Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát tình hình thực thi chính sách ngôn ngữ dân tộc tại vùng tây bắc trong n...

Tài liệu Khảo sát tình hình thực thi chính sách ngôn ngữ dân tộc tại vùng tây bắc trong những năm gần đây

.PDF
104
1703
77

Mô tả:

MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 4. Phương pháp và thủ pháp nghiên cứu 4 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 5 6. Cấu trúc của luận văn 5 NỘI DUNG CHÍNH Chương 1: Cơ sở lý thuyết về chính sách ngôn ngữ dân tộc 1.1. Một số cơ sở lý luận về chính sách ngôn ngữ dân tộc 1.1.1. Khái niệm “chính sách” 1.1.2. Khái niệm chính sách ngôn ngữ dân tộc 7 11 1.2. Kinh nghiệm xây dựng chính sách ngôn ngữ dân tộc của một số quốc gia trên thế giới 1.2.1. Xu thế chung 14 1.2.2. Những kinh nghiệm cụ thể trong chính sách ngôn ngữ dân tộc của một số nước trên thế giới 18 1.3. Các văn bản trực tiếp và gián tiếp liên quan đến chính sách ngôn ngữ dân tộc của Đảng và Nhà nước thời gian gần đây 37 1.4. Tiểu kết chương 1 46 Chương 2: Cảnh huống ngôn ngữ vùng Tây Bắc 47 2.1. Khái niệm cảnh huống ngôn ngữ 2.2. Cảnh huống ngôn ngữ vùng Tây Bắc 51 2.2.1. Khái quát về vùng Tây Bắc 53 2.2.2. Cảnh huống ngôn ngữ vùng Tây Bắc 55 2.2.3. Cảnh huống ngôn ngữ tỉnh Sơn La 62 2.3. Tiểu kết chương 2 Chương 3: Tình hình thực thi chính sách ngôn ngữ dân tộc của Đảng và Nhà nước tại vùng Tây Bắc trong những năm gần đây 63 3.1. Đặt vấn đề 3.2. Những thành tựu và tồn tại, bất cập trong thực thi chính sách ngôn ngữ dân tộc tại tỉnh Sơn La trong những năm gần đây 63 3.2.1. Những thành tựu đã đạt được 73 3.2.2. Những tồn tại, bất cập 3.3. Những thành tựu và tồn tại, bất cập trong thực thi chính sách ngôn ngữ dân tộc tại vùng Tây Bắc trong những năm gần đây 75 3.3.1. Những thành tựu đã đạt được 80 3.3.2. Những tồn tại, bất cập 92 3.4. Tiểu kết chương 3 94 98 KẾT LUẬN Một số kiến nghị đối với Đảng và Nhà nước DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 2 101 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngôn ngữ dân tộc là vấn đề nhạy cảm , phức tạp trong công tác hoạch định và thực thi chính sách của mỗi nhà nước. Nó có khả n ăng tác động đến sự an - nguy của chế độ. Trong một đất nước đa dân tộc, giải quyết tốt vấn đề ngôn ngữ dân tộc sẽ góp phần giúp nhà nước điều hoà được các mâu thuẫn xã hội, duy trì được sự ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước. Để tham mưu cho Đảng và Nhà nước đưa ra những hiệu chỉ nh cần thiết, kịp thời trong giải quyết những vấn đề liên quan đến ngôn ngữ dân tộc , việc khảo sát, đánh giá công tác thực thi chính sách ngôn ngữ dân tộc trong những năm qua là rất quan trọng . Đây là nhiệm vụ không chỉ của các cơ quan chính quyền, mà còn của các nhà khoa học chuyên nghiên cứu vấn đề này. Việc nghiên cứu, khảo sát, đánh giá về chính sách ngôn ngữ dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trên phạm vi cả nước là một công việc to lớn, phức tạp và công phu, đòi hỏi những người khảo sát, nghiên cứu phải tiến hành khối lượng công việc khổng lồ trải dọc theo chiều dài đất nước. Trong những năm qua, đã có một số cơ quan , tổ chức và các nhà khoa học tiến hành phân tích, đánh giá chung về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước . Tuy nhiên, do mỗi vùng có cảnh huống ngôn ngữ riêng, nên cùng một chính sách ngôn ngữ dân tộc nhưng lại phát huy và có những tác động, ảnh hưởng khác nhau. Vì vậy, việc đánh giá phân tích quá trình thực thi chính sách ngôn ngữ tại những vùng cụ thể, xuất phát từ khía cạnh ngôn ngữ học xã hội, còn nhiều bỏ ngỏ. Trong khi đó, Tây Bắc là một vùng có cảnh huống ngôn ngữ phức tạp . Công tác thực thi chính sách ngôn ngữ dân tộc ở đây trong những năm gần đây mặc dù đã đạt 3 được nhiều thành tựu, nhưng vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập, dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp khác làm ảnh hưởng tới công tác đảm bảo an ninh , trật tự trên đị a bàn. Đây chính là lý do tôi chọn đề tài luận văn “Khảo sát tình hình thực thi chính sách ngôn ngữ dân tộc tại vùng Tây Bắc trong những năm gần đây”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn này là thông qua việc khảo sát tình hình thực thi chính sách ngôn ngữ dân tộc tại vùng Tây Bắc trong những năm gần đây, nhằm góp phần tham mưu cho Đảng và Nhà nướ c mà cụ thể là các nhà hoạch định chính sách có được cái nhìn toàn diện về việc này và đưa ra những hiệu chỉnh về chính sách ngôn ngữ dân tộc phù hợp hơn trong thời gian tới. Từ mục đích trên luận văn có nhiệm vụ như sau: - Hệ thống hóa những lí luận cơ sở về chính sách ngôn ngữ và chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam liên quan đến luận văn. - Giới thiệu, phân tích cảnh huống ngôn ngữ ở vùng Tây Bắc. - Khảo sát, đánh giá tình hình thực hiện và chính sách ngôn ngữ dân tộc tại vùng Tây Bắc trong những năm gần đây. - Từ kết luận về tì nh hì nh thực thi chí nh sách ngôn ngữ dân tộc tại Tây Bắc, đề xuất kiến nghị, giải pháp trong thời gian tới. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tiến hành khảo sát, nghiên cứu, đánh giá việc thực thi những chính sách ngôn ngữ dân tộc của Đảng và Nhà nước tại vùng Tây Bắc trong những năm gần đây, gồm địa bàn 12 tỉnh như Yên Bái, Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Hoà Bình, Lạng Sơn, Cao Bằng và các huyện phía Tây của 2 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An một trong những vùng có tình hình an ninh dân tộc tương đối phức tạp. 4 Tuy nhiên, do địa bàn rất rộng nên luận văn này chỉ khảo sát điểm, tức là khảo sát trường hợp ở một số địa bàn nhất định trong vùng. 4. Phƣơng pháp và thủ pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội như điền dã, phỏng vấn, nghiên cứu trường hợp…, phương pháp diễn dịch, quy nạp và các thủ pháp xử lí tư liệu. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bổ sung cho lý luận ngôn ngữ học xã hội nói riêng và cho ngôn ngữ học nói chung trong việc nghiên cứu, đánh giá, đề xuất giải pháp cho các vấn đề thực tiễn liên quan đến hoạch định chính sách xã hội. Về mặt thực tiễn, đề tài góp phần nghiên cứu, khảo sát, đánh giá và đề xuất các kiến nghị nhằm giải quyết tốt vấn đề ngôn ngữ dân tộc cho Đảng và Nhà nước tại vùng chiến lược Tây Bắc. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương: Chương I - Cơ sở lý thuyết: trình bày một số khái niệm cơ bản về chính sách ngôn ngữ làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài. Đồng thời, giới thiệu một số mô hình chính sách ngôn ngữ dân tộc của một vài quốc gia trên thế giới. Ngoài ra, chương này cũng dành một phần đáng kể nhằm giới thiệu các văn bản trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến chính sách ngôn ngữ dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam thời gian gần đây. Chương II - Cảnh huống ngôn ngữ ở vùng Tây Bắc: trên cơ sở lý thuyết cảnh huống ngôn ngữ, chương này tập trung giới thiệu những nét cơ bản về cảnh huống ngôn ngữ ở vùng Tây Bắc (gồm lượng, chất và thái độ ngôn ngữ). 5 Trong đó chú trọng tới sự thay đổi cảnh huống ngôn ngữ ở vùng Tây Bắc trong những năm gần đây. Để có những nhận xét, đánh giá cụ thể hơn về cảnh huống ngôn ngữ vùng Tây Bắc, luận văn tiến hành khảo sát cụ thể cảnh huống ngôn ngữ ở Sơn La - tỉnh có cảnh huống ngôn ngữ điển hình trong vùng này. Chương III - Tình hình thực thi chính sách ngôn ngữ dân tộc của Đảng và Nhà nước ta tại vùng chiến lược Tây Bắc trong những năm gần đây: khảo sát tình hình thực thi chính sách ngôn ngữ dân tộc tại tỉnh Sơn La, kết hợp với những số liệu về thực thi chính sách ngôn ngữ dân tộc vùng Tây Bắc để đưa ra đánh giá, kết luận về những thành tựu đã đạt được , tồn tại, bất cập cũng như phân tí ch nguyên nhân của những tồn tại , bất cập đó trong thực thi các chính sách ngôn ngữ của Đảng v à Nhà nước tại vùng này. Kết hợp với xu thế thay đổi cảnh huống ngôn ngữ, luận văn đưa ra những kiến nghị, đề xuất, giải pháp với Đảng và Nhà nước nhằm giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến chính sách ngôn ngữ dân tộc , đảm bảo thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc kết hợp với đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gì n trật tự an toàn xã hội tại vùng chiến lược Tây Bắc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. 6 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHÍNH SÁCH NGÔN NGỮ DÂN TỘC 1.1. Một số cơ sở lý luận về chính sách ngôn ngữ dân tộc 1.1.1. Khái niệm “chính sách” 1) Để trang bị cơ sở lý luận thống nhất cho những vấn đề được đề cập trong luận văn, trước tiên chúng ta cần làm rõ một số khái niệm. Trước hết, muốn hiểu được thế nào là chính sách ngôn ngữ dân tộc, khái niệm đầu tiên phải tìm hiểu là “chính sách”. Xuất phát từ những góc độ khác nhau nên hiện nay có nhiều định nghĩa về khái niệm “chính sách” khác nhau. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: “Chính sách (chính trị) là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ; được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và định hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Muốn định ra chính sách đúng, phải căn cứ vào tình hình thực tiễn trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn, phải vừa giữ vững mục tiêu, phương hướng được xác định trong đường lối, nhiệm vụ chung, vừa linh hoạt vận dụng vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể”. Định nghĩa này đã nêu được các yếu tố tạo thành khái niệm chính sách như nội dung, lĩnh vực, thời điểm cơ sở để hoạch định chính sách, việc thực thi chính sách… nhưng dường như còn thiếu một yếu tố là “chủ thể đưa ra chính sách” - cái được thể hiện trong các định nghĩa khác về chính sách. Các từ điển tiếng Nga, Anh khi định nghĩa từ “chính sách” (политика, policy) hầu như đều đề cập đến chủ thể chính sách: 7 “Chính sách là hoạt động của các cơ quan công quyền và quản lý nhà nước thể hiện cơ cấu xã hội và cấu trúc kinh tế của đất nước, đồng thời cũng là hoạt động của các đảng phái và các tổ chức, nhóm xã hội khác nhằm đạt được các lợi ích và mục đích của mình” (Толковый словарь под ред. C. И. Ожегова и Н.Ю.Шведовой). “Chính sách là phương hướng hoạt động của nhà nước hay các nhóm xã hội nào đó trong một lĩnh vực và giai đoạn nhất định” (Новый толковословообразовательный словарь русского языка. Автор Т. Ф. Ефремова). “Chính sách là hoạt động của các tầng lớp, đảng phái, nhóm xã hội, được xác định bởi lợi ích và mục tiêu của họ, đồng thời là hoạt động của các cơ quan công quyền và quản lý nhà nước, thể hiện bản chất kinh tế - xã hội của xã hội đó. Chính sách đối nội bao gồm các quan hệ trong nội bộ đất nước; còn chính sách đối ngoại bao gồm các quan hệ giữa các nhà nước và giữa các dân tộc” (Словарь иностранных слов). “Chính sách” được hiểu là kế hoạch hành động, sự trình bày những ý tưởng,… do một chính phủ, đảng chính trị, tổ chức doanh nghiệp,… đưa ra hoặc áp dụng” (Advanced English Dictionary). Theo các định nghĩa trên, chủ thể đưa ra chính sách là chính phủ (government), các cơ quan công quyền và quản lý nhà nước (органов государственной власти и государственного управления), đảng phái (party, партия), các nhóm xã hội (общественные группировка), tổ chức doanh nghiệp (business, организация), cá nhân (individual), v.v… Trong “Từ điển tiếng Hán hiện đại”, từ “chính sách” được định nghĩa “là những chuẩn tắc hành động do quốc gia hoặc chính đảng đặt ra nhằm thực 8 hiện đường lối ở một thời kỳ nhất định”. Theo đó, chủ thể đưa ra chính sách là “nhà nước” hoặc “chính đảng”. Trong khi đó, Wikipedia thì cho rằng, chủ thể duy nhất là chính phủ và giải thích như sau: - Chính sách là quyết định của chính phủ (nói rộng ra là của nhà nước), chứ không phải là quyết định của một đảng hoặc một tổ chức chính trị hoặc một cá nhân nào đó. - Chính sách là quyết định của chính phủ nhằm giải quyết một vấn đề nào đó liên quan đến sự phát triển của con người và xã hội thuộc phạm vi quản lý nhà nước. Chính sách là quyết định được thực thi chứ không phải là quyết định chỉ tồn tại trên giấy tờ, tức là bao gồm cả chủ trương và hành động thực hiện chủ trương. “Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó của chính phủ; nó bao gồm các mục tiêu mà chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội - môi trường” [xem 20, trang 103]. 2) Ở Việt Nam, liên quan đến khái niệm chính sách còn có hai khái niệm là “đường lối” và “chủ trương”. Đường lối là phương hướng có tính chỉ đạo lâu dài trong hoạt động (thường của một quốc gia, một tổ chức chính trị lớn). Chủ trương là những điều quyết định về phương hướng hoạt động. Trong mối quan hệ với hai khái niệm này, chính sách là “chủ trương và các biện pháp của một đảng phái, của một chính phủ trong một lĩnh vực chính 9 trị xã hội” (Đại từ điển tiếng Việt); chính sách là “sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị và thực tế đặt ra”. (Sách lược là những hình thức tổ chức và đấu tranh để giành thắng lợi trong một cuộc vận động chính trị - Từ điển tiếng Việt). 3) Như vậy, chính sách cần được hiểu ở những góc nhìn nhất định: xem xét nó một cách độc lập hay trong mối quan hệ với các phạm trù khác, chẳng hạn như chính trị hay pháp quyền. Nếu nhìn nhận chính sách như một hiện tượng tĩnh và tương đối độc lập thì chính sách được hiểu là những tư tưởng, định hướng, mong muốn cần hướng tới, cần đạt được. Còn chiến lược hay kế hoạch, thậm chí pháp luật chẳng qua chỉ là hình thức, là phương tiện để chuyển tải, thể hiện chính sách mà thôi. Tổng hợp các điều trên, có thể thấy, “chính sách” là một thuật ngữ chính trị, bao gồm các yếu tố: - Nội dung: gồm hai nội dung là những chuẩn tắc cụ thể và các biện pháp/kế hoạch/chiến lược để thực hiện các chuẩn tắc đó. - Phạm vi của chính sách: không có chính sách chung chung mà phải có chính sách cho từng lĩnh vực cụ thể. - Cơ sở của chính sách: thực tiễn, gắn với định hướng và trong mối quan hệ với các chính sách khác. - Thời gian và không gian: có tính giai đoạn, gắn với hoàn cảnh cụ thể. - Chủ thể đưa ra chính sách: chính sách là sự thể hiện cụ thể của đường lối chính trị chung. Dựa vào đường lối chính trị chung, cương lĩnh chính trị của đảng cầm quyền mà người ta định ra chính sách. Như vậy, chính sách luôn gắn liền với quyền lực chính trị, với đảng cầm quyền và với bộ máy quyền lực công - nhà nước. 10 Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, vì thế, chính sách ở Việt Nam là do Đảng và Nhà nước Việt Nam hoạch định. Nguyên tắc tổ chức thực thi quyền lực chính trị là “Đảng đề ra đường lối, chính sách, Nhà nước cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật” [xem 20, trang 103]. 1.1.2. Khái niệm chính sách ngôn ngữ dân tộc 1) Trước khi tìm hiểu khái niệm chính sách ngôn ngữ dân tộc, ta hãy cùng tìm hiểu thế nào là chính sách ngôn ngữ. Có thể khẳng định rằng, chính sách ngôn ngữ là chính sách thuộc phạm vi/lĩnh vực ngôn ngữ, vì thế, khái niệm về chính sách ngôn ngữ phải đảm bảo được các yếu tố cấu thành chính sách nói chung và những yếu tố cấu thành chính sách ngôn ngữ nói riêng. Từ khi thuật ngữ Chính sách ngôn ngữ (Language Policy) lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm “Ngôn ngữ học xã hội” (“Sociolinguistic”) bằng tiếng Anh của tác giả J.A. Fishman đến nay, đã có nhiều định nghĩa về chính sách ngôn ngữ. Chẳng hạn: “Chính sách ngôn ngữ là hệ thống biện pháp nhằm tác động một cách có ý thức để điều chỉnh mặt chức năng của ngôn ngữ và thông qua đó tác động đến cấu trúc ngôn ngữ ở một chừng mực nhất định”. (V.A. Avrorin, 1970). Chính sách ngôn ngữ “là một bộ phận hữu cơ trong chính sách dân tộc của một nhà nước, một giai cấp hay một đảng phái nào đó” và là “bình diện ngôn ngữ trong chính sách (cương lĩnh) của đảng và nhà nước về vấn đề dân tộc”. (Avrorin, Isaev). “Về mặt xã hội, chính sách ngôn ngữ là một bộ phận trong chính sách đối nội của giai cấp thống trị nhà nước trong một quốc gia nhất định”. “Chính sách ngôn ngữ có bình diện lý thuyết của nó, phụ thuộc vào chính sách của xã 11 hội (nhà nước) và bình diện thực tiễn, tức là toàn bộ các biện pháp ngôn ngữ cụ thể được thi hành để thực hiện các quan điểm lý thuyết. Như vậy tôi hiểu chính sách ngôn ngữ là toàn bộ các biện pháp, được định ra để tác động, điều chỉnh có định hướng các quá trình ngôn ngữ, được thực hiện bởi xã hội (nhà nước)”. (Nikolskij, 1982). “Nói đến chính sách ngôn ngữ là nói đến sự can thiệp có ý thức, có tổ chức, có cơ sở khoa học của xã hội và sự hoạt động, phát triển của ngôn ngữ. Nói cách khác, chính sách ngôn ngữ là sự lãnh đạo những yêu cầu ngôn ngữ học của xã hội dựa trên sự hiểu biết khoa học về những quy luật của ngôn ngữ, đưa ngôn ngữ vào quỹ đạo phát triển chung của xã hội, làm cho ngôn ngữ phục vụ ăn khớp với sự phát triển của xã hội”. (Nguyễn Hàm Dương, 1985). “Chính sách ngôn ngữ là hệ thống các quan điểm chính trị của một nhà nước, một giai cấp, một đảng phái về các vấn đề ngôn ngữ và hệ thống các biện pháp do nhà nước, giai cấp, đảng phái đó tiến hành nhằm tác động lên sự hành chức và biến đổi của các ngôn ngữ và các hình thức tồn tại ngôn ngữ theo những mục đích chính trị nhất định”. (Như Ý, 1985) Như vậy, khái niệm “chính sách ngôn ngữ” cần phải được xây dựng trên cơ sở của khái niệm “chính sách” đó là: - Phải nằm trong mối tương quan chung với chính sách về các vấn đề khác của cộng đồng như kinh tế, giáo dục, dân tộc… - Phải được xây dựng trên thực tế của đời sống ngôn ngữ ở một giai đoạn nhất định (tức là phải dựa trên cơ sở cảnh huống ngôn ngữ). - Nội dung do hai bộ phận hợp thành: chủ trương chính trị về ngôn ngữ và sự thực thi chủ trương đó. - Có thể do nhà nước hoặc tổ chức chính trị nào đó đưa ra. 12 - Phạm vi có thể ở cấp địa phương hoặc cấp trung ương trong phạm vi quốc gia hoặc một tổ chức liên minh xuyên quốc gia. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra một định nghĩa ngắn gọn như sau về chính sách ngôn ngữ: Chính sách ngôn ngữ là chủ trương chính trị và các biện pháp thực hiện chủ trương đó về ngôn ngữ của nhà nước hoặc các tổ chức chính trị trong phạm vi quốc gia hoặc xuyên quốc gia [xem 20, trang 103]. 2) Trong một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ nhất định, hiếm khi chỉ có một ngôn ngữ mà thường là có hai hay nhiều ngôn ngữ khác nhau cùng tồn tại. Điều này xuất phát từ thực tế là các tộc người khác nhau cùng sinh sống đan xen. Trong số những ngôn ngữ cùng tồn tại trong môi trường ấy, thế nào cũng có một ngôn ngữ có vai trò và chức năng nổi trội, lấn át các ngôn ngữ còn lại. Ngôn ngữ đóng vai trò chủ đạo ấy thường là ngôn ngữ của đa số, nhưng cũng có thể là ngôn ngữ của thiểu số - tùy thuộc vào đặc thù thể chế chính trị của quốc gia, vùng lãnh thổ đó. Xung đột giữa các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau để tranh giành vị trí ngôn ngữ chủ đạo vẫn thường xảy ra. Điều này sẽ dẫn đến bất ổn về chính trị, an ninh, trật tự kéo theo là kinh tế, văn hóa, xã hội,… Vì vậy, bên cạnh chính sách phát triển ngôn ngữ chủ đạo, người ta cũng phải có chính sách đối với những ngôn ngữ thứ yếu còn lại (thường là ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số). Việt Nam có tất cả 54 dân tộc anh em cùng chung sống hòa bình, và mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng của mình. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta chưa có văn bản nào chính thức quy định tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia, nhưng trên thực tế có thể nói tiếng Việt đang hành chức là ngôn ngữ quốc gia thực thụ, các ngôn ngữ còn lại giữ vai trò thứ yếu. Vì vậy, bên cạnh chính sách 13 phát triển đối với tiếng Việt, Đảng và Nhà nước ta cũng có những chính sách cụ thể quan tâm đến duy trì và phát triển ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số. Kết hợp định nghĩa về chính sách ngôn ngữ với những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về chính sách ngôn ngữ dân tộc như sau: Chính sách ngôn ngữ dân tộc là chủ trương chính trị và các biện pháp thực hiện chủ trương đó về ngôn ngữ dân tộc của nhà nước hoặc các tổ chức chính trị trong phạm vi quốc gia hoặc xuyên quốc gia. 1.2. Kinh nghiệm xây dựng chính sách ngôn ngữ dân tộc của một số quốc gia trên thế giới 1.2.1. Xu thế chung Chính sách đối với các ngôn ngữ dân tộc thiểu số là một trong hai nội dung quan trọng, không thể thiếu trong chính sách ngôn ngữ của bất kỳ quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ nào. Các vấn đề đặt ra đối với chính sách này thường xoay quanh việc bảo tồn và phát huy các ngôn ngữ dân tộc thiểu số, gồm các nội dung như: việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số với tư cách là tiếng mẹ đẻ; chữ viết các ngôn ngữ dân tộc thiểu số; giáo dục song, đa ngữ;... Có thể nói rằng, không có mô hình chính sách ngôn ngữ dân tộc chung cho mọi quốc gia, thậm chí, cho một nhóm các quốc gia có nền chính trị giống nhau. Bởi mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ đều có cảnh huống ngôn ngữ khác nhau, và các chế độ, điều kiện về chính trị, xã hội,… khác nhau. Vì thế, chính sách ngôn ngữ dân tộc của mỗi quốc gia là khác nhau. Tuy nhiên, về tổng thể, để xây dựng chính sách ngôn ngữ dân tộc, các nước đều phải dựa trên những tiền đề về lý thuyết cũng như khung chung về nền tảng như cảnh huống ngôn ngữ, điều kiện về chính trị, xã hội,… Do đó, việc học hỏi những kinh nghiệm thực tiễn xây dựng chính sách ngôn ngữ dân tộc của các nước 14 trên thế giới để áp dụng vào xây dựng chính sách ngôn ngữ dân tộc ở nước ta là một điều rất cần thiết. Điều này giúp chúng ta đi đúng hướng, tránh được những sai lầm đáng tiếc có thể xảy ra, góp phần tạo dựng một chính sách tổng thể hoàn thiện của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực ngôn ngữ. Thế giới đang bước vào thế kỷ toàn cầu hóa, các nước công nghiệp đang bước vào thời kỳ hậu công nghiệp, các nước đang phát triển thì bước vào thời kỳ công nghiệp hóa. Một xu hướng đang diễn ra trên thế giới là, mỗi quốc gia một mặt cần gắn kết các dân tộc trong nội bộ quốc gia, đồng thời tạo mối quan hệ giữa các quốc gia trong quan hệ khu vực và quan hệ quốc tế, cụ thể là xu hướng liên kết về chính trị, kinh tế, trong khi duy trì, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, bộ tộc trong một quốc gia đang là xu hướng tất yếu. Chẳng hạn, Liên minh Châu Âu có quốc hội chung, thị trường kinh tế chung, đồng Euro chung,… nhưng các nước vẫn duy trì quyền độc lập, bình đẳng về ngôn ngữ của các thành viên; Chính phủ Pháp, một thành viên tích cực của EU, đã ban hành một loạt nghị quyết nhằm ngăn chặn tiếng Anh bị lạm dụng trong đời sống kinh tế nước Pháp; các nước trong khối ASEAN một mặt tạo ra những điểm chung thống nhất về kinh tế nhưng mặt khác lại đa dạng về văn hóa và ngôn ngữ;… [xem 20, trang 103]. Trước tình hình này, nhiều ý kiến cho rằng, các quốc gia cần có sự điều chỉnh về chính sách ngôn ngữ nhằm đẩy mạnh quá trình thống nhất về kinh tế, đồng thời tôn trọng và phát triển văn hóa, ngôn ngữ các dân tộc thiểu số. Điều đó có nghĩa là, ở các quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ, chính sách ngôn ngữ dân tộc cần xây dựng trên cơ sở dung hòa quyền lợi quốc gia và quyền lợi của mỗi dân tộc, tạo nên sự thống nhất - đa dạng về ngôn ngữ. Xuất phát từ thực tiễn đó, trong những năm gần đây, nhiều nước đã có những sự điều chỉnh trong chính sách ngôn ngữ dân tộc. 15 Ở Pháp, nếu như từ năm 1794 đến 1951 có luật cấm sử dụng các ngôn ngữ dân tộc thiểu số và các phương ngữ tiếng Pháp thì đến năm 1971 đã bỏ luật cấm sử dụng các ngôn ngữ Boston, Basco, Katalan, Oxtan… Ở Na Uy, suốt 50 năm, tiếng Saam bị cấm đoán, không được giảng dạy cho người Saam thì ngày nay đã có trường học riêng dạy ngôn ngữ này và có trung tâm văn hóa Saam. Ấn Độ công khai đảm bảo các quyền ngôn ngữ dân tộc thiểu số cho các tiểu bang: sự đảm bảo này được thể hiện bằng một thoả thuận của các bộ trưởng chính yếu của các bang (1961), theo đó, nếu trong một lĩnh vực bất kỳ có 15% dân số thuộc các nhóm thiểu số, thì các tài liệu chính thức phải được xuất bản bằng các ngôn ngữ thiểu số. Nhưng thực tế, các ngôn ngữ dân tộc thiểu số thường bị lãng quên trong giao tiếp chính thức cũng như trong các tài liệu chính thức. Ở Mỹ, tuy không tuyên bố ngôn ngữ nào là ngôn ngữ quốc gia, nhưng tiếng Anh (Anh Mỹ) là một ngôn ngữ nổi trội trong đời sống nước Mỹ. Tiếng Anh là ngôn ngữ cơ bản được dùng trong giao tiếp của nhà nước, trong đối ngoại, trong nền hành chính nội bang, liên bang và địa phương, trong các trường học, trên các phương tiện thông tin đại chúng, thể dục thể thao, giải trí,… Ngay cả đơn từ như xin việc làm, đăng ký thất nghiệp, nhập học, xin cấp bằng lái xe,… cũng phải bằng tiếng Anh. Cho nên những người sống trên đất Mỹ không thể ngoảnh mặt với tiếng Anh mà ngược lại, coi tiếng Anh là một ngôn ngữ bắt buộc. Ngay cả vùng New Mexico coi tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ chính thức và Hawaii coi tiếng Hawaii là ngôn ngữ chính thức thì vẫn không thể bỏ qua tiếng Anh, bởi tiếng Anh được coi là “một nền văn hóa ngôn ngữ đầy quyền uy, mạnh mẽ, áp đảo tất cả các ngôn ngữ khác”. Như vậy, mặc dù là chính sách ngôn ngữ ẩn nhưng những người sinh sống ở Mỹ đều phải hiểu rằng, ngôn ngữ giao tiếp chung mặc nhiên là tiếng 16 Anh, và nỗ lực muốn dùng một ngôn ngữ khác là không phù hợp theo một cách thức nào đó. Do đó, chính sách ngôn ngữ của Mỹ hoàn toàn không phải là “trung hòa” như biểu hiện của nó mà dành đặc ân cho tiếng Anh. Như đã biết, vào thập niên 60 của thế kỷ XX, với học thuyết “nồi đúc” (melting pot), nước này cố gắng làm cho tất cả những người thuộc các dân tộc khác nhau, các nền văn hóa khác nhau cư trú tại Mỹ trở thành một dân tộc duy nhất và chung một thứ tiếng là tiếng Anh. Lý do là vì chính phủ Mỹ cần thúc đẩy sự giống nhau để tạo sức mạnh cho sự thống nhất, tránh chia rẽ. Phong trào “tiếng Anh duy nhất” (English-only) là một biểu hiện rõ ràng của ý đồ chính trị ẩn sau chính sách ngôn ngữ dân tộc. “Thông qua sự giống nhau về ngôn ngữ để hình thành sự giống nhau về suy nghĩ, tình cảm; phong tục tập quán cũng sẽ được nặn đúc theo hướng đồng hóa lẫn nhau, và như vậy, với thời gian, những khác biệt gây ra xung đột sẽ biến mất” (Atkin, 1887). Có thể nói rằng, lịch sử chính sách ngôn ngữ của Mỹ cơ bản là một quá trình ép buộc mọi người trong một phạm vi rộng sử dụng tiếng Anh đồng thời hạn chế quyền sử dụng các ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, thời gian gần đây, sau nhiều biến cố quan trọng, đặc biệt là sau vụ khủng bố 11/9/2001, quan niệm trước đây về vị trí thống soái của tiếng Anh ở Mỹ đã nhường chỗ cho quan niệm về sự đa dạng ngôn ngữ, văn hóa. Khuynh hướng ủng hộ sự đa dạng về ngôn ngữ, văn hóa đặc biệt rầm rộ ở Australia: năm 1973, Chính phủ Công Đảng Australia áp dụng chính sách song ngữ toàn dân, theo đó, mọi công dân Australia phải nắm được ít nhất hai ngôn ngữ là tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài (nếu như tiếng mẹ đẻ là tiếng Anh) hoặc tiếng mẹ đẻ và tiếng Anh (nếu tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Anh). 17 1.2.2. Những kinh nghiệm cụ thể trong chính sách ngôn ngữ dân tộc của một số nước trên thế giới Chính sách ngôn ngữ dân tộc là một vấn đề mà bất kỳ quốc gia có chủ quyền nào cũng rất quan tâm. Vì vậy trong thực tế, có rất nhiều chính sách ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta không thể tham khảo tất cả các cách giải quyết đã có trên thế giới mà phải có một sự lựa chọn nhất định. Việc lựa chọn chính sách của một quốc gia nào đó để tham khảo, trước hết phụ thuộc vào khả năng có hay chưa có tư liệu của nước ấy, sau đó là phụ thuộc vào nước đó có cảnh huống ngôn ngữ giống ta hay không và cuối cùng là những nước đó có láng giềng gần gũi với chúng ta không. Đương nhiên, trong từng giai đoạn nhất định chúng ta sẽ phải tạo điều kiện để từng bước bổ sung đầy đủ những kinh nghiệm của nhiều nước khác nhau và đó chính là nhu cầu hoàn thiện chính sách của chúng ta về vấn đề này. Dưới đây là kinh nghiệm của một số nước có cảnh huống ngôn ngữ tương đối giống với Việt Nam: 1) Kinh nghiệm của Australia Tính đến ngày 29/12/2011, dân số Australia có 22.804.610 người, hàng ngày sử dụng nhiều ngôn ngữ. Sự đa dạng ngôn ngữ không phải là hiện tượng mới có hiện nay của quốc gia này mà là sự đa dạng có từ trước khi người Châu Âu chinh phục. Nơi đây, theo các nhà nghiên cứu, đã từng là xã hội đa ngôn ngữ với khoảng 200 đến 250 ngôn ngữ khác nhau của người bản xứ. Vào cuối thế kỷ XVII, tiếng Anh được đưa vào quốc gia này cùng với nhiều ngôn ngữ khác nhau do dòng người nhập cư từ những vùng khác nhau trên thế giới. Từ giữa thế kỷ 19 đến nay, tiếng Anh là ngôn ngữ có quyền lực lớn nhất và là ngôn ngữ để cho các tập thể không nói tiếng Anh dùng chung trong giao tiếp với nhau, đồng thời ở đây đã có một số lượng không ít các ngôn ngữ bản 18 địa bị tiêu vong. Nhìn một cách tổng thể, Australia là một quốc gia có trạng thái đa dạng ngôn ngữ và ở một chừng mực nhất định, nó gần giống với trạng thái đa ngữ ở địa bàn các dân tộc thiểu số nước ta hiện nay. Ngoài trạng thái đa dạng ngôn ngữ mà chúng ta vừa sơ bộ phân tích ở trên, Australia còn là một quốc gia có địa lý gần gũi trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương. Sự gần gũi về mặt địa lý này phần nào có ảnh hưởng lẫn nhau trong giao lưu khu vực. Chúng ta có thể qua cách xử lý của một quốc gia có một điều kiện địa lý như vậy, chọn lọc những kinh nghiệm cho mình, xây dựng và thực hiện một chính sách hợp lý để phát triển ngôn ngữ văn hóa vùng dân tộc miền núi của nước ta. Như vậy, trong những vấn đề mà chúng ta có thể lựa chọn làm kinh nghiệm cho mình, có lẽ vấn đề dạy và học ngôn ngữ thứ hai trong một số cộng đồng dân cư ở Australia là vấn đề đáng quan tâm nhất. Trường hợp này có thể nói là trường hợp song ngữ của người thổ dân khi họ có ý thức duy trì tiếng mẹ đẻ của họ và học thêm ngôn ngữ quốc gia. Ở nước này, người ta xây dựng một chính sách ủng hộ việc mở rộng và nâng cao trình độ song ngữ, vừa có lợi cho một cộng đồng người cụ thể, vừa có lợi cho xã hội nói chung. Nói một cách khác, nhà cầm quyền Australia rất ủng hộ việc giảng dạy các ngôn ngữ bản địa ở những vùng khác nhau cũng như các ngôn ngữ khác không phải tiếng Anh. Theo Josph Lo Bianco, việc thực hiện giáo dục song ngữ ở đất nước này xuất phát từ bốn mục đích xã hội trực tiếp: a) làm giàu về văn hóa và tri thức cho người học; b) góp phần phát triển kinh tế thông qua việc cung cấp tri thức về sản xuất và trao đổi sản phẩm; c) tạo ra sự bình đẳng và công bằng xã hội cho những cá nhân trong cộng đồng quốc gia: d) nâng cao vị trí của quốc gia trong khu vực và trên thê giới. Tác giả này nhấn mạnh “phần nhiều việc học ngôn ngữ thứ hai được 19 tiến hành theo nhu cầu hơn là sự lựa chọn, các lợi ích về văn hóa và tri thức vẫn là nguyên nhân chính khiến cho người Australia đảm bảo việc dạy ngôn ngữ thứ hai được tiếp tục và đẩy mạnh”. Có thể thấy một điều là những người xây dựng chính sách giáo dục song ngữ bản địa ở nước này nhấn mạnh đến tính nhu cầu của người thụ hưởng giáo dục. Như vậy, việc tiếng mẹ đẻ của một vùng cư dân bản địa nào đó được đưa vào giảng dạy là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của cư dân là chủ thể của ngôn ngữ ấy, mà không phải là sự áp đặt chủ quan của những người xây dựng chính sách. Cách đặt vấn đề như vậy là phù hợp với thực tiễn vì việc học tiếng mẹ đẻ như một ngôn ngữ thứ hai không phải là một vấn đề đơn giản. Nó vừa mất thời gian vật chất của người thụ hưởng giáo dục, nó vừa tốn kém về chi phí để có thể thực hiện điều đó. Vì thế, nếu không xuất phát từ nhu cầu nội tại của người thụ hưởng thì những khó khăn ấy sẽ nhân lên gấp bội, do đó khó có thể thực hiện được. Cùng với việc nhấn mạnh tính nhu cầu trong giáo dục song ngữ, người ta còn thấy ở đây họ nhấn mạnh đến lợi ích về văn hóa tri thức của người thụ hưởng giáo dục song ngữ, coi đây là nguyên nhân chính thúc đẩy, quy định tính nhu cầu của người thụ hưởng sự giáo dục ấy. Rõ ràng, khi thực hiện giáo dục tiếng mẹ đẻ cùng với ngôn ngữ quốc gia cho một bộ phận cư dân nào đó, người ta không thể không tính đến lợi ích về văn hóa của họ. Lợi ích này càng cao thì tính cấp thiết của nhu cầu này càng lớn và điều này cũng chỉ là hệ quả của một vấn đề khác. Đó là tình trạng ngôn ngữ của một cư dân có một nền văn hóa đa dạng và phong phú sẽ gánh trách nhiệm là công cụ phản ánh lợi ích văn hóa ấy nặng hơn ngôn ngữ của một cư dân khác chưa có một sự đa dạng và phong phú văn hóa như vậy. Có lẽ cùng một cách nhìn như vậy mà Josph Lo Bianco viết rằng: “Trong quan hệ với các nhóm văn hóa truyền thống đã có chữ viết, các kiến thức sâu sắc nhất chỉ có thể được lĩnh hội qua 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan