vi phản ứng lại những các xử
sự của người khác, những hành vi đáp ứng những sự kiện hữu quan có liên quan
đến thân phận và thái độ của người khác. Như: xin lỗi, cảm ơn, ca ngợi, chúc
mừng, chia buồn, phê phán, ngờ vực, nguyền rủa…Đây là lớp rất rộng, bao gồm
những ứng xử xã hội.
b. Lý thuyết hành vi ngôn ngữ của Searle
Theo Searle để cho việc thực hiện hành vi ở lời đạt hiệu quả đúng với đích
của nó cần phải có bốn điều kiện:
1) Điều kiện nội dung mệnh đề chỉ ra bản chất nội dung của hành vi. Nội
dung của mệnh đề có thể là mệnh đề đơn giản (xác tín, miêu tả) hay một hàm
mệnh đề (đối với các câu hỏi dạng trả lời có/ không), có thể là một hành động
của người nói (hứa, hẹn) hay một hành động của người nghe (yêu cầu, ra lệnh).
2) Điều kiện chuẩn bị bao gồm những hiểu biết của người phát ngôn về
năng lực, lợi ích, ý định của người nghe và về các quan hệ giữa người nói và
người nghe.
3) Điều kiện chân thành chỉ ra các trạng thái tâm lí tương ứng của người
phát ngôn.
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
24
Luận văn tốt nghiệp
4) Điều kiện căn bản là điều kiện liên quan tới trách nhiệm mà người nói
hoặc người nghe bị ràng buộc khi hành vi ở lời được thực hiện.
Bốn điều kiện trên tương ứng với bốn tiêu chí quan trọng nhất trong 12
tiêu chí mà Searle dựa vào để phân loại hành vi ở lời, đó là: Đích ở lời, hướng
khớp ghép lời - hiện thực, trạng thái tâm lí, nội dung mệnh đề. Theo phân loại
của Searle, hành vi ngôn ngữ được phân thành 5 nhóm, gồm:
- Tái hiện (representatives): Đích ở lời là miêu tả lại một sự tình đang
được nói đến, hướng khớp ghép là lời - hiện thực - lời, trạng thái tâm lý là niềm
tin vào điều mình xác tín, nội dung mệnh đề là một mệnh đề.
- Điều khiển (directives): Đích ở lời là đặt người nghe vào sự thực hiện
một hành động trong tương lai, hướng khớp ghép là hiện thực - lời, trạng thái
tâm lí là sự mong muốn của người nói, nội dung mệnh đề là hành động tương lai
của người nghe.
- Cam kết (commissives): Đích ở lời là trách nhiệm phải thực hiện hành
động tương lai mà người nói tự mình ràng buộc vào, hướng khớp ghép là hiện
thực - lời, nội dung mệnh đề là hành động tương lai của người nói.
- Biểu cảm (expressives): Đích ở lời là bày tỏ trạng thái tâm lí phù hợp với
hành vi ở lời, không có tiêu chí thích đáng về hướng khớp ghép, có sự phù hợp
giữa hiện thực và tiền giả định trong hành vi ở lời, trạng thái tâm lý phụ thuộc
vào đích của hành vi bằng lời, nội dung mệnh đề là một tính chất phụ thuộc vào
đích của hành vi bằng lời, nội dung mệnh đề là một tính chất hay một hành vi
nào đó của người nói hay người nghe.
- Tuyên bố (declarations): Đích ở lời nhằm làm cho có một sự thay đổi sau
khi hành vi được thực hiện; hướng khớp ghép vừa là hiện thực - lời lại vừa là
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
25
Luận văn tốt nghiệp
lời - hiện thực; trạng thái tâm lí không có đặc trưng khái quát nhưng có các
yếu tố thể chế làm cho lời của người nói có giá trị, nội dung mệnh đề là một
mệnh đề.
Trong bảng phân loại về các hành vi ngôn ngữ Austin nhận thấy còn
những điều không thoả đáng có chỗ chồng chéo, có chỗ còn mơ hồ. Tuy nhiên
cho đến nay quan niệm của Austin, Searle với lý thuyết về hành vi ngôn ngữ
được giới nghiên cứu xem trọng như kim chỉ nam khi ứng dụng vào lĩnh vực ngữ
dụng học.
1.2.3.2. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp và gián tiếp
Một hành vi ngôn ngữ trực tiếp là hành vi được thực hiện đúng với đích ở
lời, nó được hiểu như một sự: "nói thẳng, công khai, không dấu diếm một điều gì
đó".[ 5, tr.8 ]
Tuy nhiên trong thực tế giao tiếp, khi thực hiện một hành vi ngôn ngữ,
không phải lúc nào ý định của người nói cũng trùng với những điều được nói ra,
mà nhằm nói tới một điều khác, nhằm thực hiện một ý đồ khác. Khi đó, chúng ta
có hành vi ngôn ngữ gián tiếp.
Searle quan niệm về hành vi ngôn ngữ gián tiếp như sau: "một hành vi tại
lời được thực hiện gián tiếp thông qua một hành vi tại lời khác sẽ được gọi là
một hành vi gián tiếp". [dẫn theo 7, tr.60 ]
Theo Yule, "khi nào có một quan hệ gián tiếp giữa một cấu trúc và một
chức năng thì ta có một hành động nói gián tiếp".
Tác giả Đỗ Hữu Châu quan niệm về hành vi gián tiếp rõ ràng hơn: "một
hành vi được sử dụng gián tiếp là một hành vi trong đó người nói thực hiện một
hành vi ở lời này nhưng lại nhằm làm cho người nghe dựa vào những hiểu biết
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
26
Luận văn tốt nghiệp
ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho hai người, suy ra hiệu lực ở lời của một
hành vi khác”.[ 4, tr.146 ]
Ví dụ: 9h tối rồi đấy con ạ!
Phát ngôn trên là một hành vi thông báo, nhưng trong một ngữ cảnh cụ
thể, nó nhằm thực hiện đích nhắc nhở với nội dung yêu cầu con đi ngủ đúng giờ,
tắt ti vi ... Như thế, qua hành vi tường minh thông báo chúng ta có hành vi gián
tiếp nhắc nhở, khuyên bảo.
Nói gián tiếp thực ra là một điều phổ biến trong ứng xử ngôn ngữ. Mọi
người, mọi lúc, mọi nơi đều có thể sử dụng hành vi ngôn ngữ gián tiếp một cách
hết sức tự nhiên. Bởi thực tế cho thấy, với hành vi ngôn ngữ gián tiếp, “người ta
có thể nói được nhiều hơn cái người ta nói ra, hoặc tạo ra những hiệu quả tu từ
phong phú như khôi hài, châm biếm, giận dỗi ... là phương thức che đậy ý đồ cá
nhân, tạo không khí hài hoà cho cuộc giao tiếp”. [5, tr.2]
Để phát hiện ra hiệu lực gián tiếp chúng ta phải dựa vào "những hiểu biết
ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ" như tác giả Đỗ Hữu Châu đã khẳng định.Ngoài
ra cần chú ý đến công tình nghiên cứu về “ Nhận diện hành động ngôn từ gián
tiếp” của tác giả Đào Thanh Lan.[23]
Luận văn đã áp dụng và tiến hành khảo sát các lượt lời cầu khiến gián tiếp
trong kịch Lưu Quang Vũ với quan niệm “ Lời cầu khiến gián tiếp là lời có mục
đích cầu khiến(đích ngôn trung cầu khiến) được tạo ra bằng biểu thức của hành
động ngôn trung khác với cầu khiến như: hỏi, trần thuật hoặc cảm thán trong
ngữ cảnh cấu trúc hạn định cho phép người nghe nhận ra mục đích cầu khiến
thông qua thao tác suy ý ” [23 ]
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
27
Luận văn tốt nghiệp
1.3. Lý thuyết mạch lạc
1.3.1. Khái niệm mạch lạc
Mạch lạc (coherence) là một trong những điều kiện, đặc trưng hàng đầu để
quyết định một chuỗi câu có phải là một văn bản hay không ?
Bản thân khái niệm “mạch lạc” là rất khó xác định đặc biệt là mạch lạc
trong một số loại văn bản (văn bản nghệ thuật).
Mạch lạc là khái niệm mà hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau. “Mạch
lạc” trong tiếng việt có nguồn gốc từ Đông Y với ý nghĩa là mạch máu trong cơ
thể. Tức là mạch lạc trong văn bản có vai trò làm cho các phần của văn bản được
thống nhất lại.
Dưới đây, chúng tôi xin trích dẫn một số định nghĩa tiêu biểu về mạch lạc:
a). M.A.K Halliday và Ruquaiya Hasan
“Mạch lạc được coi như phần còn lại (sau khi trừ liên kết, thuộc về ngữ
cảnh của tình huống (context of situation) với những dấu nghĩa tiềm ẩn (registers). Mạch lạc được coi là phần bổ sung cần thiết cho liên kết, là một trong
những điều kiện tạo thành chất văn bản (texture)” [dẫn theo 37, tr.44-57].
b). D.Togeby
“Mạch lạc (coherence), hiểu một cách chung nhất, là đặc tính của sự tích
hợp văn bản, tức là cái đặc tính bảo đảm cho các yếu tố khác nhau trong một
văn bản kết hợp được với nhau trong một tổng thể gắn kết” [dẫn theo 2].
c). David Nunan
“Mạch lạc là tầm rộng mà ở đó các lời nói được tiếp nhận là có “mắc vào
nhau” chứ không phải là một tập hợp câu hoặc phát ngôn không có liên quan
nhau”. Cách hiểu của Nunan được coi là dung dị và đơn giản nhất.
[dẫn theo 1, tr.58]
Nguyễn Thu Hiền – K52 Ngôn ngữ
28
- Xem thêm -