ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRỊNH MINH HẢI
Khảo sát nhóm động từ chỉ hướng vận động
trong tiếng Hán (so sánh với tiếng Việt)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI, 2008
QUY ƯỚC VIẾT TẮT
Chủ ngữ
: CN
Vị ngữ
: VN
Bổ ngữ
: BN
Từ chỉ hướng
: TCH
Từ chỉ hướng đơn
: TCHĐ
Từ chỉ hướng phức
: TCHP
Danh từ chỉ nơi chốn
: DTNC
Động từ
: ĐT
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU -------------------------------------------------------------------------------- 3
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài ------------------------------------------------ 3
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ----------------------------------------------- 4
3. Mục đích và nội dung nghiên cứu ------------------------------------------------ 5
4. Phương pháp nghiên cứu ---------------------------------------------------------- 6
5. Bố cục của luận văn ---------------------------------------------------------------- 7
CHƢƠNG 1: LỊCH SỬ VẤN ĐỀ VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ---------------------------------------------------------------- 8
I. Lịch sử vấn đề ----------------------------------------------------------------------- 8
1. Tình hình nghiên cứu về động từ chỉ hướng trong tiếng Hán --------------- 8
2. Tình hình nghiên cứu về động từ chỉ hướng trong tiếng Việt -------------- 12
3. Động từ chỉ hướng nhìn từ góc độ ngôn ngữ tri nhận ---------------------- 18
CHƢƠNG 2: MIÊU TẢ CÁC ĐỘNG TỪ CHỈ HƢỚNG TIẾNG HÁN
VỚI VAI TRÒ LÀ ĐỘNG TỪ CHÍNH TRONG CÂU -------------------- 23
2.1. Đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng của động từ chỉ hướng ------------------ 23
2.1.1. Nghĩa không gian ------------------------------------------------------------ 24
2.1.2. Nghĩa thời gian --------------------------------------------------------------- 41
2.1.3. Nghĩa trạng thái/kết quả ----------------------------------------------------- 46
2.2. Đặc điểm kết hợp của động từ chỉ hướng ---------------------------------- 50
2.2.1. Kết hợp với danh từ ---------------------------------------------------------- 51
2.2.2. Kết hợp với động từ --------------------------------------------------------- 53
2.2.3. Kết hợp với tính từ ----------------------------------------------------------- 55
2.2.4. Kết hợp với các phương vị từ: zhong, qián, shang, wài… ------------- 56
2.2.5. Kết hợp với trợ động từ ----------------------------------------------------- 57
1
2
2.2.6. Kết hợp với phó từ ---------------------------------------------------------- 57
2.2.7. Kết hợp với trợ từ ------------------------------------------------------------ 58
2.2.8. Hình thức lặp của động từ chỉ hướng ------------------------------------- 59
2.2.9. Động từ chỉ hướng trong các ngữ cố định -------------------------------- 61
2.3. Đặc điểm chức năng ngữ pháp của động từ chỉ hướng ------------------- 65
2.3.1. Là một bộ phận của đoản ngữ ---------------------------------------------- 65
2.2.2. Là thành phần câu ----------------------------------------------------------- 69
2.3.3. Là câu độc lập ---------------------------------------------------------------- 69
CHƢƠNG 3: MIÊU TẢ CÁC ĐỘNG TỪ CHỈ HƢỚNG TIẾNG HÁN
VỚI VAI TRÒ LÀ TỪ PHỤ TRONG CÂU --------------------------------- 72
3.1. Đặc điểm ngữ nghĩa ------------------------------------------------------------ 74
3.1.1. Nghĩa chỉ hướng ------------------------------------------------------------- 75
3.1.2. Nghĩa kết quả ----------------------------------------------------------------- 81
3.1.3. Nghĩa trạng thái -------------------------------------------------------------- 91
3.2. Đặc điểm kết hợp của từ chỉ hướng ----------------------------------------- 99
3.2.1. Kết hợp với danh từ ---------------------------------------------------------- 99
3.2.2. Kết hợp với động từ -------------------------------------------------------- 100
3.2.3. Kết hợp với tính từ ---------------------------------------------------------- 105
3.2.4. Khi xuất hiện trong các ngữ cố định (cụm từ, thành ngữ, tục ngữ) - 105
3.3. Đặc điểm chức năng cú pháp của từ chỉ hướng -------------------------- 107
3.3.1. Làm bổ ngữ ------------------------------------------------------------------ 108
3.3.2. Là trạng ngữ ----------------------------------------------------------------- 111
PHẦN BA: KẾT LUẬN ---------------------------------------------------------- 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO ------------------------------------------------------- 117
PHỤ LỤC --------------------------------------------------------------------------- 123
2
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Có thể nói rằng nhận thức chung về hướng của các dân tộc trên thế giới
cơ bản là giống nhau. Trong ngôn ngữ của các nước đều có các từ chỉ hướng
của bầu trời và trái đất như Đông, Tây, Nam, Bắc, các từ ngữ biểu thị hướng
ở trạng thái tĩnh như: trên, dưới, trong, ngoài … cũng như các hướng di
chuyển chung trong không gian như ra, vào, lên, xuống, … Tuy nhiên, đi vào
những biểu hiện cụ thể liên quan đến các hoạt động di chuyển trong phạm vi
địa lý của mỗi dân tộc và mỗi khu vực, cũng như cách thức biểu thị hướng
cho các hoạt động di chuyển thì giữa các dân tộc lại có những cách nhìn nhận
và phản ánh khác nhau. Những nhân tố về địa lý, lịch sử, xã hội … có những
ảnh hưởng rất lớn và để lại những dấu ấn khá đậm trong cách sử dụng các từ
chỉ hướng của nhiều dân tộc. Tuy nhiên ngoài những tác động khách quan
của xã hội, bản thân các ngôn ngữ đều có những quy luật riêng trong việc tổ
chức các đơn vị để điều chỉnh cấu trúc nội bộ của mình và phản ánh tư duy
về hướng theo kiểu của dân tộc mình. Luận văn của chúng tôi tập trung vào
nghiên cứu việc sử dụng các động từ chuyển động có hướng, các cách thức
biểu hiện ý nghĩa hướng trong tiếng Hán so sánh với tiếng Việt để thấy được
những đặc thù riêng của mỗi dân tộc trong vấn đề này như thế nào.
Để định hướng trong không gian, các ngôn ngữ trên thế giới dùng rất
nhiều phương tiện biểu đạt. Một trong những phương tiện biểu đạt sự định
hướng không gian trong tiếng Hán là động từ chỉ hướng. Đây cũng là nhóm
từ được sử dụng phổ biến trong các ngôn ngữ đặc biệt là trong một số ngôn
ngữ đơn lập không biến hình của khu vực Đông Nam Á như tiếng Việt, tiếng
Thái, tiếng Khmer,... để biểu thị phương hướng của hành động.
3
4
Là một giáo viên dạy ngoại ngữ (dạy tiếng Hán cho người Việt và
tiếng Việt cho người nước ngoài - đặc biệt là người Trung Quốc) tôi thấy các
động từ chỉ hướng này được dùng rất cơ động và xuất hiện với tần số rất cao
(cả trong văn nói lẫn văn viết). Mặt khác, hình thức và ý nghĩa của các cấu
trúc này vô cùng phức tạp, khiến người học gặp rất nhiều khó khăn khi sử
dụng. Trong quá trình giảng dạy tôi nhận ra rằng việc hiểu biết sâu hơn về ý
nghĩa cũng như cách thức sử dụng những động từ thuộc nhóm này một cách
chính xác là rất cần thiết cho sinh viên để họ có thể vận dụng dễ dàng khi nói
cũng như khi viết.
Chính vì những lý do trên mà tôi đã chọn đề tài này làm đề tài luận văn
cao học của mình để có thể nói rõ được đặc điểm cú pháp, ngữ nghĩa của
chúng một cách đầy đủ. Ở một chừng mực nào đó có thể tiến hành so sánh
các vấn đề liên quan của tiếng Hán và tiếng Việt, từ đó có thể phân tích lỗi
dùng sai động từ chỉ hướng của người nước ngoài khi học tiếng Việt.
Ngoài những mục tiêu đó, chúng tôi hy vọng đề tài mình lựa chọn đi
vào những khía cạnh mới và có những đóng góp lý luận thực tiễn ở phạm vi
liên quan nhất là khi tiếng Việt được nhiều người Trung Quốc học và sử dụng
như hiện nay.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Tên đề tài cho thấy chỉ có những động từ có ý nghĩa chỉ hướng của
hành động như 来(lái)-đến,去(qù)-đi, 上(shàng)-lên, 下(xìa)-xuống,
进(jìn)-vào,出(chu)-ra,
回(húi)-về,
过(guò)-qua/sang,
起(qi)-
lên, 开(kai)-ra, 到 (dào)-đến, 上来(shàng lái), 上去(shàng qù),
下来(xià lái), 下去 (xià qù), 进来 (jìn lái), 进去 (jìn qù), 出来 (chu
lái),出去 (chu qù),回来 (húi lái),回去 (húi qù),过来 (guò lái),过去
(guò qù),起来 (qi lái),到…来 (dào .. lái),到…去 (dào .. qù), 来到 (lái
4
5
dào) trong tiếng Hán và các biểu hiện tương đương trong tiếng Việt như: ra,
vào, lên, xuống, sang, qua, về, lại, đi, đến, tới … mới là đối tượng nghiên
cứu. Trong tiếng Việt còn có rất nhiều từ đồng âm với những động từ chỉ
hướng trên nhưng không biểu thị hướng của hành động như “đi” trong ăn
đi..., những từ này không nằm trong phần nghiên cứu của tôi. Với phạm vi
nghiên cứu của luận văn, tôi chỉ xin đề cập đến ý nghĩa gốc và ý nghĩa
chuyển dịch của các động từ này cũng như một số cách dùng cố định đặc thù.
3. Mục đích và nội dung nghiên cứu
Luận văn được thực hiện với mục đích khai thác tìm hiểu những động
từ chỉ hướng vận động, phân tích các mối quan hệ giữa các thành tố của kết
cấu để đi đến nhận xét chung. Từ đó tìm hiểu nghĩa của các động từ chỉ
hướng để thấy được những nét đặc trưng văn hoá, tư duy của người Trung
Quốc. Chúng tôi khai thác triệt để những khía cạnh ngữ nghĩa của động từ chỉ
hướng để sử dụng một cách hiệu quả trong giao tiếp, hiểu đúng và biết cách
dùng chính xác trong văn bản viết cũng như trong giao tiếp tiếng Việt, một
ngôn ngữ đang được nhiều người nước ngoài học và sử dụng.
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi tiến hành thống kê, tập hợp tư
liệu từ hai tác phẩm văn học của hai nhà văn nổi tiếng: AQ chính truyện của
Lỗ Tấn, Tường Lạc Đà của Lão Xá và bản dịch tiếng Việt của hai tác phẩm
này. Đây là hai tác phẩm được nhiều độc giả biết đến, đặc biệt là chúng được
giảng dạy trong các trường học cho người theo học tiếng Hán. Sau khi tập
hợp tạm đủ, chúng tôi sẽ tiến hành phân tích về đặc điểm ngữ nghĩa , đặc
điểm kết hợp và cấu trúc ngữ pháp của nhóm từ này.
Kết cấu, ngữ nghĩa của động từ chỉ hướng trong tiếng Hán và hình thức
tương ứng trong tiếng Việt có nhiều điểm không giống nhau, có những điểm
đan xen với nhau, cho nên khi sử dụng đôi khi người học thấy khó khăn. Mục
đích của đề tài là làm sáng tỏ đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của động từ chỉ
5
6
hướng trong tiếng Hán với các biểu hiện tương đương trong tiếng Việt; tìm
hiểu các nét tương đồng và dị biệt giữa hai ngôn ngữ này đồng thời xem xét
cách chuyển dịch các từ chỉ hướng từ tiếng Hán sang tiếng Việt để vận dụng
vào việc dạy tiếng Trung cho sinh viên Việt Nam. Nắm vững cách dùng động
từ chỉ hướng là một việc rất quan trọng đối với những người làm công việc
giảng dạy ngoại ngữ. Chúng tôi cần phải hiểu rõ những khó khăn mà người
học thường mắc phải, giúp họ tự tin hơn khi gặp phải các trường hợp đặc
biệt.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Từ việc phân tích đặc điểm ngữ nghĩa, đặc điểm kết hợp và chức năng
ngữ pháp của các động từ chỉ hướng, chúng tôi tiến hành so sánh đối chiếu.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng phương pháp thống kê để lấy tư liệu về từ chỉ
hướng trong tiếng Việt từ hai tác phẩm văn học.
Như vậy ngoài các phương pháp luận chung là quy nạp, luận văn đã sử
dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu thường gặp trong ngôn ngữ học
như: phương pháp miêu tả (thao tác phân tích cấu trúc, thao tác phân tích ngữ
nghĩa, thao tác thống kê), so sánh đối chiếu… Cùng với việc quan sát cách sử
dụng từ chỉ hướng trong giao tiếp cũng như trong sách báo hàng ngày, chúng
tôi tập hợp tư liệu chủ yếu từ hai tác phẩm văn học của hai nhà văn nổi tiếng:
AQ chính truyện của Lỗ Tấn, Tường Lạc Đà của Lão Xá và bản dịch tiếng
Việt. Ngoài ra luận văn cũng sử dụng một số tư liệu được lấy từ các giáo
trình, các sách ngữ pháp, từ những công trình nghiên cứu của các tác giả đi
trước ….
Từ hai tác phẩm tiếng Trung và hai bản dịch tiếng Việt nói trên, chúng
tôi đã tiến hành thống kê phân loại ra được 3700 phiếu. Mỗi phiếu là một câu
có chứa ít nhất một động từ chỉ hướng. Trong 3700 phiếu tư liệu, chúng tôi
lấy ra khoảng 330 phiếu điển hình để đưa vào luận văn. Hơn 330 phiếu này là
6
7
330 câu có những đặc điểm mà luận văn đã đề cập đến trong chương hai và
chương ba. Chúng tôi phân loại các câu này thành hai loại lớn như luận văn
đã khảo sát: Động từ chỉ hướng với vai trò là chính tố và phụ tố. Từ hai loại
trên, các động từ chỉ hướng này cũng được chia tiếp thành các loại nhỏ hơn
theo đúng như nội dung luận văn đã tiến hành phân loại khảo sát.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung của luận văn được chia làm
ba chương chính như sau:
Chương 1: Lịch sử vấn đề và cơ sở lý thuyết có liên quan đến đề tài.
Chương 2: Miêu tả các động từ chỉ hướng tiếng Hán với vai trò là động từ
chính trong câu (so sánh với tiếng Việt)
Chương 3: Miêu tả các động từ chỉ hướng tiếng Hán với vai trò là từ phụ
trong câu (so sánh với tiếng Việt)
7
8
CHƢƠNG I: LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
I. Lịch sử vấn đề
Các ngôn ngữ trên thế giới có các phương thức biểu đạt sự định hướng
không gian khác nhau. Trong đó thường được nhắc đến nhiều hơn cả là các
động từ chỉ hướng vận động trong không gian. Động từ chỉ hướng là những
từ biểu thị phương hướng của chuyển động. Thuật ngữ này được giới nghiên
cứu ngôn ngữ học thế giới quan tâm. Nhóm động từ này là một trong những
công cụ từ vựng biểu đạt quan hệ không gian rất hữu hiệu đặc biệt trong tiếng
Hán và tiếng Việt – hai ngôn ngữ có cùng loại hình với nhau.. Trước khi đi
sâu phân tích đặc trưng của hệ thống từ loại này chúng ta sẽ tìm hiểu các
thành tựu nghiên cứu có liên quan của các nhà Hán ngữ học, Việt ngữ học.
1. Tình hình nghiên cứu về động từ chỉ hƣớng trong tiếng Hán
Cho đến nay, hầu như các sách ngữ pháp, sách giáo khoa đều gọi các từ
biểu thị hướng như 来 (lái) - đến,去 (qù) - đi , 上 (shàng) - lên,下
(xìa) - xuống,进 (jìn) - vào, 出 (chu) - ra, 回 (húi) - về, 过
(guò) - qua/sang,
起 (qi) - lên,
开 (kai) - ra, 到 (dào) - đến,
上来 (shànglái),上去 (shàng qù), 下来 (xià lái), 下去 (xià qù), 进来
(jìn lái), 进去 (jìn qù), 出来(chu lái),出去(chu qù),回来(húi
lái),回去 (húi qù),过来 (guò lái),过去 (guò qù),起来 (qi lái),到…来
(dào .. lái),到… 去 (dào .. qù), 来到 (lái dào) trong tiếng Hán là động từ chỉ
hướng, đồng thời coi chúng như một tiểu loại hay một loại phụ của động từ.
Động từ chỉ hướng là một từ loại khá đặc thù trong tiếng Hán vì thế nó gây
được nhiều sự chú ý của các nhà Hán ngữ học. Trong hệ thống từ loại tiếng
Hán từ chỉ hướng là loại động từ có tần số xuất hiện khá cao, ngoài những đặc
điểm cơ bản của động từ, chúng cũng có những cá tính riêng của mình, những
8
9
loại từ này số lượng có hạn. Theo các nghiên cứu của các học giả ngữ pháp
Hán ngữ như Lục Kiệm Minh [39], Lưu Nguyệt Hoa [37] và một số học giả
khác thì động từ chỉ hướng trong tiếng Hán có tổng cộng là 24 từ, đại thể
phân thành các nhóm sau:
- Nhóm 1: 来 (lái), 去 (qù).
- Nhóm 2: 上 (shàng),下 (xìa),进 (jìn),出 (chu),回 (húi),过
(guò),起 (qỉ),开 (kai),到 (dào).
- Nhóm 3: 上来 (shàng lái), 上去 (shàng qù), 下来 (xìa lái), 下去 (xià
qù), 进来 (jin lái), 进去 (jin qù), 出来 (chu lái), 出去 (chu qù), 回来
(húi lái),回去 (húi qù), 过来 (guò lái),过去 (guò qù), 起来 (qi lái).
Theo các nhà Hán ngữ học này thì động từ chỉ hướng trong tiếng Hán
là một loại từ đặc biệt, được sử dụng rộng rãi, ngữ pháp khá phức tạp. Có
động từ chỉ hướng đơn âm tiết như ở nhóm 1, nhóm 2; hoặc song âm tiết như
ở nhóm 3. Nhóm 3 bao gồm các từ được tạo thành từ sự kết hợp của nhóm 1
và nhóm 2.
Khi nghiên cứu về ý nghĩa của bổ ngữ chỉ hướng, rất nhiều học giả đều
nhất trí về ý nghĩa chỉ hướng của động từ chỉ hướng đặt sau động từ chính
làm bổ ngữ. Trong [34], Đinh Thanh Thụ nhấn mạnh: trong các loại hình ý
nghĩa của bổ ngữ, động từ chỉ hướng đảm nhiệm thành phần đứng sau trung
tâm, chỉ phương hướng, bổ sung và nói rõ sự biến hóa của hành vi động tác
hay trạng thái.
Trong nghiên cứu của mình, Lưu Nguyệt Hoa [37] có chỉ ra rằng từ chỉ
hướng trong cấu trúc động bổ có ba ý nghĩa ngữ pháp. Đó là nghĩa không
gian, nghĩa kết quả, và nghĩa trạng thái, đồng thời tác giả cũng đã chỉ ra tiêu
chí về mặt hình thức ngữ pháp để phân biệt loại ý nghĩa này. Một số nhà
nghiên cứu khác đã quy nạp được bảy loại nghĩa của bổ ngữ chỉ hướng và
đặc điểm hình thức ngữ pháp của đoản ngữ chỉ hướng.
9
10
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu miêu tả và giải thích rất tỉ mỉ
cặn kẽ cấu trúc ĐT +TCH. Lã Thúc Tương [36] đã đề cập đến cấu trúc từ chỉ
hướng đi sau động từ, miêu tả cấu trúc này từ phương diện phân bố.
Trong các nghiên cứu về động từ chỉ hướng ở vị trí sau động từ, rất
nhiều học giả nhất trí về ý nghĩa chỉ hướng của động từ nhưng quan điểm về
ý nghĩa ngoài nghĩa chỉ hướng lại rất khác nhau. Những từ nói trên không
phải lúc nào cũng biểu thị nghĩa phương hướng, có lúc nghĩa của chúng
tương đối thực, tự do và linh hoạt, có lúc lại nửa thực nửa hư, kết chặt và
định vị, dường như ở giữa hai loại.
Trần Mạo Lai [44] đã chỉ ra nguyên nhân của hiện tượng này đồng thời
cũng chỉ ra phương pháp nghiên cứu động từ chỉ hướng. Trần Mạo Lai cho
rằng hướng của động từ chỉ hướng ở vị trí này xét về mặt ý nghĩa có ít nhất 3
loại nghĩa: nghĩa phương hướng không gian, nghĩa kết quả và nghĩa động
thái. Lưu Nguyệt Hoa [37] cũng đã chỉ ra tiêu chí về mặt hình thức ngữ pháp
để phân biệt 3 loại ý nghĩa: nghĩa phương hướng, nghĩa kết quả và nghĩa
trạng thái này.
Theo các nhà Hán ngữ học thì nghĩa của động từ chỉ hướng ở vị trí bổ
ngữ là vô cùng phức tạp, ngoài nghĩa cơ bản (nghĩa chỉ hướng) ra, đều là
nghĩa đã bị hư hoá từ nghĩa gốc, thậm chí mức độ chênh lệch khá nhiều, khó
mà nắm vững được. Bên cạnh đó, tiếng Hán thiếu sự biến hoá hình thái, sử
dụng cùng một hình thức để biểu thị ý nghĩa khác nhau, vì thế rất khó lấy tiêu
chuẩn hình thức đơn giản mà có hiệu quả để phân biệt ý nghĩa của những từ
này. Vì vậy, việc xuất hiện các ý kiến khác nhau trong nghiên cứu về ý nghĩa
của động từ chỉ hướng là điều khó tránh khỏi.
Cũng có nhà nghiên cứu đã phân ra động từ chỉ hướng ở vị trí bổ ngữ
có bổ ngữ chỉ hướng đơn và bổ ngữ chỉ hướng phức, trong đó bổ ngữ chỉ
hướng phức ngoài việc là các bổ ngữ chỉ phương hướng ra còn là các bổ ngữ
10
11
chỉ hướng đã chuyển nghĩa. Động từ chỉ hướng ở vị trí này như qỉ lái (起来),
xià lái (下来), xià qù (下去) … cũng có thể dùng sau tính từ.
(1) 阿Q便愈加兴高采烈起来
AQ càng cao hứng tợn
(AQ bian yù jià xìng gao căi liè qỉ lái)
(2) 阿Q忍不下去 (AQ ren bù xià qù)
AQ không tài nào chịu nổi
tình cảnh đấy nữa
Tuy các nghiên cứu của Lã Thúc Tương [36] chủ yếu tập trung giải
quyết các vấn đề có liên quan đến từ chỉ hướng dưới góc độ cấu trúc chức
năng nhưng những công trình khoa học này đã đạt được sự đột phá rất lớn
trong giai đoạn trước những năm 80 của thế kỷ XX..
Đến giai đoạn sau, giai đoạn từ những năm 80 đến nay, dưới ánh sáng
của lý luận ngữ dụng học, ngôn ngữ học tri nhận, giới nghiên cứu Hán ngữ
học bắt đầu chú ý tới đặc trưng ngữ dụng của từ chỉ hướng và mối quan hệ
giữa nhóm từ này với “điểm quy chiếu”, tìm hiểu đặc trưng ngữ dụng và tri
nhận không gian của cấu trúc hướng. Họ đã tìm hiểu đặc điểm hệ thống quy
chiếu không gian trong tiếng Hán. Khái niệm “điểm quy chiếu” đã được đưa
vào các nghiên cứu về động từ chỉ hướng.
Nhiều nhà Hán ngữ học đã có quan điểm rất mới về nghiên cứu nhân
tố qui định vị trí của bổ ngữ chỉ hướng ở vị trí sau động từ chính nhìn từ góc
độ cú pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng.
Các nghiên cứu mang tính ứng dụng có thể kể đến như : Lý Thúc
Giang trong quá trình dạy động từ chỉ hướng cho sinh viên người Mỹ đã quy
nạp lỗi trên 4 phương diện. Ngô Lệ Quân Đẳng phân tích lỗi động từ chỉ
hướng của sinh viên Nhật Bản. Dương Đức Phong đã phát hiện từ một số
sinh viên Hàn Quốc khi dùng câu có động từ chỉ hướng làm bổ ngữ. Các tác
giả này chủ yếu xuất phát từ tình hình sử dụng trong thực tế của các lưu học
sinh nước ngoài tìm hiểu nguyên nhân sử dụng động từ chỉ hướng không
11
12
chính xác, so sánh các động từ chỉ hướng có sự giao thoa về mặt ý nghĩa hoặc
hiện tượng bất cân xứng trong sử dụng các cặp từ chỉ hướng trái nghĩa có tần
số sử dụng cao, từ đó rút ra đặc điểm ý nghĩa, đặc trưng ngữ pháp của các từ
chỉ hướng, những đặc điểm cần chú ý trong dạy và học động từ chỉ hướng.
Trên thực tế các nghiên cứu trên mới chỉ tập trung mô tả đặc trưng cú
pháp, ngữ nghĩa của một số động từ chỉ hướng có tần số sử dụng cao chứ
chưa chỉ ra mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ chỉ hướng trong hệ thống. Các
nghiên cứu theo hướng ứng dụng mới bước đầu tìm hiểu sự khác biệt giữa
một số động từ chỉ hướng tiếng Hán với các động từ chỉ hướng trong các
ngôn ngữ Ấn Âu – những ngôn ngữ không cùng loại hình với tiếng Hán.
Tuy nhiên có thể thấy được nghiên cứu trên đã khẳng định vị trí đặc
thù và quan trọng của động từ chỉ hướng vận động trong hệ thống từ loại
tiếng Hán.
2. Tình hình nghiên cứu về động từ chỉ hƣớng trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt có một nhóm từ được gọi là nhóm từ biểu thị sự dời
chỗ có hướng, gồm : ra, vào, lên, xuống, sang, qua, về, lại, đi, đến, tới …
Những từ này có thể hoạt động độc lập với tư cách là động từ trong các phát
ngôn kiểu : Tôi vào vườn ; Mẹ lên gác ; Mai xuống tầng một … Chúng cũng
có thể kết hợp với các tính từ hay động từ khác làm thành tổ hợp kiểu : Tôi
đi ra vườn ; Nam mang xe vào ; Anh ấy trắng ra …
Từ lâu các nhà Việt ngữ học cũng đã rất quan tâm đến nhóm từ chỉ
hướng trong tiếng Việt. Các công trình nghiên cứu tập trung theo hai hướng :
nhóm từ biểu thị quan hệ không gian trạng thái tĩnh : trước, sau, trên, dưới …
và nhóm từ biểu thị quan hệ không gian trạng thái động : nhóm từ chỉ hướng
vận động – Nguyễn Lai [12]. Nhóm động từ chỉ hướng vận động là những từ
dùng để biểu thị không gian trạng thái động.
12
13
Về các nghiên cứu liên quan đến nhóm từ này, các nhà Việt ngữ học
quan tâm tập trung thảo luận các vấn đề: xác định từ loại (có nhiều quan điểm
khác nhau), mô tả đặc điểm ngữ pháp và chức vụ cú pháp, mô tả đặc điểm
ngữ nghĩa (không gian - Nguyễn Minh Thuyết, thời gian - Nguyễn Kim
Thản), và tâm lý (Nguyễn Lai) và tiếp cận một số nhóm động từ chỉ hướng từ
góc độ tri nhận và ngữ dụng. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu
biểu của Nguyễn Lai, Đinh Văn Đức, Nguyễn Anh Quế, Nguyễn Đức Dân,
Nguyễn Kim Thản, Lý Toàn Thắng, Nguyễn Thị Quy…
Trong [6] Đinh Văn Đức có chỉ ra rằng trong tiếng Việt, các động từ
với ý nghĩa chuyển động có số lượng khá phong phú. Ngoài các động từ chỉ
các dạng khác nhau của chuyển động như đi, chạy, bay, bò, leo, trượt, lướt …
còn có một nhóm các động từ chuyển động có ngữ nghĩa khá đặc biệt. Đó là
các động từ chuyển động bao hàm hướng chuyển động như ra, vào, lên,
xuống, sang, qua, lại, tới, đến, về … Ví dụ : Tôi đi Hà Nội ; Nó lên tầng hai ;
Tôi về nhà … Các động từ thuộc nhóm này có đầy đủ chức năng của động từ.
Nhưng chính ngay những từ này trong nhiều trường hợp khác đã không còn
là động từ chuyển động nữa : chúng trở thành từ phụ chỉ hướng của động từ tức làm thành tố phụ cho trung tâm động ngữ : chạy ra, nhìn vào, đi lên, kéo
về …, hoặc trở thành từ nối (có tính chất của một giới từ). Ví dụ : nghĩ đến,
nói về, nhớ ra, bàn tới, … Tác giả có chỉ ra rằng ở phần cuối động ngữ : các
từ phụ với ý nghĩa chung chỉ hướng : ra, vào, … khi đứng sau động từ có đặc
điểm ngữ pháp khá đa dạng, ví dụ từ “ đến” đóng vai trò một từ phụ chỉ
hướng (bò đến, đi đến ..) hoặc chỉ kết quả (nói đến, nghĩ đến …). Khi “đến”
đứng sau động từ nhưng tiếp theo đó là một danh từ (ĐT + đến +DT) thì
“đến” giống như một giới từ. Các từ phụ chỉ hướng khác cũng có một tình
hình chung trên đại thể như vậy nhưng đi vào cụ thể từng từ thì đặc điểm ngữ
pháp cũng mang những sắc thái khác nhau.
13
14
Nguyễn Kim Thản [11] nhận thấy, những động từ này quả là rất giống
những động từ có ý nghĩa trừu tượng như làm lụng, yêu thương .. Nhưng
đứng về mặt cấu tạo, chúng có những đặc điểm khác. Chúng là những từ biểu
thị vận động có phương hướng xác định hay nói cách khác, tự thân nó đã bao
hàm ý nghĩa về phương hướng rồi. Ông gọi những từ này là động từ phương
hướng vận động khi chúng đảm nhận chức năng động từ chính và gọi là trợ
động từ khi chúng ở vị trí sau động từ. Cũng như một số tác giả khác,
Nguyễn Kim Thản cũng đã giải thích được sắc thái ý nghĩa một số từ chỉ
hướng bằng nguyên nhân lịch sử xã hội của dân tộc Việt Nam. Ông cũng
nhấn mạnh rằng những từ này khi đặt sau động từ khác thì mất đi đặc điểm
cơ bản về hình thức ngữ pháp của động từ, đã giảm sút ý nghĩa từ vựng ban
đầu, thậm chí mất hẳn nghĩa.
N.S.Bystrov [19] gọi những động từ trong nhóm này là động từ
phương hướng chuyển động và trợ động từ. Các nghiên cứu của Bystrov tập
trung vào các thành phần đi sau động từ chỉ hướng và vị trí của các thành
phần này trong đoản ngữ chỉ hướng. Ngoài ra, tác giả còn đề xuất hướng
phân loại thành nhóm nhỏ những động từ có thể kết hợp với động từ chỉ
hướng. Tương tự như Bystrov, Dương Thanh Bình cũng có những nghiên
cứu tương tự liên quan đến các từ loại đứng sau động từ chỉ hướng.
Trong các nghiên cứu của mình, Nguyễn Tài Cẩn [17] có cái nhìn từ
góc độ quan hệ từ, qua đó nêu lên khá đầy đủ tính chất phức tạp của từ chỉ
hướng ở vị trí này. Quan điểm này của ông cũng được nhiều học giả ủng hộ.
Cũng như Phan Ngọc, L.Cadiere [8] chú ý đến khả năng kết hợp với
danh từ phía sau các động từ chỉ hướng, ông không gọi những động từ chỉ
hướng là từ trống, ông đã chứng minh rằng có những trường hợp ở vị trí ấy
nhưng động từ chỉ hướng hoàn toàn không hư, không trống hay không hao
mòn nghĩa. Ngoài ra, ông còn dùng phương thức xen yếu tố phủ định vào
14
15
giữa động từ chính và từ chỉ hướng sau động từ chính để xét mối quan hệ
giữa hai yếu tố về mặt nghĩa.
Nguyễn Thị Quy [16] đã liệt các động từ chỉ hướng vận động vào một
trong những loại vị từ thông dụng nhất trong tiếng Việt. Tác giả đã sử dụng
phương pháp ngữ pháp chức năng để giải thích đặc trưng ngữ nghĩa và cấu
trúc ngữ pháp của các từ chỉ hướng.
Từ chỉ hướng ra đời là kết quả của quá trình nhận thức về những trạng
thái vận động di chuyển; trong đó đích không gian mà chủ thể di động đang
hướng tới, luôn luôn nằm trong thế đối ứng với điểm xuất phát. Ở đây cần
nhấn mạnh rằng, nếu chủ thể vận động không có ý niệm về mối tương quan
kích thước không gian (cao-thấp, trên-dưới, rộng-hẹp, trong-ngoài) thì thiếu
tiền đề làm định hình ý niệm “lên, xuống, ra, vào” và ngược lại nếu chỉ ý
thức được sự đối ứng kích thước không gian mà không ý thức được trạng thái
vận động di chuyển thì cũng thiếu tiền đề cho ra, vào, lên, xuống .. định hình.
Trong tiếng Việt và những ngôn ngữ có cùng loại hình như tiếng Hán,
ý niệm hướng vận động trên được định hình gắn liền với dấu hiệu hình thái
hoàn chỉnh. Nó có thể dùng tương tự yếu tố phụ gia, đồng thời vừa được
dùng độc lập, với vai trò hạt nhân, trong các kết cấu biểu hiện sự vận động
không gian (ví dụ “vào” trong “nó vào nhà” và “vào” trong “nó chạy vào”).
Có mối tương quan chặt chẽ giữa các phạm trù chuyển động – hướng –
đích. Ba yếu tố này không tồn tại tự thân hoặc tách rời; trái lại, chúng liên
quan đến nhau mật thiết và gắn chặt với hoạt động thực tiễn của con người,
nhất là trong hoạt động không gian. Và đặc biệt khi có đích thì hầu như phạm
trù hướng trở thành một phạm trù trung gian không thể thiếu.
Nguyễn Lai [12] chỉ ra rằng: “Từ chỉ hướng hình thành từ tiền đề nhận
thức về tính đối ứng của quá trình vận động, thông qua sự so sánh tương đối
của nhân tố chủ quan. Phẩm chất chủ quan giàu tiềm năng bộc lộ yếu tố tâm
15
16
lý này đã tạo ra tính cơ động cho quá trình chuyển hóa nghĩa giữa các phạm
trù đối với chủ thể sáng tạo ngôn ngữ. Chính đặc điểm bao quát gắn với chiều
sâu của tiền đề nhận thức vừa nêu, là cơ sở tạo cho nhóm từ này nhiều sắc
thái tinh tế trong quá trình phát triển và chuyển hóa nghĩa. Trên bình diện
đồng đại, ta có thể quy thành ba hướng đối ứng thuộc ba phạm trù nghĩa có
phẩm chất khác nhau: phạm trù không gian, phạm trù thời gian và phạm trù
tâm lý. Ví dụ: nó chạy ra đường (di chuyển từ không gian hẹp đến rộng thuộc
phạm trù không gian); Nó tìm ra đáp số (thông báo kết quả gắn với phạm trù
thời gian); Nó đẹp ra (bình phẩm theo sắc thái tâm lý). ”
Như vậy, không có một dạng chuyển hóa nào đưa đến hiện tượng mất
nghĩa để một từ nào đó trở thành “hư” và “trống” như một số tác giả quan
niệm. Mà thực chất ở đây là vấn đề chuyển hóa nghĩa, từ nghĩa gốc (không
gian – với từ chỉ hướng vận động) sang những sắc thái khác. Và sự biến động
về mặt từ vựng ngữ nghĩa luôn lấy quá trình phát triển nhận thức làm tiền đề
này có liên quan trực tiếp đến các cấp độ tự điều chỉnh của bản thân ngôn
ngữ, nhưng không phải với hệ thống đóng kín mà là với hệ thống mở trong sự
vận động giữa chức năng và hình thái.
Nguyễn Lai [12] đã khẳng định, tùy từng động từ chính khác nhau mà
hướng của hoạt động bị trừu tượng hóa dần, (mang về - nói về - nghĩ về). Qua
quá trình phân tích, ngược lại với những người đi trước, tác giả đặt vấn đề:
phải chăng từ chỉ hướng ngoài phạm vi động từ (X) mới là nguồn gốc của X
khi hoạt động độc lập ở dạng động từ. Khi tìm hiểu khả năng kết hợp của các
từ X với nhau, Nguyễn Lai đã dựa vào tiêu chí “hướng” của chuyển động để
phân nhóm từ này thành các nhóm nhỏ.
Còn với các tổ hợp mang tính chất cố định tương đối rõ như: Ít ra, thật
ra, thành ra, đúng ra, nói lên, nêu lên … Vũ Thế Thạch [27] cho rằng các
động từ chỉ hướng như ra, lên … trong tổ hợp này bị hư hóa đến mức khó có
thể nhận ra nghĩa của chúng trong tổ hợp. Tác giả thấy rõ nghĩa của các từ chỉ
16
17
hướng được khái quát hóa, trừu tượng hóa tùy thuộc vào đặc điểm ngữ nghĩa
của động từ chính trước nó. Sự trừu tượng hóa nghĩa của nó có thể dẫn tới sự
biến đổi nghĩa của chúng thậm chí còn dẫn đến sự chuyển hóa từ loại của
chúng, song cấu trúc nghĩa của chúng vẫn không thay đổi.
Có thể thấy việc xác định đặc điểm ngữ nghĩa của các từ chỉ hướng
trong tiếng Việt không hề đơn giản. Ví dụ: nó chạy ra đường và nó chạy ra
tiền .. Các nhà ngôn ngữ học gọi đây là hiện tượng chuyển di từ loại. Đó là
hiện tượng một từ khi thì được dùng với ý nghĩa này, khi thì được dùng với ý
nghĩa khác (Diệp Quang Ban [1]). Đây là hiện tượng phổ biến trong nhiều
ngôn ngữ.
Ở người Việt, bên cạnh cách định vị khách quan, còn phổ biển cách
định vị có tính chủ quan (dựa vào mối quan hệ không gian giữa đối tượng
định vị và bản thân người nói hoặc người nghe)… Chính cách thức chủ quan
này đã định ra tập quán sử dụng những kết cấu như: trên trời, dưới đất, trên
bến, dưới thuyền, vào Nam ra Bắc, trong nhà, ngoài sân, trong bụng, ngoài
mặt … Theo Dương Kỳ Đức, ở người Việt đã hình thành một động hình văn
hóa nhạy cảm với sự cao thấp trong không gian là môi trường sống của cộng
đồng. Giáo sư thừa nhận rằng mọi dân tộc người đều có thể nhận ra sự khác
biệt “cao”, “thấp” đó, sự khác nhau là ở chỗ chúng được phản ánh vào ngôn
ngữ như thế nào. Như vậy tuy cách nhìn nhận của Nguyễn Lai và Dương Kỳ
Đức theo hai hướng khác nhau - di chuyển từ rộng đến hẹp, nguyên lý
“trong”, “ngoài”nhưng điều chung nhất mà các tác giả có thể nêu ra là cách
chia cắt không gian của người Việt khác xa đối với người Mỹ và Anh. Lý do
khác biệt bắt nguồn từ điều kiện sống và vốn sống, tất nhiên phải kể đến cách
tri nhận không gian và thời gian và cả phương thức tư duy đã hằn sâu trong
tâm thức của các thành viên trong những cộng đồng này. Nói một cách khác,
cội nguồn của sự khác biệt chính là những không gian tương đồng trong các
nền văn hóa.
17
18
3. Động từ chỉ hƣớng nhìn từ góc độ ngôn ngữ tri nhận
Ngôn ngữ học tri nhận là một trào lưu mới mẻ còn rất non trẻ và đang
rất thịnh hành của ngôn ngữ học hiện đại trên phạm vi thế giới. Ngôn ngữ
học tri nhận là một trường phái mới của ngôn ngữ học hiện đại, tiến hành
nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự cảm thụ của con
người về thế giới khách quan cũng như cách thức mà con người tri giác và ý
niệm hóa các sự vật và sự tình của thế giới khách quan đó. (Lý Toàn Thắng
[7])
Trong ngữ nghĩa của mỗi ngôn ngữ đều có phản ánh một cách hình
dung về thực tại khách quan của cộng đồng văn hóa – bản ngữ đó, thường gọi
là “bức tranh thế giới”. Những mô hình đó ngoài cái chung, cái phổ quát còn
có cái riêng cái đặc thù, ứng với từng ngôn ngữ và phản ánh một cách tri
giác, một cách nhận thức về thế giới của dân tộc ấy.
Trong nhiều công trình nghiên cứu về tri nhận không gian trong tiếng
Hán và tiếng Việt, các học giả đã đặt ngôn ngữ trong mối quan hệ chặt chẽ
với con người và thế giới của nó. Các tác giả đã tập trung đi sâu vào sự tri
nhận không gian của con người như : nguyên tắc lấy con người làm trung
tâm, khảo sát những đặc trưng bản sắc dân tộc của mô hình thế giới trên ngữ
liệu về cách tri nhận không gian của cộng đồng bản ngữ.
Đây là cơ sở để chúng ta tìm hiểu sự khác biệt về tri nhận không gian
hoặc nói một cách cụ thể hơn là sự lựa chọn chiến lược định vị định hướng
không gian của người Hán và người Việt.
Về chức năng ngữ pháp và chức năng biểu đạt cơ bản của những từ
này, nhiều nhà nghiên cứu đi trước đã miêu tả tương đối khái quát tường tận
Các động từ chỉ hướng ngoài việc có thể biểu đạt phương hướng cụ thể của
hành động còn có thể biểu đạt mối quan hệ về thời gian, vì nhận thức của con
18
- Xem thêm -