Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát lập luận trong các văn bản quảng cáo tiếng việt...

Tài liệu Khảo sát lập luận trong các văn bản quảng cáo tiếng việt

.PDF
161
1736
76

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- TRẦN THỊ VŨ OANH KHẢO SÁT LẬP LUẬN TRONG CÁC VĂN BẢN QUẢNG CÁO TIẾNG VIỆT LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Hà Nội - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- TRẦN THỊ VŨ OANH KHẢO SÁT LẬP LUẬN TRONG CÁC VĂN BẢN QUẢNG CÁO TIẾNG VIỆT Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. ĐINH VĂN ĐỨC Hà Nội - 2010 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................... 3 DANH MỤC BẢNG BIỂU........................................................................... 4 PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 5 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 5 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 5 3. Mục đích, ý nghĩa của luận văn .................................................................. 6 5. Phạm vi tư liệu và phạm vi đề tài ............................................................... 7 6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 8 7. Bố cục của luận văn.................................................................................... 8 PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................... 9 CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN ............... 9 1.1. Lý thuyết lập luận .................................................................................... 9 1.2. Các phương thức liên kết ....................................................................... 16 1.3. Khái niệm câu và phân loại câu theo mục đích nói ................................ 21 1.4. Quảng cáo và một số yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến lập luận trong quảng cáo. .......................................................................................... 23 CHƯƠNG 2: CÁC THÀNH PHẦN CỦA MỘT LẬP LUẬN QUẢNG CÁO..... 30 2.1. Đặt vấn đề ............................................................................................. 30 2.2. Miêu tả và bàn luận ............................................................................... 30 2.2.1. Miêu tả ............................................................................................... 30 2.2.1.1. Luận cứ............................................................................................ 30 2.2.1.2. Kết luận ........................................................................................... 38 2.2.2. Bàn luận ............................................................................................. 51 CHƯƠNG 3: CÁC KIỂU CÂU PHÂN LOẠI THEO MỤC ĐÍCH NÓI ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LẬP LUẬN QUẢNG CÁO.......................... 62 3.1. Đặt vấn đề ............................................................................................. 62 1 3.2. Miêu tả và bàn luận. .............................................................................. 62 3.2.1. Miêu tả ............................................................................................... 62 3.2.1.1. Câu tường thuật (câu kể) .................................................................. 62 3.2.1.2. Câu nghi vấn (câu hỏi) ..................................................................... 68 3.2.1.3. Câu mệnh lệnh (câu cầu khiến)..........................................................72 3.2.1.4. Câu cảm thán (câu cảm)................................................................... 75 3.2.2. Bàn luận ............................................................................................. 79 3.3. Tiểu kết ................................................................................................. 88 KẾT LUẬN ................................................................................................. 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 92 PHỤ LỤC.................................................................................................... 94 2 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. LLQC: Lập luận quảng cáo. 2. NQC: Nhà quảng cáo. 3. NTNQC: Người tiếp nhận quảng cáo. 3 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 1. Bảng 2.1: Bảng số liệu về sự hiện diện của luận cứ (tường minh hay hàm ẩn) trong các LLQC. 2. Bảng 2.2: Bảng số liệu về sự hiện diện của kết luận (tường minh hay hàm ẩn) trong các LLQC. 3. Bảng 2.3: Bảng số liệu về số lượng luận cứ được sử dụng trong một LLQC 4. Bảng 2.4: Bảng số liệu về số lượng kết luận được sử dụng trong một LLQC 5. Bảng 2.5: Bảng số liệu về vị trí của luận cứ và kết luận trong một LLQC 6. Bảng 2.6: Bảng số liệu về nội dung của các luận cứ trong LLQC 7. Bảng 2.7: Bảng số liệu về nội dung của các kết luận trong LLQC 8. Bảng 3.1: Bảng số liệu về số quảng cáo có câu tường thuật, câu hỏi, câu cầu khiến và câu cảm thán 9. Bảng 3.2: Bảng số liệu về việc sử dụng các kiểu câu trong một quảng cáo 10. Bảng 3.3: Bảng số liệu về sự xuất hiện của các loại câu ở luận cứ và kết luận của các LLQC. 4 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay với sự phát triển của sản xuất tạo ra một khối lượng hàng hóa khổng lồ, cùng đó là sự phát triển của nền kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất. Trong tình hình đó quảng cáo đã giữ một vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi và lưu thông hàng hóa. Chính vì có vai trò quan trọng như thế mà quảng cáo phải làm sao để tạo ra sức hấp dẫn đối với những NTNQC. Sức hấp dẫn đó không chỉ được tạo ra bởi hình ảnh sống động, âm thanh tuyệt hảo mà còn bởi ngôn ngữ quảng cáo ấn tượng, súc tích. Có như thế mới chinh phục được tình cảm của NTNQC để cho họ lưu tâm chú ý đến sản phẩm và cuối cùng quyết định mua sản phẩm. Vậy làm thế nào mà có được ngôn ngữ quảng cáo hay và ấn tượng như thế. Chắc hẳn đây là một công việc rất khó khăn của những người làm quảng cáo. Họ phải tận dụng hết mọi thủ pháp trong ngôn ngữ, ví dụ như: sử dụng biện pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, chơi chữ,…sử dụng các từ luyến láy để tạo nhạc cho câu chữ….Nhưng như thế có lẽ vẫn chưa đủ để thuyết phục những NTNQC khó tính. Phải làm thế nào để họ tin vào những điều NQC đưa ra và quyết định mua và sử dụng sản phẩm dịch vụ? Đó là công việc của lập luận trong trong quảng cáo. Lập luận từ trước đến nay luôn là vấn đề rất thú vị và có nhiều điều cần bàn bạc. Vậy trong ngôn ngữ quảng cáo nó được thể hiện như thế nào và có tác dụng gì? Đó chính là những lý do cuốn hút tôi nghiên cứu đề tài này. 2. Lịch sử vấn đề Đã có rất nhiều những nghiên cứu về ngôn ngữ quảng cáo cũng như về lý thuyết lập luận của các tác giả tên tuổi trong và ngoài nước mà ta có thể kể tên ra sau đây: Nghiên cứu về lập luận 5 Các tác giả nước ngoài: Perelman, Olbrechts – Tyteca, S.Toulmin, Osawald Ducrot, Jean Claude Anscombre… Các tác giả trong nước: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Giang, Mai Xuân Huy… Nghiên cứu về ngôn ngữ quảng cáo Các tác giả nước ngoài: B. Arens, E. Goffman, K. Tanaka, Weilbacher, Armad Dayan…. Các tác giả trong nước: Trần Đình Vĩnh, Nguyễn Đức Tồn, Bạch Tri Dũng, Mai Xuân Huy, Nguyễn Kiên Trường…. Trên đây mới là tên của một số tác giả ngoài ra còn rất nhiều tác giả khác nghiên cứu về lập luận và quảng cáo. Vấn đề lập luận trong ngôn ngữ quảng cáo cũng được tác giả Mai Xuân Huy nói đến trong cuốn “Ngôn ngữ quảng cáo dưới ánh sáng của lý thuyết giao tiếp”. Ở cuốn sách đó tác giả đã dành chương 4 để nói về vấn đề này với tiêu đề “Lập luận trong diễn ngôn quảng cáo”. Trong đó tác giả có nói đến và bao quát được rất nhiều vấn đề của lập luận quảng cáo. Tuy nhiên đây vẫn là vấn đề thú vị còn nhiều điều phải bàn đến. Vì thế tôi sẽ tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các tác giả trước và phát triển vấn đề này thêm nữa dựa trên tư liệu là những văn bản quảng cáo trên báo thu thập được. 3. Mục đích, ý nghĩa của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Như đã nói trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các tác giả trước, luận văn sẽ phát triển vấn đề “Lập luận trong ngôn ngữ quảng cáo” nhiều hơn nữa. Trong ngôn ngữ quảng cáo lập luận được thể hiện như thế nào thông qua các thành phần của nó. Hình thức thể hiện bằng ngôn ngữ của chúng ra sao? Những điều đó có tác dụng gì và mang lại điều gì cho một quảng cáo? Đó chính là những mục đích mà tôi phải giải quyết trong luận văn này. 6 3.2. Ý nghĩa của luận văn Với việc giải quyết những mục đích như vậy tôi tin rằng luận văn sẽ có những đóng góp tích cực về mặt thực tiễn cũng như về mặt lý luận. Về mặt lý luận: luận văn góp phần làm rõ hơn lý thuyết lập luận qua những biểu hiện cụ thể của nó trong ngôn ngữ quảng cáo, góp phần hiểu rõ hơn ngôn ngữ quảng cáo, đặc biệt dưới góc độ lập luận thì nó hiện lên như thế nào. Về mặt thực tiễn: luận văn sẽ góp phần giải quyết câu hỏi của thực tiễn. Ngôn ngữ có một vai trò rất lớn trong quảng cáo, vậy bằng cách nào có thể tăng cường hiệu lực của ngôn ngữ quảng cáo. Luận văn này sẽ đưa ra những gợi ý tích cực nhằm nâng cao chất lượng của quảng cáo từ góc độ ngôn ngữ học. Điều này sẽ giúp ích cho những NQC muốn sử dụng ngôn ngữ như một công cụ đắc lực cho quảng cáo. 4. Đối tượng nghiên cứu của luận văn. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các văn bản quảng cáo có chứa lập luận quảng cáo. 5. Phạm vi tư liệu và phạm vi đề tài 5.1. Phạm vi đề tài Trong giới hạn của luận văn này tôi không thể nghiên cứu được tất cả các khía cạnh của lập luận trong ngôn ngữ quảng cáo nên tôi chỉ đi sâu khảo sát các thành phần của lập luận quảng cáo cùng sự thể hiện của chúng thông qua các kiểu câu phân loại theo mục đích nói. 5.2. Phạm vi tư liệu Vì thời gian có hạn nên luận văn mới chỉ khảo sát được các văn bản quảng cáo trên báo Tuổi trẻ năm 2010 trong 3 tháng 1, 2, 3 từ số 7 ngày 7/1/2010 cho đến số 81 ngày 30/3/2010. Ở thời điểm làm luận văn, đây là những tư liệu mới nhất trên một tờ báo có uy tín và tên tuổi trong các lĩnh vực và đặc biệt trong quảng cáo. 7 Quảng cáo của tờ báo này đã trở thành chuyên nghiệp được nhiều người quan tâm theo dõi. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Các phương pháp chung Trong luận văn này tôi đã sử dụng các phương pháp cơ bản sau: - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phân tích tổng hợp. - Phương pháp miêu tả ngôn ngữ học. 6.2. Các thao tác cụ thể Thu thập tư liệu: tiến hành ghi chép và copy lại các ngôn bản quảng cáo trên báo Tuổi trẻ năm 2010 trong 3 tháng 1, 2, 3. Quá trình này được tiến hành dựa trên việc loại bỏ các ngôn bản quảng cáo trùng lặp. Xử lý tư liệu: Nhận dạng và phân loại các thành phần, các kiểu câu được sử dụng trong lập luận quảng cáo. Miêu tả: Sau khi xử lý tư liệu tiến hành miêu tả các thành phần, các kiểu câu phân loại theo mục đích nói. Tiếp theo tiến hành thống kê, tính tỉ lệ phần trăm của các thành phần và các kiểu câu được sử dụng trong lập luận quảng cáo. Phân tích, tổng hợp: khi đã có số liệu cụ thể và tỉ lệ phần trăm, tiến hành phân tích số liệu và đưa ra những nhận xét. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn bao gồm 3 chương như sau: Chương 1: Những cơ sở lý thuyết có liên quan Chương 2: Các thành phần của một lập luận quảng cáo Chương 3: Các kiểu câu phân loại theo mục đích nói được thể hiện trong một lập luận quảng cáo. 8 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN 1.1. Lý thuyết lập luận Để bàn về lý thuyết lập luận thì có rất nhiều điều cần nói nhưng dưới đây chúng tôi chỉ chọn lọc ra một số ý chính có liên quan tới đề tài của luận văn để trình bày. 1.1.1. Lịch sử của lý thuyết lập luận Ngay từ thời cổ đại, từ thế kỉ thứ V trước công nguyên, người ta đã chú ý nghiên cứu về lập luận. Có truyền thuyết rằng, vùng đất Sicile vốn do hai bạo chúa thống trị. Họ chiếm đất đai và chia cho binh sĩ của mình. Nhưng vào năm 467 TCN (trước công nguyên) một cuộc nổi dậy đã lật đổ hai bạo chúa này. Nhiều người tuyên bố từng là chủ sở hữu những mảnh đất trước đây bị cướp đoạt thế là có những cuộc kiện cáo liên miên tại tòa. Trong tình hình đó, Corax và học trò của ông là Tisias đã viết một tài liệu về “phương pháp lí lẽ” khi nói trước tòa. Có lẽ, đó là văn bản đầu tiên của nhân loại đề cập tới phương thức lập luận. Buổi đầu, sự lập luận được coi là một lĩnh vực thuộc phạm vi của thuật hùng biện – một “nghệ thuật nói năng”. Nó được trình bày trong Tu từ học (A: Rhetoric) của Aristote. Tiếp sau đó, sự lập luận cũng được trình bày trong các phép suy luận logic, trong thuật ngụy biện hay trong những cuộc nghị luận, tranh cãi ở tòa án. Nửa sau thế kỉ XX, lí thuyết lập luận được quan tâm trở lại. Mở đầu cho thời kì này là “Khảo luận về sự lập luận – Tu từ học mới” của Perelman và Olbrechts – Tyteca (1958) và S. Toulmin (1958). [7, tr. 193 -194] Ngày nay với sự phát triển của ngữ dụng học lập luận cũng được quan tâm hơn. 9 Ngữ dụng học quan tâm đến diễn ngôn, hành vi ngôn ngữ và các nhân tố giao tiếp bao gồm: - Ngữ cảnh bao gồm nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào một cuộc giao tiếp. Vai giao tiếp gồm vai nói (viết), vai nghe (đọc). Quan hệ liên cá nhân là quan hệ so sánh xét trong tương quan xã hội, hiểu biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau. Hiện thực ngoài diễn ngôn là tất cả những yếu tố vật chất, xã hội, văn hóa…có tính cảm tính và những nội dung tinh thần tương ứng không được nói đến trong diễn ngôn của một cuộc giao tiếp được gọi là hiện thực ngoài diễn ngôn. - Ngôn ngữ - Diễn ngôn và chức năng của giao tiếp và các thành tố nội dung của diễn ngôn. Chức năng của giao tiếp đó là các chức năng: thông tin, tạo lập quan hệ, biểu hiện, giải trí, hành động. [4, tr. 13 – 39]. Vì lập luận là một vấn đề của ngữ dụng học nên lập luận cũng liên quan đến những điều vừa nói trên. 1.1.2. Khái niệm lập luận Có nhiều định nghĩa về lập luận của các tác giả khác nhau nhưng nói chung đều thống nhất. Theo Nguyễn Đức Dân [7, tr. 196] Lập luận là một hoạt động ngôn từ. Bằng công cụ ngôn ngữ, người nói đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một hệ thống xác tín nào đó: rút ra một (/một số) kết luận hay chấp nhận một (/một số) kết luận nào đó. Theo Đỗ Hữu Châu [4, tr. 154 - 155] Lập luận là đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói muốn đạt tới. Có thể biểu diễn quan hệ lập luận giữa các phát ngôn (nói đúng hơn là giữa nội dung các phát ngôn) như sau: 10 pr p là lí lẽ, r là kết luận (p, r có thể được biểu đạt bằng các phát ngôn u1, u2….) Trong quan hệ lập luận, lí lẽ được gọi là luận cứ (argument). Vậy có thể nói quan hệ lập luận là quan hệ giữa luận cứ (một hoặc một số) với kết luận. Luận cứ có thể là thông tin miêu tả hay là một định luật, một nguyên lí xử thế nào đấy. Ví dụ: Con mèo này màu đen (p) nên rất dễ sợ (r). p là một thông tin miêu tả. Mệt mỏi thì phải nghỉ ngơi (p) mà cậu thì đã làm việc liền 8 tiếng rồi (q)  cậu phải nghe nhạc một lát (r). Ở ví dụ này, chúng ta có hai luận cứ, p là một nguyên lí sinh hoạt và q là nhận xét về một trạng thái tâm sinh lí. Ở luận văn này chúng tôi sẽ lấy quan điểm của Đỗ Hữu Châu làm chỗ dựa chính. 1.1.3. Vị trí, sự hiện diện của các thành phần trong lập luận Trong một lập luận, kết luận có thể ở vị trí đầu, vị trí giữa hoặc cuối của luận cứ. Ví dụ: Tâm 1: Yêu đương bây giờ nhạt nhẽo. Toàn những chuyện vớ vẩn. Hoa 1: Mày nhạt thì có ý. Yêu cũng hay chớ sao. Tâm 2: Hay hớm gì cái trò ấy. Dở ẹc. Tao thì phải học cái đã. Bao nhiêu chị học giỏi ơi là giỏi, yêu vào là học dốt ngay. Hoa 2: Đấy là mấy bà không có bản lĩnh ấy chứ. Tao quen một chị, chị này mới đầu học cũng bình thường nhưng yêu một anh, anh này học giỏi cực. Thế là hai anh chị giúp nhau cùng tiến. 11 Tâm 3: Nghe cứ như là tiểu thuyết ấy. Làm gì có chuyện ấy. ….. Ở Tâm 1, kết luận: “Yêu đương bây giờ nhạt nhẽo” đứng trước luận cứ: “Toàn chuyện vớ vẩn”. Ở Tâm 2 kết luận “Tao thì phải học cái đã”. ở giữa hai luận cứ “Hay hớm gì cái trò ấy. Dở ẹc.” và “Bao nhiêu chị….yêu vào là học dốt ngay”. Ở Tâm 3 kết luận “Làm gì có chuyện ấy” ở sau luận cứ “Nghe cứ như tiểu thuyết ấy”. Tuy nhiên sau luận cứ là vị trí thường gặp trong lập luận của kết luận. Trong một lập luận, các thành phần luận cứ, kết luận có thể hiện diện tường minh, tức có thể được nói rõ ra. Tuy nhiên không ít những trường hợp trong đó một luận cứ hay kết luận có thể hàm ẩn, người lập luận không nói ra, người nghe tự mình phải suy ra mà biết. Có đoạn đối thoại sau đây: Sp1 (một cô gái): Anh ơi, tối nay mình đi xem ban nhạc “Tam ca áo trắng đi” đi! Sp2 (chàng trai): Đoàn này ở Hà Nội những một tháng kia mà. Vả lại anh trót nhận lời với mấy thằng bạn rồi. Anh không muốn em bị gò bó. Ở lời thoại của Sp2 kết luận từ chối lời rủ của cô gái ở dạng hàm ẩn. Sp2 đã đưa ra hai luận cứ, thứ nhất là “Đoàn này ở lại Hà Nội những một tháng” và thứ hai: “Anh không muốn em bị gò bó”. (vì anh đã nhận lời với mấy thằng bạn). Hai luận cứ này tự mình cũng là hai lập luận “Đoàn này ở lại Hà Nội….” là một lập luận. Điều nghe được là luận cứ, kết luận của luận cứ này “không đi xem hôm nay vì còn thời gian” là một kết luận ẩn. Lập luận thứ hai: “Vả lại anh trót nhận lời ….Anh không muốn em bị gò bó” phức tạp hơn. “Anh trót nhận lời với mấy thằng bạn” là luận cứ. Luận cứ này dẫn tới kết luận hàm ẩn: “Em đi với anh mà có bạn trai thì em sẽ bị gò bó”. Cái kết luận 12 hàm ẩn này đến lượt mình, đóng vai trò luận cứ cho kết luận “Anh không muốn em bị gò bó”. Kết luận chung của lời thoại của Sp2 là do hai luận cứ hàm ẩn mà có và hai luận cứ hàm ẩn này tự thân lại là những kết luận hàm ẩn bộ phận. Người nghe càng phải vất vả, tốn nhiều công sức, càng phải huy động nhiều quy tắc, nhiều nhân tố giao tiếp để tìm ra những thành phần hàm ẩn (những hành vi gián tiếp) của lập luận (như trường hợp phát ngôn “Anh yêu em vì….”) thì lập luận càng hấp dẫn. [4, tr. 155 -159] 1.1.4. Một số những lưu ý khác về lập luận Lập luận là một điều kiện để thuyết phục Có thể nói, lập luận và vận động lập luận là một chiến lược hội thoại nhằm dẫn dắt người nghe, người đọc đến chỗ nắm bắt được cái kết luận mà người lập luận muốn đi tới. Lập luận là một hành vi ở lời có đích thuyết phục. Tuy nhiên không nên đồng nhất thuyết phục và lập luận. Không phải cứ lập luận là thuyết phục được người tiếp nhận. Aristote nói tới ba nhân tố phải đạt được để lời nói của mình thuyết phục được phải có lí lẽ Logos: Nhân tố lí lẽ. Muốn thuyết phục được phải có lí lẽ. Patos: Nhân tố xúc cảm. Có lí chưa đủ để thuyết phục. Lời nói phải gây ra được tình cảm, thiện cảm của người tiếp nhận. Ethos: Nhân tố tính cách, đặc điểm tâm lí, dân tộc, văn hóa của người tiếp nhận. Lời nói chẳng những phải có lí, phải có tình cảm, gây được thiện cảm mà còn phải phù hợp với sở thích, tính cách hoặc truyền thống dân tộc, văn hóa của người tiếp nhận. Khả năng thuyết phục của lời nói, của sự nói năng (kể cả điệu bộ, cử chỉ) của mình tùy thuộc vào chỗ chúng có hội đủ ba nhân tố trên hay không. Lập luận chỉ là một điều kiện để thuyết phục. [4, tr. 164] Bản chất ngữ dụng của lập luận 13 Lập luận đời thường có bản chất ngữ dụng vì nó không bị chi phối bởi các quy tắc, các tiêu chuẩn đánh giá của lập luận logic và giá trị nội dung miêu tả được đưa vào trong các lập luận đời thường không phải ở chỗ các nội dung này đúng hay sai so với thực tế mà là ở giá trị của nó đóng góp vào lập luận với tư cách là những luận cứ của lập luận đời thường. Tam đoạn luận đời thường có đại tiền đề không phải là một chân lí khoa học, khách quan mà là những “lẽ thường”, những kinh nghiệm sống được đúc kết lại dưới dạng nguyên lí cho nên chúng không tất yếu đúng. Ví dụ: “đại tiền đề” “Hàng hóa càng rẻ thì càng nên mua” có thể bị phủ định bởi “đại tiền đề khác” “Của rẻ là của ôi, hàng quá cũ, hàng chất lượng kém thì không nên mua” Vì lẽ thường này có thể trái ngược với lẽ thường kia nên mới có phản lập luận. Kèm theo hiện tượng có phản lập luận là hiện tượng trong một lập luận đời thường có thể dẫn ra hàng loạt luận cứ cùng một kết luận. Ví dụ chúng ta có thể nói: “Chiếc xe này rẻ, chất lượng tốt, đăng kí chính chủ, số biển đăng kí lại đẹp, rất nên mua!”. Giá rẻ, chất lượng còn tốt, đăng kí chính chủ, số đăng kí đẹp là bốn luận cứ cùng dẫn tới kết luận nên mua. Hai đặc tính có phản lập luận và có nhiều luận cứ gộp lại thành tính tranh biện của lập luận đời thường. Lập luận đời thường lại có thể chấp nhận những kết luận có vẻ phi logic. Ví dụ: Sp1: Cơm xong rồi chứ? Sp2: Xong rồi ạ. Chút xíu nữa thôi ạ. Đối với một đầu óc logic “tỉnh táo” chặt chẽ thì phát ngôn của Sp2 có mâu thuẫn nội tại: Đã tuyên bố “Xong rồi” mà lại còn nói “ Chút xíu nữa thôi”. Nhưng trong lập luận đời thường vẫn chấp nhận được bởi các luận cứ không phủ định lẫn nhau. 14 Trong lập luận logic, các luận cứ và kết luận phải được diễn đạt bằng một mệnh đề trần thuyết. Nhưng trong lập luận đời thường không phải như vậy. Bản chất ngữ dụng của lập luận đời thường còn được thể hiện ở giá trị nội dung miêu tả trong lập luận đời thường không phải được đánh giá theo tiêu chí đúng – sai logic. Trong hai phát ngôn: Đã tám giờ rồi. Mới tám giờ thôi. Và hai phát ngôn khác: Khẩn trương lên, chậm rồi. Và Cứ từ từ, không đi đầu mà vội. Về mặt thông tin miêu tả “Đã tám giờ rồi” và “Mới tám giờ thôi” là như nhau (tám giờ). Nhưng cái thông tin miêu tả này trong hai phát ngôn khác nhau về chỉ dẫn lập luận đã và mới nên có hiệu lực lập luận khác nhau. Chúng ta chỉ có thể nói “Đã tám giờ rồi” với kết luận “Khẩn trương lên, chậm rồi” và nói “Mới tám giờ thôi” với kết luận “Cứ từ từ, không đi đâu mà vội” mà không thể làm ngược lại. [4, tr. 165] Lẽ thường cơ sở của lập luận Lẽ thường là những chân lí thông thường có tính kinh nghiệm, không có tính tất yếu, bắt buộc như các tiên đề logic do nhân loại là một thực thể trùm lên mọi dân tộc cho nên có những lẽ thường phổ quát chung cho toàn nhân loại hay một số dân tộc cùng một nền văn hóa. Lại có khá nhiều những lẽ thường riêng cho một quốc gia, thậm chí một địa phương trong một quốc gia. Ví dụ: ở Việt Nam, các địa phương phía Bắc và phía Nam có những tập tục chung nhưng cũng có những tập tục riêng. Các vùng phía Bắc kiêng giết vịt đầu tháng vì cho vịt là xúi quẩy, phải giết gà để cúng. Trái lại các vùng 15 phía Nam đầu tháng lại giết vịt chứ không được giết gà. Từ hai tập tục này chúng ta có hai lẽ thường trái ngược nhau và lập luận: Đầu tháng thế mà nhà X lại giết gà Sẽ là có lí đối với đồng bào phía Nam nhưng sẽ là “ngớ ngẩn” đối với đồng bào phía Bắc. Cái lẽ thường “số biển đăng kí xe máy càng đẹp thì càng nên mua” cũng là một lẽ thường duy nhất ở Việt Nam mới có. Và còn rất nhiều lẽ thường chỉ riêng ở Việt Nam mới có gắn với phong tục tập quán của người dân Việt. [4, tr. 198 - 200] 1.2 Các phương thức liên kết Luận văn này sẽ lấy quan điểm về liên kết của Diệp Quang Ban làm chỗ dựa chính. Theo Diệp Quang Ban [1, tr. 123 – 133] Các phương thức liên kết trong tiếng Việt bao gồm liên kết hình thức và liên kết nội dung. 1.2.1. Liên kết hình thức. Khái niệm liên kết hình thức. Liên kết hình thức là “hệ thống các phương thức liên kết hình thức”, và những cái được liên kết với nhau trong văn bản là các câu (phát ngôn). Các phương thức liên kết Trong hai câu liên kết với nhau có một câu làm chỗ dựa được gọi câu chủ (chủ ngôn) và một câu nối kết với câu chủ được gọi là câu kết (kết ngôn). Hai khái niệm này sẽ đi vào các định nghĩa về các phương thức liên kết (phép liên kết). (1)Phép lặp Lặp là việc dùng lại trong câu kết yếu tố đã có mặt trong câu chủ, để tạo liên kết giữa hai câu. Có ba dạng lặp: lặp từ vựng, lặp ngữ pháp và lặp ngữ âm. Ví dụ: 16 Cơm xong, Minh trở về buồng mình nằm xem báo. Anh chưa đọc hết nửa trang báo thì nghe tiếng gọi ngoài cửa. (Nguyễn Thị Ngọc Tú) Ví dụ vừa dẫn lặp từ vựng “báo”. (2) Phép đối Đối là sử dụng trong câu kết yếu tố trái nghĩa với yếu tố nào đó ở câu chủ đề, để tạo liên kết giữa hai câu. Có 3 kiểu đối: đối bằng từ trái nghĩa, đối bằng dạng phủ định, đối bằng dạng miêu tả, đối bằng từ không trái nghĩa (đối lâm thời). Ví dụ: Nhà thơ gói tâm tình của tác giả trong thơ. Người đọc mở thơ ra, bỗng thấy tâm tình của chính mình. Ví dụ trên đối bằng từ trái nghĩa “gói – mở” (Lưu Quý Kì) (3) Phép thế đồng nghĩa Thế đồng nghĩa là việc sử dụng trong câu kết yếu tố (từ, cụm từ) có cùng nghĩa với yếu tố tương ứng ở câu chủ, để tạo liên kết giữa hai câu. Có các dạng thế đồng nghĩa từ điển, đồng nghĩa phủ định, đồng nghĩa miêu tả, đồng nhĩa lâm thời. Ví dụ: Phụ nữ lại càng cần phải học. Đây là lúc chị em phải cố gắng để kịp nam giới. (Hồ Chí Minh) Ví dụ này có sử dụng phép thế đồng nghĩa từ điển “Phụ nữ - Chị em” (4)Phép liên tưởng 17 Liên tưởng là việc sử dụng trong câu kết yếu tố (từ, cụm từ) có liên quan về nghĩa ở một số ít nét nghĩa chung và không chứa nét nghĩa đối lập với yếu tố tương ứng trong câu chủ để tạo liên kết giữa hai câu. Có liên tưởng đồng chất gồm: liên tưởng bao hàm, liên tưởng đồng loại, liên tưởng định lượng. Và liên tưởng không đồng chất gồm: liên tưởng định vị, liên tưởng định chức, liên tưởng đặc trưng, liên tưởng nhân quả. Ví dụ: Trong nhà có tiếng guốc lẹp kẹp. Cửa từ từ mở. (Nguyễn Quang Sáng) Ở ví dụ này là liên tưởng bao hàm “nhà – cửa” (5) Phép tuyến tính Phép tuyến tính là việc sử dụng trật tự trước sau (trên hình tuyến của các câu có quan hệ nghĩa chặt chẽ với nhau để tạo liên kết giữa chúng. Có phép tuyến tính theo quan hệ giải thích (bổ sung), quan hệ nguyên nhân, quan hệ rộng – hẹp, quan hệ nối tiếp trong thời gian Ví dụ: Nó khụy cẳng. Một củ khoai ở mẹt biến mất. (Nguyễn Công Hoan) Ví dụ trên là phép tuyến tính theo quan hệ nguyên nhân. (6) Phép thế đại từ Thế đại từ là việc sử dụng trong câu kết yếu tố đại từ tính (đại từ, tổ hợp từ có tính chất đại từ) thay thế cho yếu tố tương ứng với nó ở câu chủ, để tạo liên kết. Có thế đại từ hồi chiếu và thế đại từ khứ chiếu. Ví dụ: Tri thức là gì? Tri thức là hiểu biết. (Hồ Chí Minh) 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan