Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát tình trạng mù chữ và tái mù chữ ở thành phố điện biên phủ, tỉnh điện bi...

Tài liệu Khảo sát tình trạng mù chữ và tái mù chữ ở thành phố điện biên phủ, tỉnh điện biên

.PDF
88
1759
65

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ HUYỀN KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG MÙ CHỮ VÀ TÁI MÙ CHỮ Ở THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Hà Nội-2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------*--------------- NGUYỄN THỊ HUYỀN KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG MÙ CHỮ VÀ TÁI MÙ CHỮ Ở THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN Luận văn Thạc sỹ Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 02 40 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS.Trần Trí Dõi Hà Nội-2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, không có sự sao chép ở bất cứ nguồn tài liệu, đề tài luận văn, luận án hay công trình nghiên cứu khoa học của tác giả nào khác. Ngƣời cam đoan Học viên Nguyễn Thị Huyền LỜI CẢM ƠN Để luận văn này đƣợc hoàn thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Trần Trí Dõi – ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn, chỉ bảo tận tình cho em trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong khoa Ngôn ngữ học đã dạy bảo và giúp đỡ nhiệt tình cho em trong suốt thời gian học cao học tại trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn các cán bộ UBND phƣờng Nam Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thu thập tƣ liệu tại địa phƣơng. Hà Nội, tháng 10 năm 2014 Học viên Nguyễn Thị Huyền BẢNG VIẾT TẮT - PCGDTH-XM: Phổ cập giáo dục Tiểu học và Xóa mù - GD&ĐT: Giáo dục và Đào tạo - THCS: Trung học cơ sở - MC: Mù chữ - TM: Tái mù chữ - MHT: Mù chữ hoàn toàn - KHT: Mù chữ không hoàn toàn - THT: Tái mù chữ hoàn toàn - CHT: Tái mù chữ chƣa hoàn toàn. - LHQ: Liên hợp quốc MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................. 3 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 3 2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 4 3. Nội dung nghiên cứu.......................................................................................... 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 5 5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 6 6. Bố cục của đề tài ................................................................................................ 7 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................. 8 1.1. Khái quát về hiện tƣợng Mù chữ và Tái mù chữ ..................................... 8 1.1.1.Những quan niệm về mù chữ và tái mù chữ trên thế giới .......................... 8 1.1.2. Quan niệm về mù chữ và tái mù chữ ở Việt Nam…………………………18 1.2. Khái quát về địa bàn khảo sát .............................................................. 22 1.2.1. Khái quát về tỉnh Điện Biên ................................................................ 22 1.2.2. Khái quát về thành phố Điện Biên Phủ .................................................... 24 1.2.3. Khái quát về địa bàn phường Nam Thanh ............................................... 26 Chƣơng 2: TÌNH TRẠNG MÙ CHỮ VÀ TÁI MÙ CHỮ Ở PHƢỜNG NAM THANH, THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ ..................................... 28 2.1.Tổng hợp kết quả khảo sát tại phường Nam Thanh .................................... 