ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------
VƯƠNG THÚY VÂN
KHẢO SÁT THUẬT NGỮ CÔNG NGHỆ DỆT MAY
TRONG TIẾNG ANH
(Có so sánh với tiếng Việt)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số
: 60 22 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.HOÀNG ANH THI
Hà Nội – 2012
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ..................................................................................... 1
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU .............................................................................. 2
3. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ....................................................................................................... 2
4. TỪ ĐIỂN ĐƯỢC DÙNG LÀM TƯ LIỆU........................................................3
5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN .............................................................................. 4
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẬT NGỮ DỆT MAY ..................... 5
1.1. Khái niệm thuật ngữ ..................................................................................... 5
1.1.1. Những quan niệm về thuật ngữ trên thế giới ............................................... 5
1.1.2. Quan niệm về thuật ngữ trong tiếng Việt ..................................................... 8
1.1.3. Đặc điểm chung của thuật ngữ và những yêu cầu khi xây dựng thuật ngữ........ 10
1.2. Khái niệm về thuật ngữ dệt may................................................................ 15
1.2.1. Quan niệm về ngành dệt may ..................................................................... 15
1.2.2. Quan niệm chung về thuật ngữ dệt may ..................................................... 15
TIỂU KẾT........................................................................................................... 17
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA HỆ THUẬT NGỮ DỆT MAY
TIẾNG ANH ....................................................................................................... 18
2.1. Phân loại thuật ngữ dệt may theo phƣơng thức cấu tạo ……………....19
2.1.1. Thuật ngữ dệt may có cấu tạo là từ đơn (single terms) ......................... …19
2.1.2. Thuật ngữ dệt may xuất hiện dưói dạng từ ghép (compound terms) ........ 30
2.1.3. Thuật ngữ dệt may xuất hiện dưới dạng cụm từ (collocation terms) ......... 32
2.2. Khảo sát nguồn gốc của thuật ngữ dệt may tiếng Anh ............................ 44
2.2.1. Thuật ngữ dệt may có nguồn gốc bản địa .................................................. 45
2.2.2. Thuật ngữ dệt may có nguồn gốc ngoại lai................................................ 45
2.2.3. Nguồn gốc của phụ tố cấu tạo thuật ngữ dệt may tiếng Anh .................... 46
TIỂU KẾT .......................................................................................................... 51
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA THUẬT NGỮ DỆT MAY VÀ
MỘT SỐ ỨNG DỤNG TRONG CHUYỂN DỊCH VÀ GIẢNG DẠY ........................ 52
3.1. Một số vấn đề về định danh ........................................................................ 52
3.1.1. Khái niệm định danh .................................................................................. 52
3.1.2. Đơn vị định danh ........................................................................................ 53
3.2. Đặc điểm định danh của thuật ngữ dệt may tiếng Anh ........................... 53
3.3. Vài nét so sánh thuật ngữ dệt may tiếng Anh với tiếng Việt và việc
chuyển dịch Anh Việt, Việt Anh ....................................................................... 55
3.3.1. Vài nét khái quát về cấu trúc thuật ngữ dệt may tiếng Việt ....................... 55
3.3.2. Về nguồn gốc .............................................................................................. 59
3.4. Một số tƣơng đồng và khác biệt trong thuật ngữ dệt may tiếng Anh và
tiếng Việt ............................................................................................................. 61
3.4.1. Những tương đồng ....................................................................................... 61
3.4.2. Những khác biệt ........................................................................................ 62
3.5. Một số ứng dụng chuyển dịch thuật ngữ dệt may Anh - Việt, Việt - Anh và
phƣơng pháp giảng dạy thuật ngữ dệt may tiếng Anh cho sinh viên Việt Nam...... 64
3.5.1. Vấn đề dịch thuật và việc chuyển dịch thuật ngữ dệt may từ tiếng Anh sang
tiếng Việt .............................................................................................................. 64
3.5.2. Chuyển dịch thuật ngữ dệt may từ tiếng Việt sang tiếng Anh .................... 70
3.5.3. Một số ứng dụng giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành dệt may cho sinh viên
Việt Nam ............................................................................................................... 71
TIỂU KẾT........................................................................................................... 77
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 81
PHỤ LỤC
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hòa chung với xu hướng toàn cầ u hoá , khu vực hoá của nề n kinh tế thế
giới hiê ̣n nay, Viê ̣t Nam ngày càng chú tr ọng phát triể n nh ững quan hê ̣ giao
lưu, hô ̣i nhâ ̣p kinh tế với các nước trên th ế giới. Cũng nhờ sự phát triển này
mà khoa ho ̣c nước ta đã đa ̣t nhiề u thành tựu to lớn
hơ ̣p tác giao l ưu và ho ̣c tâ ̣p kinh nghiê ̣m văn hoá
. Trong sự phát triể n đó ,
, khoa ho ̣c kỹ thuâ ̣t nước
ngoài đóng góp một phần đáng kể . Những yêu cầ u này chiń h là đô ̣ng lực thúc
đẩ y các cơ quan , viê ̣n, trường và nhóm hoă ̣c cá nhân biên soa ̣n từ điể n , dịch
và nghiên cứ u tài liê ̣u, sách báo bằng tiếng nước ngoài đặc biệt là tiếng Anh .
Trong việc giao lưu học hỏi khoa học kĩ thuật hiện đại, thuâ ̣t ngữ là lĩnh
vực từ vựng hết sức quan trọng. Nói riêng về ngành dệt may thì có một thực
tế là dệt may là một trong những ngành công nghiệp quan trọng nhất ở Việt
Nam, nhưng hệ thống thuật ngữ của ngành dê ̣t may thì chưa hoàn thi ện. Đó là
lĩnh vực còn nhiều khó khăn c ả trong lí thuyết và ứng dụng, vì nhiều thuật
ngữ ti ếng Anh không có tương đương trong tiế ng Vi
ệt, và ngược lại. Trong
khi đó , xã hội hiện đại ngày càng xuất hiện những thuật ngữ mới
, khó tìm
thấ y tương đương hoă ̣c chỉ có tương đương nghiã chứ không phải là thuâ ̣t
ngữ . Trên thực tế, những nghiên cứu về thuật ngữ công nghệ dệt may ở Việt
Nam chưa đáp ứng được nhu cầu học tập, nghiên cứu: chưa có cuốn từ điển
hay một công trình nghiên cứu thuật ngữ công nghệ dệt may. Thậm chí, tài
liệu tiếng Anh chuyên ngành làm cơ sở cho việc giảng dạy, học tập và nghiên
cứu một cách bài bản cũng chưa có. Tuy nhiên, sinh viên và những người làm
về công nghệ dệt may ở Việt Nam lại không thể hiểu hời hợt hay chấp nhận
bỏ qua các thuật ngữ này mỗi khi gặp phải. Chính vì vậy, để giảm bớt khó
khăn cho những sinh viên , và những người quan tâm tớ i công nghê ̣ dê ̣t may ,
sự ra đời của mô ̣t cuố n s ổ tay thuâ ̣t ngữ d ệt may hay mô ̣t cuố n từ điể n thu ật
ngữ dê ̣t may vào lúc này là h ết sức cầ n thiế t . Nhận thức được vai trò của thuật
1
ngữ ngành dệt may trong việc giảng dạy và học tập tiếng Anh, của sinh viên
chuyên ngành dệt may nói riêng và việc dịch thuật tài liệu chuyên ngành
(Anh-Việt, Việt-Anh) nói chung, chúng tôi lựa chọn thuật ngữ dệt may làm
đối tượng khảo sát, mong muốn nghiên cứu của mình có thể đóng góp một
phần cho nguồn tài liệu thiết thực bổ sung cho việc học tập, nghiên cứu và
ứng dụng trong ngành công nghệ dệt may ở Việt Nam.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hê ̣ thuâ ̣t ngữ này , trước hết, chúng tôi nhằ m nêu ra những
đặc trưng cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ dệt may tiếng Anh và tình hình
chuyển dịch Anh - Việt, Việt - Anh, trên cơ sở đó đề xuất ý kiến góp phần
phục vụ việc biên soạn giáo trình tiếng Anh chuyên ngành cho sinh viên
trường Đa ̣i ho ̣c Công nghiê ̣p Hà Nô ̣i và các trường có liên quan đế n
công
nghê ̣ dê ̣t may . Xa hơn nữa , sau này , khi có điề u kiê ̣n có thể tiế n tới làm từ
điể n để phu ̣c vu ̣ mu ̣c đích ho ̣c tâ ̣p của sinh viên ngành công nghê ̣ d ệt may.
Qua luận văn, chúng tôi mong muốn đóng góp vào thư viện khoa học
của ngành ngôn ngữ học một tài liệu học tập và nghiên cứu, giúp sinh viên và
những người quan tâm có thể hiểu sâu sắc hơn về các thuật ngữ trong các
giáo trình, hướng dẫn bằng tiếng Anh của ngành dệt may.
3. ĐỐI TƢỢNG, NHIỆM VỤ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG
PHÁP NGHIÊN CƢ́U
A. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu ban đầu của luận văn là các thuật ngữ công nghệ
dệt may trong tiếng Anh. Đó là những thuật ngữ biểu đạt các khái niệm được
sử dụng trong lĩnh vực công nghệ dệt may. Tuy nhiên, do thời gian và khuôn
khổ hạn hẹp của một luận văn thạc sĩ chưa cho phép thực hiện toàn bộ thuật
ngữ của công nghệ dệt may, chúng tôi tạm thời chỉ khảo sát thuật ngữ của
ngành dệt may. Những gì chưa được khảo sát trong luận văn này sẽ là đối
tượng khảo sát trong tương lai của chúng tôi.
2
B. Phạm vi nghiên cứu
Qui trình chính trong ngành dệt may là: qui trình chế biến các loại
nguyên liệu kéo sợi, qui trình sản xuất các loại sợi bông, len, đay, tơ tằm, qui
trình sản xuất các loại tơ, xơ hoá học, qui trình sản xuất hàng dệt kim và sản
xuất vải không dệt, vật liệu dệt, vật liệu vải kỹ thuật, vải không dệt...
Trong khuôn khổ luận văn này, tôi giới hạn lĩnh vực khảo sát là:
nguyên vật liệu dệt, qui trình dệt, các sản phẩm liên quan đến dệt may, các bộ
phận của sản phẩm dệt. Chúng tôi đi vào nghiên cứu các thuật ngữ tiếng Anh
được sử dụng trong lĩnh vực này và đặc biệt chú trọng đến các thuật ngữ tiếng
Anh trong ngành dệt may tại Việt Nam.
C. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khảo sát đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ tiếng Anh của ngành dệt may.
Xác định các loại mô hình kết hợp giữa các thành tố để tạo thành thuật
ngữ công nghệ dệt may của tiếng Anh, liên hệ với tiếng Việt, trên cơ sở đó
tìm ra sự khác biệt và tương đồng giữa các thành tố cấu tạo nên hệ thuật ngữ
giữa hai ngôn ngữ.
Tìm hiểu đặc điểm định danh của thuật ngữ dệt may trong tiếng Anh
theo các con đường hình thành, kiểu ngữ nghĩa và đặc điểm cách thức biểu thị
của thuật ngữ dệt may.
Đưa ra các nhận định về cấu trúc, sự kết hợp của các thành tố trong
thuật ngữ dệt may tiếng Anh.
D. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn của mình chúng tôi sử dụng các phương pháp và thủ
pháp nghiên cứu: thống kê, phân tích cấu trúc và phân tích ngữ nghĩa các
thuật ngữ khảo sát, từ đó xác định các đặc điểm của thuật ngữ dệt may AnhViệt. Chúng tôi cũng sử dụng thủ pháp so sánh đối chiếu các thuật ngữ dệt
may tiếng Anh với thuật ngữ dệt may tiếng Việt để tìm ra nét tương đồng và
khác biệt giữa thuật ngữ dệt may tiếng Anh và tiếng Việt.
3
4. TỪ ĐIỂN ĐƢỢC DÙNG LÀM TƢ LIỆU
Tư liệu nghiên cứu của luận văn gồm 800 thuật ngữ dệt may Anh được
lựa chọn từ tư liệu sau: Từ điển dệt may Anh- Việt - Nhà xuấ t bản khoa học và
kỹ thuật (in xong và nộp lưu chuyển tháng 3 năm 2009).
Tuy nhiên, do chỗ dệt may là một ngành có phạm vi hoạt động rộng
lớn, có liên quan tới nhiều ngành khác nên trong từ điển này cũng xuất hiện
nhiều từ thuộc ngành điện, ngành bông vải sợi... Trong luận văn này, chúng
tôi chỉ lựa chọn khảo sát 800 thuật ngữ mang tính chuyên biệt của ngành dệt
may.
5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo và kết luận thì có 3 phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung
Chương 2: : Đặc điểm cấu tạo của hệ thuật ngữ công nghệ dệt may tiếng
Anh
Chương 3: Đặc điểm ngữ nghĩa của thuật ngữ dệt may và vấn đề chuyển
dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt, tiếng Việt sang tiếng Anh
4
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẬT NGỮ DỆT MAY
1.1. Khái niệm thuật ngữ
Giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân, giữa dân tộc này với dân tộc khác,
giữa quốc gia nọ với quốc gia kia đều phải cần dùng đến ngôn ngữ. Ngôn ngữ
là phương tiện giao tiếp hữu hiệu nhất. Trong mọi lĩnh vực hoạt động nói
chung, trong lĩnh vực công nghệ dệt may nói riêng, con người đều phải dùng
đến từ ngữ để biểu đạt các khái niệm ngành, nghề nghiệp, chuyên môn…
Những từ ngữ đó người ta gọi là thuật ngữ. Sau đây là những quan niệm về
thuật ngữ của các nhà nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới và ở Việt Nam.
1.1.1. Những quan niệm về thuật ngữ trên thế giới
Thuật ngữ vốn ra đời rất sớm ở Châu Âu và châu Mỹ, bởi đó là nơi có
nền khoa học kỹ thuật phát triển rất sớm trên thế giới. Đó cũng là mảnh đất lý
tưởng để những thuật ngữ khoa học ra đời. Thuật ngữ có từ rất lâu nhưng mãi
đến thế kỷ XX người ta mới chính thức nghiên cứu về nó như một ngành
khoa học. Nghiên cứu đầu tiên về thuật ngữ phải nói đến các nhà ngôn ngữ
Anh, Đức, Mỹ đặc biệt là những nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Xô Viết. Khi
nghiên cứu về thuật ngữ, họ đã đi sâu vào phân tích bản chất, chức năng khái
niệm và tìm định nghĩa cho thuật ngữ khoa học. Trong luận văn này chúng tôi
xin đưa ra một số định nghĩa về thuật ngữ được coi là tiêu biểu trong lĩnh vực
khoa học nghiên cứu thuật ngữ.
Trước hết, chúng tôi muốn trích dẫn một định nghĩa trong cuốn “Đại
Bách khoa toàn thư Xô - viết”: “Thuật ngữ là một từ hoặc một cụm từ chỉ ra
một cách chính xác khái niệm và quan hệ của nó với những khái niệm khác
trong giới hạn của phạm vi chuyên ngành. Thuật ngữ là cái biểu thị vốn đã
chuyên biệt hoá, hạn định hoá về sự vật, hiện tượng, thuộc tính và quan hệ
của chúng đặc trưng cho phạm vi chuyên môn đó” [dẫn theo 16, tr. 473- 474].
5
Vinogradov đã nêu rõ hơn: “Trước hết, từ thực hiện chức năng định
danh, nghĩa là hoặc nó là phương tiện biểu thị, lúc đó nó chỉ là một ký hiệu
giản đơn, hoặc nó là phương tiện của định nghĩa logic, lúc đó nó là thuật ngữ
khoa học” [dẫn theo 16, tr.12]
Đề cập đến ranh giới giữa thuật ngữ và từ ngữ thông thường A.I
Moixev viết: “Chính biên giới giữa thuật ngữ và phi thuật ngữ không nằm
giữa các loại từ và cụm từ khác nhau mà nằm trong nội bộ mỗi từ và cụm từ
định danh” [dẫn theo 16, tr.31].
A. X. Gerd, nhà ngôn ngữ học Xô Viết đã nêu tương đối đầy đủ về khái
niệm thuật ngữ, theo định nghĩa ông đưa ra ông nhấn mạnh vào đặc điểm cơ
bản của thuật ngữ. Những thuật ngữ dù ở trong lĩnh vực nào cũng là đơn vị từ
vựng ngữ nghĩa của một hệ thống ngôn ngữ, chúng mang đầy đủ đặc trưng
của ngôn ngữ là tính hệ thống và tính đơn nghĩa. Như vậy chức năng của
thuật ngữ là: “Thuật ngữ là một đơn vị từ vựng - ngữ nghĩa có chức năng định
nghĩa và được khu biệt một cách nghiêm ngặt bởi đặc trưng tính hệ thống,
tính đơn nghĩa; ở thuật ngữ không có hiện tượng đồng nghĩa cũng như hiện
tượng đồng âm trong phạm vi một khoa học hoặc một lĩnh vực tri thức cụ
thể”” [dẫn theo 16, tr 3].
Vinokur, một nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra một khái niệm ngắn gọn
về thuật ngữ dựa trên chức năng của nó: “Thuật ngữ - đó không phải là một từ
đặc biệt mà chỉ là từ có chức năng đặc biệt” [dẫn theo 20, tr.6].
N. P Cudơkin lại chỉ ra rằng “Cả hình thức và nội dung không tìm thấy
ranh giới thực nào giữa từ thông thường, từ phi chuyên môn với từ của vốn kỹ
thuật. Đường ranh giới hiện thực khách quan giữa hai loại từ này về thực
chất là một đường ranh giới ngoài ngôn ngữ. Nếu như từ thông thường, từ phi
chuyên môn ứng với đối tượng thông dụng thì từ của vốn kỹ thuật lại tương
ứng với đối tượng chuyên môn mà chỉ có một số lượng hạn hẹp các chuyên
gia biết đến. ” [dẫn theo 20, tr.45]
6
Không chỉ các nghiên cứu tại Xô Viết, J.C.Sager, một nhà nghiên cứu
ngôn ngữ người Mỹ viết: “Thuật ngữ phải được hình thành một cách hệ
thống, chú trọng tới đặc tính về mặt hình thái, cú pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng
của ngôn ngữ tạo thành chúng. Thuật ngữ phải tuân theo các quy ước chung
về hình vị, chữ viết và phát âm của ngôn ngữ tạo thành chúng. Một khi thuật
ngữ được chấp nhận sử dụng rộng rãi thì nó không thể bị thay đổi nếu như
không có lí do bắt buộc và sự khẳng định chắc chắn rằng thuật ngữ mới thay
thế nó sẽ đảm đương hoàn toàn vị trí của nó và sẽ được nhanh chóng chấp
nhận. Nếu thuật ngữ mới chỉ truyền đạt được phần nào đó của thuật ngữ đang
dùng thì sẽ gây ra nhầm lẫn và trong những trường hợp đó, cần sử dụng đến
khái niệm đồng nghĩa. Như vậy mới có thể giới thiệu thuật ngữ mới” [dẫn
theo 20, tr.89].
Cuốn từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học của tác giả O.X.Ackhmanôva,
cũng đã định nghĩa về thuật ngữ như sau: “Thuật ngữ là từ hoặc cụm từ của
ngôn ngữ chuyên môn đựơc sáng tạo ra để biểu thị chính xác các khái niệm
chuyên môn và biểu thị các đối tượng chuyên môn”[dẫn theo 20, tr 57].
Hiện có khá nhiều nghiên cứu về thuật ngữ trên thế giới. Mỗi nhà
nghiên cứu đưa ra một định nghĩa riêng về thuật ngữ, nhưng có thể thấy rằng
tất cả các nhà ngôn ngữ học đều nghiên cứu và phân tích dựa trên chức năng,
đặc điểm để định nghĩa thuật ngữ khoa học. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu này
đồng ý với quan điểm của nhà nghiên cứu khác không có nghĩa rằng họ sử
dụng nguyên quan điểm của nhau. Ở đây chúng tôi đưa ra nhận xét về việc
các nhà ngôn ngữ nghiên cứu thuật ngữ trên các phương diện: chức năng, đặc
điểm, ranh giới giữa thuật ngữ và từ thông thường, nhưng không có nghĩa
rằng họ sẽ đi vào tất cả các phương diện trên. Đây là điểm khác biệt lớn nhất
trong quan điểm của những nhà nghiên cứu trên thế giới. Chẳng hạn, A. X.
Gerd, Vinofradov hay Vinokur đi sâu vào việc nghiên cứu về chức năng của
thuật ngữ; A.I Moixev và Cudơkin đề cập tới ranh giới giữa thuật ngữ và từ
7
ngữ thông thường; J.C Sager lại nghiên cứu về tiêu chuẩn của thuật
ngữ…Điều này làm nên sự đa dạng trong khái niệm thuật ngữ trên phạm vi
thế giới.
Có thể nhận thấy rằng có rất nhiều định nghĩa về thuật ngữ. Qua đó
chúng ta có thể có bức tranh toàn cảnh và có được nhận định rõ nét hơn về
thuật ngữ.
1.1.2. Quan niệm về thuật ngữ trong tiếng Việt
Việc nghiên cứu về thuật ngữ ở Việt Nam chỉ mới bắt đầu chưa lâu
(vào giữa thế kỷ XX). Tuy nhiên, cũng đã có rất nhiều nhà nghiên cứu ngôn
ngữ đưa ra khái niệm về thuật ngữ. Người mở đầu cho việc đưa ra một khái
niệm cho thuật ngữ ở Việt Nam là Hoàng Xuân Hãn. Trong cuốn “Danh từ
khoa học” của ông, xuất bản 1942, ông đã định nghĩa thuật ngữ như sau:
“Thuật ngữ hay danh từ khoa học là những từ ngữ biểu thị một khái niệm xác
định thuộc hệ thống những khái niệm của một ngành khoa học nhất định”. Từ
đó có rất nhiều nhà khoa học Việt Nam đã đi sâu nghiên cứu thuật ngữ ở Việt
Nam như Nguyễn Văn Tu, Đỗ Hữu Châu, Lê Khả Kế, Lưu Vân Lăng, Như Ý,
Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn Khang…. Trong cuốn “Khái luận ngôn ngữ
học” Nguyễn Văn Tu đã định nghĩa: “Thuật ngữ là từ hoặc nhóm từ dùng
trong ngành khoa học, kỹ thuật, chính trị, ngoại giao, nghệ thuật… và có một
ý nghĩa đặc biệt biểu thị chính xác các khái niệm và tên các sự vật thuộc
ngành nói trên” [31, tr 176]. Và đến năm 1968, ông cũng đưa ra nhận định
tiếp theo: “Thuật ngữ là những từ hoặc cụm từ cố định để chỉ những khái
niệm của một ngành khoa học nào đó, ngành sản xuất và ngành văn hoá nào
đó…. Đặc điểm của thuật ngữ là những từ chỉ có một nghĩa, không có từ đồng
nghĩa, không có sắc thái tình cảm, có thể có tính chất quốc tế tuỳ từng ngành”
[32, tr 114].
Đỗ Hữu Châu đã nhấn mạnh đặc điểm của thuật ngữ không chỉ biểu thị
khoa học mà còn chỉ tên sự vật, một hiện tượng khoa học nhất định trong
8
cuốn “Giáo trình Việt ngữ, tập 2”: “Thuật ngữ là những từ chuyên môn được
sử dụng trong phạm vi một ngành khoa học, một nghề nghiệp hoặc một ngành
kỹ thuật nào đấy. Có thuật ngữ của ngành vật lý, ngành hoá học, toán học,
thương mại, ngoại giao… Đặc tính của những từ này là phải cố gắng chỉ có
một nghĩa, biểu thị một khái niệm hay chỉ tên một sự vật, một hiện tượng khoa
học nhất định” [4, tr 167].
Tác giả Hoàng Văn Hành trong khi tìm hiểu sự hình thành và phát triển
của thuật ngữ tiếng Việt nhận định rằng: “Trong cách hiểu phổ biến lâu nay,
thuật ngữ là từ ngữ dùng để biểu thị một khái niệm xác định thuộc hệ thống
những khái niệm của một ngành khoa học nhất định. Toàn bộ hệ thống thuật
ngữ của các ngành khoa học hợp thành vốn thuật ngữ của ngôn ngữ” [13 ,26]
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp khái quát: “Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt
của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định là tên gọi chính xác
của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của
con người”[7, tr 270].
Cũng tương tự như nhận xét trên, các tác giả Lưu Vân Lăng, Nguyễn
Như Ý cũng đã định nghĩa về thuật ngữ trong bài “Tình hình và xu hướng
phát triển thuật ngữ tiếng Việt trong mấy chục năm qua như sau: “Thuật ngữ
là bộ phận ngôn ngữ (từ vựng) biểu đạt các khái niệm khoa học, kỹ thuật,
chính trị, tức là ngững lĩnh vực xã hội đã được tổ chức một cách có trí tuệ”
[17, tr 144].
Sau này các nhà nghiên cứu như Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân,
Nguyễn Quang và Vương Toàn đã nhấn mạnh tính chính xác của thuật ngữ:
“Thuật ngữ là một từ hoặc cụm từ biểu đạt chính xác khái niệm của một
chuyên môn nào đó. Thuật ngữ nằm trong hệ thống từ vựng chung của một
ngôn ngữ nhưng chỉ tồn tại trong một hệ thống thuật ngữ cụ thể, nghĩa là nó
chỉ được dùng trong ngôn ngữ chuyên môn. Toàn bộ các thuật ngữ của một
lĩnh vực sản xuất, hoạt động, tri thức tạo nên một lớp từ đặc biệt tạo thành
9
một hệ thống thuật ngữ” [dẫn theo 22, tr 64].
Như vậy, có thể nói quan niệm về thuật ngữ của các nhà khoa học Việt
Nam cơ bản thống nhất với quan niệm về thuật ngữ của các nhà khoa học trên
thế giới. Điều đó thể hiện rằng trong thời đại hiện nay- thời đại toàn cầu hoá,
tính quốc tế trong ngôn ngữ không thể thiếu được.
1.1.3. Đặc điểm chung của thuật ngữ và những yêu cầu khi xây dựng
thuật ngữ
1.1.3.1. Tính chính xác
Có thể nói rằng, khi nhắc đến tính khoa học của thuật ngữ nghĩa là phải
nói đến tính chính xác. Theo đó, một từ được gọi là thuật ngữ thì bản thân nó
phải phản ánh được bản chất của các khái niệm. Nói về tính chính xác của
thuật ngữ Lưu Văn Lăng có quan điểm như sau:“Mức chính xác khoa học của
thuật ngữ phải thể hiện đúng nội dung khái niệm khoa học một cách rõ ràng,
rành mạch. Một thuật ngữ chính xác tuyệt đối không làm cho người nghe hiểu
sai, hoặc nhầm lẫn từ khái niệm này qua khái niệm khác” [ 17, tr 40].
Và sự thống nhất trong quan điểm về đặc điểm này của thuật ngữ cũng
được AA.Refomatski nói rõ trong nhận định:“Các khái niệm biểu thị trong
các từ ngữ thông thường chỉ là khái niệm thông thường, còn các khái niệm
biểu thị trong thuật ngữ là khái niệm chính xác của một chuyên ngành khoa
học nào đó” [dẫn theo 20, tr 49- 51].
Vì yêu cầu về tính chính xác mà thuật ngữ trong các từ điển được định
nghĩa chứ không giải thích như từ ngữ thông thường khác. Trong thời đại
ngày nay có nhiều ngành nghề khoa học phát triển, vì thế ta phải hiểu và phân
tích được đặc tính cơ bản của thuật ngữ để giúp người đọc, người nghe có
được khái niệm chính xác về bất kỳ đối tượng khoa học nào, thuật ngữ phải
có nhiệm vụ gọi tên, định nghĩa chính xác về khái niệm đó và chỉ có một
nghĩa, không có từ đồng nghĩa, không có sắc thái biểu cảm.
10
1.1.3.2. Tính hệ thống
Ngôn ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng đều có tính hệ thống.
Chính vì vậy thuật ngữ với vai trò là một bộ phận của ngôn ngữ; là từ, cụm từ
biểu đạt chính xác một khái niệm của một chuyên ngành nào đó cũng mang
tính hệ thống. Thuật ngữ nằm trong hệ thống từ vựng chung của một ngôn
ngữ. Và tính hệ thống của thuật ngữ được thể hiện ở hai phương diện: trường
từ vựng và trường khái niệm. Trường từ vựng chỉ ra mối liên hệ của thuật ngữ
với các từ ngữ khác trong vốn từ vựng chung của một ngôn ngữ. Trường khái
niệm chỉ ra mối liên hệ giữa một thuật ngữ với các thuật ngữ khác trong cùng
một chuyên ngành khoa học. Bởi không có chuyên ngành khoa học nào chỉ
tồn tại một khái niệm duy nhất. Vì vậy mỗi thuật ngữ phải thuộc về một hệ
thống thuật ngữ của một chuyên ngành khoa học nhất định. Và cũng không
thể tách rời từng khái niệm ra để đặt thuật ngữ mà phải hình dung, xác định vị
trí của nó trong toàn bộ hệ thống khái niệm.
1.1.3.3. Tính dân tộc
Thuật ngữ là một lớp từ biểu thị sự vật, hiện tượng, đối tượng của một
ngành khoa học nào đó nhưng nó không hoàn toàn tách biệt mà vẫn là một bộ
phận của ngôn ngữ chung, chịu sự chi phối bởi quy luật ngôn ngữ của một
dân tộc nào đó. Bởi thế, thuật ngữ cũng phải có tính chất dân tộc. Tính dân
tộc của thuật ngữ được thể hiện trong nhận định sau của Lưu Vân Lăng :
“Thuật ngữ dù thuộc lĩnh vực khoa học, chuyên môn nào cũng nhất thiết phải
là một bộ phận của từ ngữ dân tộc. Do đó, thuật ngữ phải có tính dân tộc và
phải mang màu sắc dân tộc” [ 17, tr 58].
Tùy tình hình, đặc điểm của từng ngôn ngữ, từng xã hội mà tính dân
tộc trở thành một yêu cầu cần thiết quan trọng đối với thuật ngữ đến mức độ
nào.
11
Tính dân tộc của thuật ngữ thể hiện ở việc chú ý đến việc khai thác, tận
dụng và phát triển những từ thông thường sẵn có trong tiếng nói của dân tộc.
Cụ thể:
- Về mặt từ vựng: Bản chất của các yếu tố cấu tạo nên thuật ngữ phải
mang tính dân tộc cao (quen dùng)
- Về mặt ngữ âm, văn tự: Hình thức, âm hưởng của các yếu tố thuật
ngữ được thể hiện ra ở cách nói, cách đọc, cách phát âm cũng như cách viết
sao cho phù hợp với đặc điểm của tiếng nói, chữ viết của dân tộc.
- Về mặt ngữ pháp: Cách sắp xếp các yêu tố trong thuật ngữ phải theo
cú pháp của dân tộc (hoặc cố gắng một cách cao nhất để đạt được điều này).
1.1.3.4. Tính quốc tế
Nguyễn Thiện Giáp khẳng định: “Thuật ngữ là bộ phận từ vựng đặc
biệt biểu hiện những khái niệm khoa học chung cho những người nói thứ
tiếng khác nhau. Vì vậy, sự thống nhất thuật ngữ giữa các ngôn ngữ là cần
thiết và bổ ích. Chính điều này đã tạo nên tính thống nhất của thuật ngữ” [7,
tr 247]. Như vậy, khoa học là tài sản trí tuệ chung của loài người, cho nên
những khái niệm về các ngành khoa học kỹ thuật và nhiều ngành khác trong
lĩnh vực hoạt động chung của con người cũng là của chung của nhân loại. Ví
dụ khái niệm trong các ngành khoa học tự nhiên như toán, vật lý, hoá học…
đều thống nhất giữa các quốc gia trên thế giới, không thể có khái niệm toán
học ở Việt Nam khác với khái niệm toán học ở bất kì quốc gia nào trên thế
giới.
Nói đến tính quốc tế của thuật ngữ là ta nghĩ đến sự biểu hiện ở hình
thức cấu tạo của nó. Đó là các ngôn ngữ dùng các thuật ngữ giống hoặc tương
tự nhau, cùng xuất phát một gốc chung. Ví dụ như “cà phê” trong tiếng Anh:
cafe, tiếng Đức: kaffee.
12
Tính quốc tế của thuật ngữ còn biểu hiện cả ở nội dung. Bởi vì thuật
ngữ biểu thị những khái niệm khoa học chung cho nên những khái niệm về
khoa học, các ngành nghề khác đều giống nhau ở các quốc gia như đã nêu
trên.
1.1.3.5. Yêu cầu khi xây dựng thuật ngữ
Bởi vì khái niệm khoa học không phải riêng của người Việt mà là tài
sản chung của các dân tộc nói các tiếng khác nhau do vậy nó phải có mối
tương quan với các dân tộc và quốc tế. Tiêu chí quan trọng nhất là phải bảo
đảm tính chính xác của khái niệm. Thuật ngữ phải phản ánh những đặc trưng
cần và đủ của khái niệm - để thẩm định tính chính xác của thuật ngữ cần nắm
vững nội dung khái niệm mà thuật ngữ diễn đạt. Hội nghị bàn về vấn đề xây
dựng thuật ngữ do Ủy Ban Khoa Học nhà nước tổ chức năm 1964 ở Hà Nội
đã đưa ra:
1. Tính khoa học, cụ thể, chính xác, có hệ thống, ngắn gọn
2. Tính dân tộc, nghĩa là có mầu sắc ngôn ngữ dân tộc, phù hợp với đặc
điểm tiếng Việt
3. Tính đại chúng, nghĩa là quần chúng dễ dùng (dễ nhớ, dễ hiểu, dễ
nói, dễ viết, dễ đọc)
Ngoài ra, chúng ta có thể mượn cả yếu tố Ấn, Âu để tạo từ. Như vậy, thuật
ngữ tiếng Việt có ba nguồn ngữ liệu để xây dựng là:
Lớp thuật ngữ thuần Việt
Lớp thuật ngữ Hán Việt
Lớp thuật ngữ Ấn Âu
Từ những nghiên cứu về thuật ngữ của các nhà ngôn ngữ học thế giới
và Việt Nam, chúng tôi thấy được những đặc điểm của thuật ngữ như đã nói
trên: có tính chính xác, tính hệ thống, tính dân tộc và tính quốc tế. Trong đó,
tính dân tộc và tính quốc tế không hề mâu thuẫn với nhau. Những thuật ngữ
vay mượn từ các ngôn ngữ khác đương nhiên mang tính quốc tế, nhưng cũng
13
có những thuật ngữ chỉ có trong tiếng Việt mà điển hình là những thuật ngữ
dệt may truyền thống như áo dài, yếm, áo tứ thân...
+ Phân biệt thuật ngữ và các từ thông thường
Thuật ngữ không tách biệt hẳn với từ ngữ thông thường. Chúng chỉ tồn
tại như một thuật ngữ trong hệ thống ngôn ngữ của các ngành khoa học, tách
ra khỏi hệ thống đó sẽ trở thành từ vựng thông thường. Một khi ngành khoa
học trở nên gần gũi đi sâu vào đời sống con người thì những từ thuật ngữ
khoa học cũng dần dần được sử dụng như một từ ngữ thông thường. Ví dụ từ
chập mạch dùng trong ngành điện đi vào cuộc sống thì được hiểu là từ chỉ
những người có tính khí không bình thường.
+ Sự vay mượn thuật ngữ giữa các liên ngành
Lê Quang Thiêm đã nêu ra rằng: “Thuật ngữ là bộ phận đặc thù trong
hệ thống từ vựng và ngũ nghĩa của ngôn ngữ dân tộc. Thuật ngữ hình thành
và phát triển phản ánh trình độ tri thức và sự phát triển cao của đất nước. Hệ
thống thuật ngữ cũng thể hiện rất rõ các mối quan hệ tiếp xúc, tiếp nhận, hội
nhập của khoa học công nghệ và văn hóa của dân tộc với cộng đồng các
nước, các dân tộc khác trên thế giới”[ 28, tr 1-5]. Vốn tri thức của nhân loại
ngày nay vô cùng phong phú, rộng lớn. Mọi ngành, nghề khoa học, kỹ thuật,
kinh tế, ngoại giao, du lịch ngày càng phát triển không ngừng và có sự phân
nhánh trong mỗi ngành nghề đó. Vì vậy, thuật ngữ xuất hiện ngày càng nhiều,
cho nên phải có sự điều chỉnh, xử lý từ vựng hợp lý. Và việc sử dụng chung
thuật ngữ là điều dễ hiểu. Ví dụ các thuật ngữ kinh tế, thương mại dùng trong
nhiều ngành khoa học xã hội như kinh tế chính trị, mậu dịch, ngân hàng dữ
liệu. Do tính liên ngành và đa ngành nên sự vay mượn thuật ngữ giữa các
ngành khoa học kĩ thuật là tất yếu. Tuy vậy, không nên lạm dụng sự vay
mượn để tránh gây nhầm lẫn trong giao tiếp khoa học.
14
1.2. Khái niệm thuật ngữ dệt may
Công nghệ dệt may thường được gắn với giai đoạn phát triển ban đầu
của nền kinh tế và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình công nghiệp hoá ở
nhiều nước. Ngành công nghệ dệt may có khả năng tạo nhiều việc làm cho
người lao động, tăng thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền đề phát triển cho các
ngành công nghiệp khác, góp phần nâng cao mức sống và ổn định tình hình
chính trị xã hội.
Ở Việt Nam, dệt may cũng là một trong những ngành được chú trọng
phát triển khi Việt Nam thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với những
ưu thế về nguồn nhân công dồi dào, lượng vốn đầu tư không lớn, khả năng
thu hồi vốn nhanh, Việt Nam có thể đẩy mạnh hoạt động của ngành dệt may
để vừa thu về giá trị xuất khẩu lớn, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất
nước, vừa giải quyết được việc làm cho phần lớn người lao động.
Cùng với sự phát triển của ngành dệt may ở Việt Nam, thuật ngữ dệt
may cũng đã định hình thành một lĩnh vực thuật ngữ quan trọng. Không chỉ là
những tài liệu lưu hành nội bộ, sự ra đời của cuốn từ điển Dệt may Anh - Việt
(NXB Khoa học và kỹ thuật) là một sự đánh dấu bước phát triển mới của
ngành này. Tuy nhiên, so với các ngành khác, rõ ràng là sự phát triển của sách
công cụ, từ điển thuật ngữ thuộc ngành dệt may còn khá khiêm tốn.
1.2.1. Quan niệm về ngành dệt may
“Textile is a type of material composed of natural or synthetic fibers. Types
of textiles include animal-based material such as wool or silk, plant-based
material such as linen and cotton, and synthetic material such as polyester
and rayon. Textiles are often associated with the production of clothing.”
(Adrea Wynne – Textiles – Mac Millan, 1997– The Textile Institule, 1993)
Tạm dịch: Dệt may đề cập tới vật liệu bao gồm các loại sợi tự nhiên hoặc tổng
hợp. Các loại hàng dệt may bao gồm vật liệu như lông cừu hoặc tơ tằm, vật
liệu có nguồn gốc thực vật như vải lanh, bông, và vật liệu tổng hợp như
15
polyester và rayon. Dệt may thường gắn liền với việc sản xuất quần áo.
Dệt may thường bao gồm các sợi, hoặc nhân tạo hoặc tự nhiên. Những
loại sợi này được làm việc cùng nhau để tạo ra một sản phẩm. Các sản phẩm
này sau đó được nối với nhau bằng cách sử dụng một loạt các quy trình,
chẳng hạn như kéo sợi, dệt, dệt kim, để tạo ra sản phẩm dệt cuối cùng, mà chủ
yếu là một loại vải nào đó. Bất kỳ sản phẩm nào mà chủ yếu bao gồm các sợi
liên kết thường được gọi là dệt may. Tuy nhiên, các loại sợi có thể khác nhau,
dẫn đến nguyên liệu dệt rất nhiều. Các loại sợi thường lấy từ 4 nguồn sau:
động vật (lông), thực vật (bông, lanh, đay), khoáng sản, và tổng hợp (nylon,
polyester, acrylic).
1.2.2. Quan niệm chung về thuật ngữ dệt may
Như vậy, trên cơ sở khái niệm về lĩnh vực dệt may nêu trên, thuật ngữ
dệt may có thể được phát biểu một cách giản dị như sau: Thuật ngữ dệt may
là những từ và những cụm từ, là tên gọi chính xác của những khái niệm và
những đối tượng thuộc lĩnh vực chuyên môn về dệt may như: thuật ngữ về vật
liệu dệt, quy trình và sản phẩm dệt như: xơ, tơ tằm,len; các loại vải: vải dệt
kim, vải dệt thoi, vải không dệt và các phụ liệu may...
16
TIỂU KẾT
- Trong các mục của chương 1, luận văn đã nêu lên các quan điểm khác
nhau của các nhà ngôn ngữ học thế giới và Việt Nam về định nghĩa thuật ngữ
và các tiêu chuẩn đối với thuật ngữ. Thuật ngữ là những từ và cụm từ cố định
biểu thị chính xác các khái niệm và đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn
khác nhau. Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, thuật ngữ phải đảm bảo
các tiêu chuẩn như tính chính xác, tính hệ thống, tính quốc tế, tính liên ngành,
tính dân tộc.
- Trên cơ sở những lý luận chung về thuật ngữ, khái niệm về thuật ngữ
dệt may, luận văn đưa ra định nghĩa về thuật ngữ dệt may và coi đó là tiêu chí
quan trọng để xác định, thu thập đối tượng nghiên cứu trong luận văn. Thuật
ngữ dệt may trong luận văn này được hiểu là những từ và cụm từ gọi tên
các khái niệm, đối tượng được dùng trong ngành dệt may như: nguyên liệu
may mặc, các loại trang phục quần áo, các thiết bị phục vụ cho ngành dệt
may...
- Các chương tiếp theo, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
+ Nghiên cứu đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ dệt may về mặt ngữ pháp và
ngữ nghĩa, miêu tả mô hình cấu tạo và cách thức định danh của thuật ngữ dệt
may tiếng Anh, liên hệ với tiếng Việt.
+ Điểm qua các lý thuyết dịch và các thủ pháp chuyển dịch, từ đó đề xuất
các giải pháp chuyển dịch thuật ngữ dệt may Anh – Việt, đặc biệt là những
trường hợp chưa có thuật ngữ tương đương giữa hai ngôn ngữ.
17
- Xem thêm -