28 2.2. Tình trạng mù chữ và tái mù chữ ở phường Nam Thanh chia theo đơn vị bản ......................................................................................................................... 32 2.3 .Tình trạng mù chữ và tái mù chữ chia theo giới tính ................................. 36 2.4. Tình trạng mù chữ và tái mù chữ ở phường Nam Thanh chia theo độ tuổi......................................................................................................................... 40 2.4.1. Kết quả của cuộc khảo sát........................................................................... 40 2.4.2. Số liệu báo cáo xóa mù theo độ tuổi của địa phương. ............................... 46 2.5. Tình trạng mù chữ và tái mù chữ ở phường Nam Thanh chia theo thành phần dân tộc ......................................................................................................... 48 2.6. Tiểu kết .......................................................................................................... 52 1 Chƣơng 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG MÙ CHỮ VÀ CHỐNG TÁI MÙ CHỮ VÙNG DÂN TỘC MIỀN NÖI VIỆT NAM ................................................................................ 55 3.1. Vấn đề cấp thiết của xóa mù và chống tái mù ........................................... 55 3.2. Một số kiến nghị về giải pháp ...................................................................... 56 3.2.1. Mù chữ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội nước nhà ở vùng dân tộc thiểu số ............................................................................................ 56 3.2.2. Một số đề xuất ............................................................................................. 60 DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 71 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 76 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Theo cách hiểu truyền thống, mù chữ (illiteracy) là tình trạng ngƣời không biết đọc, biết viết. Đây là một tình trạng không chỉ có ở Việt Nam mà có ở nhiều quốc gia trên thế giới và là một trong những vấn đề mang tính cấp bách của nhân loại. Hiện nay thế giới còn gần khoảng 774 triệu ngƣời mù chữ. Những nƣớc có tỉ lệ dân số biết đọc, biết viết cao nhất là Úc (99,9%) tiếp đến là Áo, Bỉ, Canada…Những nƣớc có tỉ lệ ngƣời biết đọc, biết viết thấp nhất là Brkina (12,8%), Niger (14,4%)….Việt Nam có số ngƣời biết đọc, biết viết là 90,3%, đứng vị trí 82/175 nƣớc, đứng sau Mexico, Trung Quốc, Sri Lanka và đứng trƣớc Zimbabwe, Jodan. Tại Hội nghị triển khai dự án “Phát triển chiến lược hệ thống nguồn lực hỗ trợ sang kiến nâng cao năng lực xóa mù chữ tại Việt Nam” diễn ra vào ngày 19 tháng 12 năm 2007 tại Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cho biết nƣớc ta không chỉ có hiện tƣợng mù chữ mà còn xuất hiện cả hiện tƣợng tái mù chữ (Reilliteracy). Điều đáng chú ý là số ngƣời tái mù chữ lại có xu hƣớng gia tăng trong những năm gần đây. Đây là một thực trạng rất đáng lo ngại ở nƣớc ta cần đƣợc quan tâm. Nếu hiện tƣợng mù chữ, tái mù chữ không bị đẩy lùi thì nó sẽ có ảnh hƣởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của nƣớc ta, đặc biệt đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Theo Quyết định số 692/QĐ – TTg ngày 04 tháng 05 năm 2013 của Thủ tƣớng Chính phủ thì Điện Biên là một trong số 14 tỉnh có điều kiện kinh 3 tế - xã hội khó khăn và có tỷ lệ ngƣời mù chữ cao nên đƣợc hỗ trợ Đề án “Xóa mù chữ đến năm 2020”. Điều này cho thấy hiện tƣợng mù chữ và tái mù chữ đang là một vấn đề xã hội mang tính cấp bách ở tỉnh Điện Biên. Thêm vào đó, theo số liệu thống kê của Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Điện Biên Phủ năm 2012, ở thành phố Điện Biên Phủ tỷ lệ ngƣời mù chữ trong độ tuổi từ 15 đến 25 là 0.01%; tỷ lệ ngƣời mù chữ trong độ tuổi từ 26 đến 35 là 0.24%; tỷ lệ ngƣời mù chữ trong độ tuổi từ 36 trở lên là 1.01%. Nhƣ vậy, chúng ta có thể thấy mặc dù thành phố Điện Biên Phủ là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của tỉnh Điện Biên; là nơi có điều kiện và cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục tốt nhất của tỉnh; là nơi có nhiều trƣờng tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia, ngoài ra còn có các trƣờng trung cấp, cao đẳng và các Trung tâm học tập cộng đồng nhƣng tình trạng mù chữ vẫn còn tồn tại. Xuất phát từ thực tiễn cấp bách nói trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “Khảo sát tình trạng mù chữ và tái mù chữ ở thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên”: Trường hợp chọn thí điểm địa bàn phường Nam Thanh để tiến hành khảo sát với mong muốn nhằm tìm hiểu vấn đề này một cách có hệ thống trên cả hai lĩnh vực lý luận và thực tiễn để có đƣợc một cách nhìn gần với thực tế hơn và từ đó đề xuất ra những biện pháp khắc phục sao cho phù hợp với tình hình thực tế của thành phố Điện Biên Phủ nói riêng và cả nƣớc nói chung. 2. Mục đích nghiên cứu Mù chữ và tái mù chữ là một trong những hiện tƣợng của ngôn ngữ học xã hội, phản ánh trình độ phát triển của một xã hội. Chính vì thế, mục đích nghiên cứu của đề tài là: - Tìm hiểu thực trạng mù chữ và tái mù chữ ở 6 bản của phƣờng Nam Thanh. 4 - Từ đó, góp phần tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến tình trạng mù chữ và tái mù chữ ở thành phố Điện Biên Phủ nói riêng và ở Việt Nam nói chung. - Ngoài ra, thông qua việc điều tra thu thập tƣ liệu phục vụ cho đề tài đã đƣa ra những trải nghiệm thực tế, có cơ hội đƣợc nhìn thấy và lắng nghe suy nghĩ, thái độ của ngƣời dân đối với những vấn đề ngôn ngữ ở địa bàn mà họ đang sinh sống để từ đó đề xuất ra những giải pháp khắc phục tình trạng mù chữ và tái mù chữ cho đồng bào dân tộc miền núi. 3. Nội dung nghiên cứu Để thực hiện các mục đích trên, đề tài tiến hành nghiên cứu các vấn đề cụ thể sau: - Tìm hiểu các khái niệm liên quan đến vấn đề mù chữ và tái mù chữ. - Điều tra khảo sát và đánh giá tình trạng mù chữ và tái mù chữ của ngƣời dân đang sinh sống tại 6 bản: Noong Chứn, Pom Loi, Khá, Co Cáng, Noong En và Hoong En thuộc phƣờng Nam Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. - Kiến nghị về các giải pháp xóa mù và chống tái mù chữ ở vùng dân tộc miền núi nói riêng và Việt Nam nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng khảo sát đƣợc tiến hành ở đây là tất cả những ngƣời thuộc độ tuổi đến trƣờng học chữ trở lên (tức 6 tuổi trở lên) trong một đơn vị cƣ trú để nhận diện tình trạng mù chữ và tái mù chữ ở cộng đồng cƣ dân vùng dân tộc miền núi. Thành phố Điện Biên Phủ là một thành phố vùng cao Tây Bắc trực thuộc tỉnh Điện Biên. Vì thế, phạm vi khảo sát đƣợc chúng tôi tiến hành là những đối tƣợng từ 6 tuổi trở lên, hiện đang sinh sống tại các bản : Co Cáng, 5 Pom Loi, Khá, Noong Chứn, Noong En, Hoong En, phường Nam Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. Sau khi tiến hành khảo sát ở những địa điểm trên, chúng tôi thu đƣợc 601 phiếu (trong đó có 1 phiếu không hợp lệ đó là đối tƣợng đƣợc điều tra dƣới 6 tuổi). Đây là kết quả khảo sát điền dã trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ vào tháng 1/2013 của đoàn sinh viên khoa Ngôn ngữ học để thực hiện Đề tài Nhóm A, Mã số: QGTĐ.12.09 do GS. TS Trần Trí Dõi chủ trì. Nhƣ vậy, số liệu này là một phần kết quả của đợt nghiên cứu điều tra điền dã nói trên thuộc địa bàn một thành phố của tỉnh Điện Biên. 5. Phương pháp nghiên cứu Để luận văn đƣợc hoàn thành, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu trong ngôn ngữ học nhƣ sau: Trƣớc hết, đó là phƣơng pháp nghiên cứu điều tra điền dã để thu thập tài liệu và số liệu từ thực tiễn. Ở từng địa bàn khảo sát, mỗi ngƣời dân có một phiếu phỏng vấn với những thông tin về cá nhân (nhƣ tên, tuổi, giới tính, đã đi học chƣa…) cùng một bài đọc tiếng Việt và bài toán ở trình độ tiểu học nhằm kiểm tra khả năng đọc – hiểu, viết cũng nhƣ tính toán của họ.Từ đó, trên cơ sở những tiêu chí về mù chữ, chúng tôi phân loại, xử lý và phân tích số liệu để tìm ra những khác biệt của tình hình mù chữ và tái mù chữ theo từng đặc trƣng về giới tính, độ tuổi, thành phần dân tộc và địa bàn. Đặc biệt, chúng tôi còn tiến hành đối chiếu số liệu xử lý đƣợc với những con số thống kê của Phòng Giáo dục thành phố Điện Biên Phủ, qua đó, rút ra những nhận xét cần thiết. Những thông tin về đặc điểm kinh tế - xã hội cũng nhƣ thực tế trải nghiệm trong nghiên cứu điền dã sẽ là căn cứ cho những phân tích về nguyên nhân khó khăn cho công tác xóa mù chữ và chống tái mù chữ tiếng 6 phổ thông cho đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây. Cuối cùng, chúng tôi sẽ rút ra những nhận xét tổng quát cho vấn đề. Ngoài ra, chúng tôi còn tiến hành tập hợp những tài liệu có liên quan đến đề tài nhƣ sƣu tầm và phân tích những tài liệu từ sách báo, tạp chí, internet… Khi khảo sát điền dã, chúng tôi áp dụng những tiêu chí của Việt Nam đã nói ở trên. Chúng tôi cho rằng, những tiêu chuẩn trong quy định của nhà nƣớc ta về cơ bản là phù hợp với thực tế giáo dục của xã hội ta hiện nay, nhất là đối với vùng dân tộc miền núi. 6. Bố cục của đề tài Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, bố cục của Luận văn gồm có 3 chƣơng sau: Chương 1: Cơ sở lý thuyết. Chương 2: Tình trạng mù chữ và tái mù chữ ở thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên trong giai đoạn hiện nay. Chương 3: Một số đề xuất về giải pháp khắc phục tình trạng mù chữ và chống tái mù chữ ở vùng dân tộc miền núi của Việt Nam. 7 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. Khái quát về hiện tƣợng Mù chữ và Tái mù chữ 1.1.1.Những quan niệm về mù chữ và tái mù chữ trên thế giới 1.1.1.1. Quan niệm của UNESCO UNESCO là cơ quan phụ trách khoa học, giáo dục và văn hóa của Liên hợp quốc (LHQ). Vì thế, quan niệm của cơ quan này là sự thể hiện nhận thức chung của cộng đồng thế giới về hiện tƣợng giáo dục này. Theo tinh thần định nghĩa mà UNESCO thể hiện, có thể hiểu mù chữ là không có khả năng đọc và viết. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm này cũng đƣợc phát triển theo thời gian phù hợp với sự phát triển của xã hội và thế giới. Năm 1958, UNESCO đã đƣa ra định nghĩa ban đầu về mù chữ. Theo đó, “Một ngƣời không biết chữ nếu họ không có hai khả năng đọc và viết một tuyên bố ngắn và đơn giản liên quan đến cuộc sống hằng ngày của họ”. Với nội hàm nhƣ thế, tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc ủng hộ một ý tƣởng “giáo dục cơ bản” nên tập trung chủ yếu vào hai kỹ năng là đọc và viết. Nhƣ vậy, có thể thấy vào thời gian này đối với UNESCO, mù chữ là một thuật ngữ khá “chung chung” là đọc và viết. các Bộ Giáo dục của các nƣớc thành viên LHQ, giáo dục về xóa mù chữ đã đƣợc làm nổi bật khi nhấn mạnh mối liên hệ giữa xóa mù chữ với phát triển xã hội; và lần đầu tiên UNESCO đề xuất chức năng biết đọc, biết viết là phƣơng tiện để con ngƣời phát triển kinh tế - xã hội trong một quốc gia. Với quan niệm nhƣ thế, vấn đề xóa mù chữ đƣợc hiểu là nó đã vƣợt ra ngoài giới hạn của nội hàm biết chữ thô sơ trƣớc đây là chỉ đơn giản là dạy học, dạy viết mà nó gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Tiếp theo vào năm 1978, UNESCO đã thông qua định nghĩa về “mù chữ chức năng”; theo đó, một ngƣời đƣợc coi là “mù chữ chức năng” nếu họ 8 không thể tham gia vào bất kỳ hoạt động nào mà biết đọc, biết viết là điều kiện cần cho hiệu quả hoạt động của các nhóm hoặc cộng đồng đó và cũng không thể sử dụng kỹ năng đọc, viết và tính toán cho sự phát triển của chính mình và của cả cộng đồng. Nhƣ vậy, với quan niệm về “mù chữ chức năng”, UNESCO coi nội hàm “biết chữ” ở mức độ rộng và phức tạp hơn, trong đó nếu “biết chữ” nhƣng không qua kỹ năng ấy để phục vụ cho sự phát triển của chính cá nhân mình và của cả cộng đồng thì bản thân các cá nhân ấy đƣợc coi là ở (hay thuộc) tình trạng mù chữ. Và vào thời điểm hiện nay, tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hiệp quốc đã định nghĩa về khái niệm biết chữ một cách cụ thể hơn. Theo đó, sự biết viết, sự biết đọc hay khả năng biết chữ của một ai đó là “Khả năng nhận biết, hiểu, sáng tạo, truyền đạt, tính toán và dùng chữ được in ra và viết ra liên kết cùng các văn cảnh khác nhau”. Để giải thích rõ hơn khái niệm biết đọc, biết viết mở rộng nói trên, tổ chức năng đã đề nghị phân biệt 3 loại “mù chữ” trong thế kỷ mới, bao gồm: - Loại thứ nhất là những ngƣời “không biết chữ”, do đó “không đọc sách đƣợc”. Đó là những ngƣời “mù chữ” cũ, “không biết chữ” theo nghĩa truyền thống của khái niệm này. - Loại thứ hai là những ngƣời có thể “biết chữ” nhƣng vẫn không phân biệt đƣợc những phù hiệu, tín hiệu mà xã hội hiện đại đang sử dụng phục vụ cho xã hội (ví dụ nhƣ: bảng đèn hiệu giao thông, biển báo nhà vệ sinh nam, nữ v.v). Đây là những kiểu ngƣời có thể “đọc” hay “viết” chữ nhƣng cũng không “hiểu” đƣợc những quy định của xã hội hiện đại. - Và loại thứ ba là những ngƣời “biết chữ” nhƣng không biết hay không có khả năng sử dụng máy tính, một công cụ phổ biến hiện nay trong xã hội để thực hiện học tập, giao lƣu, quản lý công việc. 9 Trong ba loại “mù chữ” ấy, hai loại mù chữ sau đƣợc coi là kiểu mù chữ thiên về “chức năng” hay tính năng”. Những ngƣời này, tuy đã đƣợc giáo dục cơ bản về ngôn ngữ, nhƣng ở phƣơng diện thƣởng thức khoa học – kỹ thuật hiện đại, họ cũng thiếu năng lực nhƣ giống những ngƣời mù chữ “không biết đọc” nhƣ trƣớc đây. Vì thế, ở một mức độ nào đó, họ cũng là những ngƣời vẫn đƣợc coi còn “mù chữ”. Theo những gì đƣợc trình bày ở trên thì UNESCO nhấn mạnh đến việc áp dụng ngôn ngữ phù hợp với những chức năng cơ bản là nghe, nói, đọc, viết. Tƣơng ứng, bốn kỹ năng này có lẽ ứng với các kỹ năng chủ yếu trong cuộc sống là có thể hiểu, có thể diễn đạt lại và có thể sáng tạo hay tái tạo lại. Khi nhìn nhận sự biết đọc và biết viết bao hàm cả sự sáng tạo, định nghĩa của UNESCO đã cố gắng bao quát các hoạt động nhận thức và truyền đạt của ngƣời biết chữ. Có lẽ vì thế mà định nghĩa này mang tính cụ thể và gần gũi với cuộc sống hiện nay hơn. Từ nội dung khái niệm về “biết chữ”, chúng ta có thể nhận biết khái niệm “mù chữ” gồm hai yếu tố cơ bản là: a, “không biết chữ” (không biết đọc, không biết viết, không hiểu nội dung, khả năng truyền đạt lại nội dung của một “văn bản” nào đó); b, “không biết tính toán”, tức là chƣa có thể thực hiện đƣợc những phép đơn giản. 1.1.1.2.Quan niệm về mù chữ ở một số quốc gia Trên thế giới, những quan niệm về biết chữ của các quốc gia thƣờng có xu hƣớng lấy những điều mà UNESCO quy định làm định hƣớng xử lý. Tuy nhiên, ở những quốc gia khác nhau vẫn có một số chi tiết khác biệt nhất định do điều kiện của quốc gia đó. Do vậy, UNESCO đã thực hiện một cuộc khảo sát ở 105 quốc gia từ năm 1993 đến năm 2004 nhằm xác định và nhận biết sự khác nhau trong các định nghĩa quan niệm về biết chữ giữa các nƣớc khác nhau. Theo kết quả công bố rộng rãi trên phƣơng tiện thông tin đại chúng, có khoảng 80% các nƣớc xác định nội dung “biết chữ” chỉ là “khả năng đọc 10 hoặc viết một câu đơn giản trong ngôn ngữ quốc gia hoặc một ngôn ngữ bản địa”. Điều này có nghĩa là, tuy nhiên cộng đồng thế giới có một quan niệm riêng phù hợp với tính chất hay đặc điểm xã hội của nhiều quốc gia trong một thời gian nào đó. Chẳng hạn nhƣ ở Pháp, khái niệm mù chữ là “analphabétisme” hay “Illettrisme”. Đầu những năm 80 của thế kỷ trƣớc, “mù chữ” đã đƣợc xem xét ở quốc gia này trong mối tƣơng quan với hàng loạt các vấn đề xã hội khác, mà vấn đề xã hội liên quan nhiều hơn cả là vấn đề dân nhập cƣ đến từ châu Phi. Bởi vì trong thực tế bộ phận dân cƣ này còn nhiều bất cập trong việc sử dụng ngôn ngữ thứ hai trên đất pháp. Năm 1981, trong một báo cáo về vấn đề nghèo đói, ngƣời ta đã nêu bật thực tế rằng nhiều ngƣời Pháp nghèo đói còn hạn chế trong việc đọc và viết. Tổ chức “ATD Quart – monde” đƣợc thành lập cùng thời gian với sự xuất hiện của quan niệm “biết chữ” nhằm phân biệt một bộ phận ngƣời nghèo Pháp hạn chế trong việc đọc và viết với những công nhân có tay nghề cao nhập cƣ nhƣng lại hoàn toàn mù chữ. Trongh tình hình xã hội nhƣ thế ở Pháp, thuật ngữ biết chữ đƣợc sử dụng ở nƣớc Pháp để mô tả một ngƣời nào đó đã hoàn thành khóa học ở trƣờng tiểu học. Ở một quốc gia châu Âu khác là Anh, trong mọt thời gian dài, ngƣời ta quan niệm rằng “literate/literacy (biết chữ)” có nghĩa là để chỉ một ngƣời có sự thông thạo về văn chƣơng, hay rộng hơn nữa là để chỉ một ngƣời đã nhận đƣợc sự giáo dục tốt, đƣợc học hành đầy đủ. Từ cuối thế kỷ XIX nó mới đƣợc dùng với một nghĩa khác là để chỉ khả năng cơ bản trong việc đọc và viết. Trái nghĩa với “literate/literacy” là “illiterate/illteracy (mù chữ)” và từ này có một phạm vi nghĩa tƣơng đối rộng. Chẳng hạn, một ngƣời đƣợc coi là mù chữ khi anh ta không có khả năng đọc một danh sách mua sắm hoặc không thể nắm bắt hay hiểu đƣợc một ám chỉ của Shakespeare hay Keats. 11 Và sau đó là mù chữ tính năng (chức năng) mà giới hạn của nó là thƣờng để chỉ một ngƣời có thể đọc hoặc viết ở một mức độ nào đó nhƣng ở dƣới một mức tối thiểu cần thiết để vận dụng trong một tình huống xã hội hay yêu cầu trong một công việc ổn định. Gần đây, ý nghĩa của từ biết chữ và mù chữ đã đƣợc mở rộng hơn ý nghĩa ban đầu với việc có thể đọc, viết và bất kỳ lĩnh vực nào của kiến thức. Ví dụ, “mù chữ địa lý” là không thể xác đinh quốc gia trên bản đồ thế giới. Ở Trung Quốc, nội dung khái niệm này còn đƣợc quy định rất cụ thể. Théo đó, ngƣời đƣợc coi là biết chữ nếu anh ta biết ít nhất là 2000 ký tự (những ngƣời sinh sống tại các khu vực đô thị) và 1500 ký tự (đối với những ngƣời sống ở khu vực nông thôn). Việc quy định này, nhƣ vậy, là phụ thuộc vào đặc điểm xã hội – giáo dục của đất nƣớc Trung Quốc. Với những ví dụ minh họa ở trên, chúng ta có thể nói , không có một định nghĩa thống nhất, đúng cho mọi quốc gia cho dù đó là định nghĩa của UNESCO. Vì thế, dựa trên quan niệm chung là UNESCO đƣa ra về khái niệm mù chữ, mỗi quốc gia sẽ xây dựng cho mình một định nghĩa riêng, phù hợp với trình độ, đặc điểm ngôn ngữ và điều quan trọng là phải phù hợp với xã hội của quốc gia đó trong giai đoạn lịch sử hiện tại. 1.1.2.Quan niệm về hiện tượng mù chữ và tái mù chữ ở Việt Nam Với logic nhƣ vậy, chúng ta sẽ thấy rằng, Việt Nam cũng có quan niệm về “mù chữ” theo cái cách của quốc gia mình”. Trong tiếng Việt, từ “mù” dùng để chỉ hiện tƣợng mắt của một ngƣời nào đó không có khả năng nhìn thấy” (người mù, mù mắt). Do đó, từ mù chữ là một cách nói hình ảnh ẩn dụ, chỉ khả năng một ai đó không đọc đƣợc, không hiểu đƣợc con chữ hay văn bản. Theo GS.TS. Trần Trí Dõi: “Có thể hiểu ai đó tuy nhìn bằng mắt nhƣng khi nhìn vào “chữ” không khác gì không nhìn thấy vì không hiểu đƣợc giá trị của “âm” và “nghĩa” của chữ có trƣớc mắt mình. Còn tái mù chữ là hiện 12 tƣợng “mù chữ trở lại” sau một thời gian đã biết chữ”. Nhƣ vậy, hiện tƣợng tái mù chữ không đƣợc định nghĩa một cách riêng rẽ, cụ thể, tách bạch mà đƣợc nhận diện thông qua việc định nghĩa hiện tƣợng mù chữ. Về cách hiểu về hiện tƣợng mù chữ ở Việt Nam cũng có những cách hiểu hay giải thích và quan niệm khác nhau. 1.1.2.1. Quan niệm của một số tác giả trong nước Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên , mục từ “mù chữ” đƣợc giải thích là tình trạng: “Không biết đọc, biết viết (tuy ở tuổi đáng lẽ đã được học, đã biết chữ)”[Hoàng Phê (2007),tr.798]. Theo nội hàm định nghĩa trong từ điển nhƣ thế, khái niệm “mù chữ” ở đây đƣợc diễn giải là “những ngƣời đến tuổi đi học mà không biết đọc, không biết viết thì là những ngƣời mù chữ”. Nhƣ vậy, theo định nghĩa của “Từ điển tiếng Việt”, hợp thành khái niệm mù chữ sẽ bao hàm hai nội dung làm thành tiêu chí nhận diện là không biết đọc và không biết viết. Nhƣng với hai nội dung trên, rõ ràng, cách hiểu về mù chữ là chƣa phản ánh đƣợc hết nội hàm của khái niệm này. Bởi vì, nếu xác định khái niệm “mù chữ” đồng nghĩa với khái niệm “không biết chữ”, ngƣời ta sẽ thấy hai nội dung “không biết đọc, không biết viết” sẽ không hoàn toàn tƣơng ứng với khái niệm “không biết chữ”. Bởi vì, khái niệm “biết chữ” (literacy) phải là biết đọc, biết viết và phải hiểu âm / chữ mình đọc đƣợc (tức là hiểu chữ). Theo đó, khái niệm “không biết chữ” theo logic sẽ là sự phủ định khái niệm “biết chữ”. Tuy nhiên, trong thực tế định nghĩa khái niệm “biết chữ” không phải là một công việc đơn giản. Bởi vì ngƣời ta phải xem xét nó trong mối quan hệ với những hiện tƣợng xã hội khác và tùy theo hoàn cảnh của mỗi quốc gia và thích ứng với từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Vì thế, có thể nói khái niệm “mù chữ” trong một mức độ nhất định phụ thuộc vào chính sách giáo dục của một nhà nƣớc cụ thể. 13 Qua cách giải thích mục từ “mù chữ” nhƣ đã nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng từ “mù chữ” trong “Từ điển tiếng Việt” đã đƣợc định nghĩa thông qua cách phủ định khái niệm ngƣợc lại với nó, đó là “biết chữ”. Cách giải thích nhƣ vậy chỉ mới xét thuần về mặt “chữ nghĩa”. Nó đáp ứng đƣợc yêu cầu của môt cuốn từ điển tƣờng giải ở mức độ phổ thông, song lại chƣa phản ánh hết đƣợc nội dung của hiện tƣợng mù chữ. Do đó, nếu muốn tìm hiểu sâu về hiện tƣợng này thì không thể lấy đây làm căn cứ đánh giá một cách rõ ràng đƣợc. Tác giả Phạm Tất Thắng trong đề tài nghiên cứu cấp Bộ thực hiện tại Viện ngôn ngữ học về “Tình hình mù chữ, tái mù chữ và vấn đề xóa mù chữ ở Việt Nam trong thời kỳ hiện đại hóa, công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế”, [43; tr.7-8] đã đề nghị rằng khái niệm “mù chữ” trong từ vựng tiếng Việt cần phải đƣợc phân biệt trong hai trƣờng hợp sử dụng khác nhau. Trƣờng hợp thứ nhất, “mù chữ” chỉ một hiện tƣợng xã hội thuộc địa hạt giáo dục, đó là “tình trạng không biết chữ”. Trƣờng hợp thứ hai, “mù chữ” chỉ một trạng thái thuần túy bệnh lý hay bệnh học. Đối với trƣờng hợp thứ nhất, ngƣời ta có thể khắc phục đƣợc bằng việc “đi học chữ”, tức đến trƣờng học chữ; còn đối với trƣờng hợp thứ hai, do là một chứng bệnh lý nên cần điều trị theo y khoa. Những tác giả thực hiện “đề tài cấp Bộ” cũng giải thích thêm rằng hai trƣờng hợp trên thực chất là hai tên gọi (hay hai từ) đồng âm, tức là những từ có âm đọc giống nhau nhƣng ý nghĩa lại khác nhau. Theo đó, một tên gọi là ẩn dụ từ vựng, một tên gọi khác là tên gọi có quy chiếu biểu vật. Nếu xét trong quan hệ với tiếng Anh, tên gọi thứ nhất có từ tiếng Anh tƣơng ứng là “illiteracy”, tên gọi thứ hai là “word-blindness” (hay dyslexia, alexia). Các từ tiếng Anh này đƣợc giải thích: “illiteracy” đƣợc định nghĩa là trái với “literacy”, còn “literacy” đƣợc định nghĩa là “cái năng lực đọc và viết”. 14 “Dyslexia” đƣợc định nghĩa “(thuộc lâm sàng) một chứng bệnh ảnh hƣởng đến khả năng đọc. Sự giải thích trên giúp ngƣời ta có thể phân biệt hai từ đồng âm khác nghĩa này trong các ngữ cảnh sau đây: a,Một là tên gọi bệnh mù chữ nằm cùng hệ thống với tên gọi nhƣ bệnh mù màu (colour – blindness); b, Hai là tình trạng “không biết chữ” là một cái “nạn” chứ không phải một thứ “bệnh”. Nhóm tác giả thực hiện “đề tài cấp Bộ” nói trên còn giải thích thêm rằng theo cách gọi ẩn dụ của từ “mù chữ”, trong thời đại công nghệ hóa hiện nay, ngƣời Việt Nam còn có cách nói “mù máy tính” (computer illiteracy) thay cho cách dịch đáng phải có là “không biết về máy tính” hay “ dốt về máy tính”, “mù pháp luật” (legal illiteracy) thay cho cách dịch “không biết về pháp luật” hay “không hiểu pháp luật”, thậm chí còn có cách nói “mù tịt về điện” với nghĩa là “mù” hay “không có” kiến thức về điện... Nhƣ vậy, cho đến nay, chúng ta thấy, có lẽ cũng chỉ có những tác giả nói trên “quan niệm” về khái niệm “mù chữ” một cách tƣờng minh nhƣ vậy. Còn phần lớn, ngƣời ta nói đến khái niệm này một cách tự nhiên, với ý nghĩa nhƣ “Từ điển tiếng Việt” đã định nghĩa. 1.1.2.2. Quan niệm của nhà nước Việt Nam và Bộ GD&ĐT Cho đến nay, Chính phủ và bộ GD&ĐT Việt Nam chƣa đƣa ra một định nghĩa cụ thể nào về khái niệm “mù chữ” và “tái mù chữ”. Tuy nhiên, ngƣời ta có thể nhận biết quan niệm về hiện tƣợng này của Nhà nƣớc và Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam khi theo dõi những Thông tƣ hay Quyết định, Hƣớng dẫn đã đƣợc ban hành từ khi có thể chế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay liên quan đến hoạt động “xóa mù” và PCGDTH ở Việt Nam. a. Về khái niệm “mù chữ” Nhƣ chúng ta đã biết, ở nƣớc ta sau khi thành lập nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nƣớc đã phát động một phong trào “Bình dân học vụ” để 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan