Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát việc phân bổ và xử lý các cấu trúc cú pháp cơ bản trong các giáo trình ...

Tài liệu Khảo sát việc phân bổ và xử lý các cấu trúc cú pháp cơ bản trong các giáo trình dạy tiếng việt cho người nước ngoài bậc nâng cao

.PDF
95
1325
107

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------ BÙI BỘI THU KHẢO SÁT VIỆC PHÂN BỐ VÀ XỬ LÝ CÁC CẤU TRÚC CÚ PHÁP CƠ BẢN TRONG CÁC GIÁO TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI BẬC NÂNG CAO (TRÊN CƠ SỞ NGỮ LIỆU CÁC GIÁO TRÌNH TIẾNG VIỆT BẬC NÂNG CAO TỪ NĂM 1980 ĐẾN NĂM 2008) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Ngôn ngữ học HÀ NỘI – 2011 LuËn v¨n Th¹c sü MỤC LỤC MỤC LỤC ………………………………………………………………….................1 PHẦN MỞ ĐẦU ………………………………………………………………………5 1. Lời mở đầu ………………………………………………………………................5 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu………………………………………...........6 2.1. Đối tượng nghiên cứu……….……………………………………………..6 2.2. Phạm vi nghiên cứu….…………………………………………………….6 3. Mục tiêu của đề tài……….……………………………………………….………...6 4. Phƣơng pháp và tƣ liệu nghiên cứu………..……………………………………...7 4.1. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………….........7 4.2. Tư liệu……………………………………………………………................7 5. Bố cục của luận văn………………………………………………………………...8 NỘI DUNG……………………………………………………………….....................9 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN……………………………………………………...9 1.1. Cấu trúc cú pháp................………………………….…………………………….9 1.2. Các thành phần câu ..............................................................................................11 1.3. Phân loại câu theo cấu trúc - ngữ nghĩa..............................................................13 CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT SỰ PHÂN BỐ VÀ XỬ LÝ CÁC CẤU TRÚC CÚ PHÁP CƠ BẢN TRONG CÁC GIÁO TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI BẬC NÂNG CAO TỪ NĂM 1980 ĐẾN 2008............................... 27 2.1. Phân loại các cấu trúc cú pháp cơ bản trong các giáo trình dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài bậc nâng cao từ năm 1980 đến năm 2008…………………………………………………………………………27 2. 2. Sự phân bố cấu trúc cú pháp…………………………………………………..34 2.2. Sự phân bố cấu trúc cú pháp trong các giáo trình……………………………..34 2.2.2. Sự phân bố các cấu trúc cú pháp ở từng bài trong mỗi giáo trình …………………………………………………………………38 2.2.3. Một vài nét về sự phân bố và xử lý các cấu trúc biến thể………………………………………………………………………..44 1 LuËn v¨n Th¹c sü 2.2.4. Một vài nét về các cấu trúc xuất hiện trong giáo trình nhưng không được giải thích………………………………………………….47 2.3. Việc xử lý các cấu trúc cú pháp trong bài……………………………………54 2.3.1. Cách giải thích cấu trúc cú pháp trong các giáo trình………………...54 2.3.2. Cách luyện cấu trúc cú pháp trong các giáo trình nâng cao……………………………………………………………………… 64 CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP TỐI ƢU TRONG VIỆC ĐƢA VÀ XỬ LÝ NGỮ LIỆU CÁC CẤU TRÚC CÚ PHÁP CƠ BẢN TRONG VIỆC XÂY DỰNG GIÁO TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT NÂNG CAO………………………………………………………………………….80 3.1. Vai trò của việc dạy cấu trúc cú pháp trong việc dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài……………………………………………………80 3.2. Nhận xét về việc xử lý cấu trúc cú pháp trong các giáo trình dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài ở bậc nâng cao……………………………...83 3.3. Giải pháp………………………………………………………………………...86 KẾT LUẬN…………………………………………………………………………..90 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………..92 PHỤ LỤC 2 LuËn v¨n Th¹c sü BẢNG CHỮ VIẾT TẮT BN, B, b: Bổ ngữ CN, C: Chủ ngữ DT, dt: danh từ ĐN: Định ngữ ĐT, đt: Động từ GB: Bổ ngữ gián tiếp MĐ: Mệnh đề P, p: Thành phần phụ của câu, của cú Tn: Từ nối TR: Trạng ngữ TT: Tính từ V, v, VN: Vị ngữ 3 LuËn v¨n Th¹c sü MỘT SỐ QUY ƢỚC Các số La Mã đánh dấu số thứ tự của các giáo trình cũng sẽ là những ký hiệu viết tắt tên giáo trình. Ví dụ: I là giáo trình tiếng Việt thực hành, tập II của tập thể tác giả Trường Đại học Tổng hợp; II là giáo trình Tiếng Việt (Vietnamese) Intermediate 3 của tác giả Phan Văn Giưỡng. I. Giáo trình tiếng Việt thực hành, tập II, Trường Đại học Tổng hợp, Khoa tiếng Việt, Nhà in Bộ Tham mưu, 1980. II. Tiếng Việt (Vietnamese) Intermediate 3, Phan Văn Giưỡng, NXB trẻ, 1994. III. Tiếng Việt (Vietnamese) Intermediate 4, Bửu Khải - Phan Văn Giưỡng, NXB trẻ, 1998. IV. Tiếng Việt nâng cao (Intermediate Vietnamese), Nguyễn Thiện Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998. V. Thực hành tiếng Việt, trình độ B, Đoàn Thiện Thuật (chủ biên), NXB Thế giới, Hà Nội, 2001. VI. Tiếng Việt cho người nước ngoài, trình độ nâng cao, Trịnh Đức Hiển (chủ biên), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004. VII. Giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, tập 3, Nguyễn Văn Huệ (chủ biên), NXB Giáo dục, Tp HCM, 2004. VIII. Giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, tập 4, Nguyễn Văn Huệ (chủ biên), NXB Giáo dục, Tp HCM, 2004. 4 LuËn v¨n Th¹c sü PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lời mở đầu Những năm gần đây, do nhu cầu giao lưu kinh tế, thương mại, văn hóa giữa các nước ngày càng tăng, số lượng người nước ngoài đến Việt Nam ngày càng nhiều. Để mọi hoạt động giao lưu đó đạt kết quả, tiếng Việt tất yếu trở thành phương tiện giao tiếp hữu hiệu. Chính vì để đáp ứng nhu cầu đó mà nhiều trung tâm dạy tiếng Việt cho người nước ngoài đã ra đời. Đặc biệt là nhiều hội nghị khoa học bàn về vấn đề dạy và học tiếng Việt như một ngoại ngữ đã được tổ chức trên các quy mô trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, số lượng giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài rất phong phú và đa dạng: Có giáo trình phục vụ cho đào tạo hệ cử nhân tiếng Việt và văn hoá Việt Nam, có giáo trình phục vụ cho du lịch, có giáo trình tiếng Việt dạy riêng cho người Nhật, người Hàn hoặc cho những người mà ngôn ngữ thứ nhất của họ là tiếng Anh… Nhìn chung, số lượng giáo trình dạy tiếng Việt rất nhiều nhưng hiện nay chúng ta vẫn chưa có một giáo trình nào được coi là chuẩn mà chỉ có những giáo trình được sử dụng phổ biến và những giáo trình ít được sử dụng. Mỗi giáo trình đều được viết theo quan điểm riêng, độ dài, số lượng bài không giống nhau. Đồng thời, việc nghiên cứu, biên soạn những cuốn giáo trình dạy tiếng Việt thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá và giảng dạy tiếng Việt. Vì vậy, khảo sát các giáo trình dạy tiếng Việt là một việc làm cần thiết và hữu ích, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Việt cho người nước ngoài. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ đi sâu vào khảo sát việc phân bố và xử lý các cấu trúc cú pháp cơ bản trong các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài bậc nâng cao (Trên cơ sở ngữ liệu các giáo trình tiếng Việt bậc nâng cao từ năm 1980 đến năm 2008). 5 LuËn v¨n Th¹c sü Mặt khác, chúng tôi lựa chọn đề tài này để nghiên cứu cũng là vì tiếng Việt là ngôn ngữ giàu bản sắc văn hóa và hết sức đa dạng trong cách sử dụng ngôn từ. Do đó, nhiều khi một mẫu câu được thể hiện trong giao tiếp lại bị nhiều người phê phán rằng: Người Việt chả ai nói thế bao giờ” hoặc “Câu này hơi thiếu tự nhiên”… Vì thế, việc truyền đạt, thể hiện các các cấu trúc của câu trong một giáo trình không phải là việc đơn giản, đòi hỏi giáo viên và đặc biệt người viết giáo trình phải có một kiến thức ngữ pháp chắc chắn. Hơn nữa, chúng tôi thiết nghĩ, cấu trúc cú pháp cũng là vấn đề rất quan trọng đối với việc học của các học viên nước ngoài. Dựa trên những cấu trúc cú pháp, người học có thể vận dụng trong việc xây dựng nên đơn vị cơ bản (câu) để góp phần hoàn thiện khả năng giao tiếng bằng tiếng Việt của mình. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi tập trung vào nghiên cứu và khảo sát sự phân bố, xử lý các cấu trúc cú pháp được thể hiện trong các giáo trình tiếng Việt cho người nước ngoài ở bậc nâng cao. Những giáo trình này đã và đang được sử dụng, giảng dạy ở các trường, các trung tâm dạy tiếng, được xuất bản trong nước từ năm 1980 đến năm 2008. Chúng tôi sẽ tập trung khảo sát ở các phần bài hội thoại, bài đọc, bài tập, bài luyện. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ khảo sát các cấu trúc cú pháp trong các phần: - Bài hội thoại - Phần chú thích ngữ pháp - Bài đọc - Bài luyện - Bài tập 6 LuËn v¨n Th¹c sü Như vậy, hầu hết các phần trong giáo trình chúng tôi đều khảo sát với mong muốn đem lại một kết quả khả quan trong việc nghiên cứu các cấu trúc cú pháp cơ bản. 3. Mục tiêu của đề tài - Khảo sát và xác định được các cấu trúc cú pháp cơ bản trong các giáo trình tiếng Việt nâng cao - Khảo sát sự phân bố các cấu trúc cú pháp cơ bản trong giáo trình tiếng Việt bậc nâng cao thể hiện trong các bài của giáo trình - Khảo sát việc xử lý các cấu trúc cú pháp cơ bản trong các giáo trình ở bài hội thoại, bài đọc, ghi chú ngữ pháp, luyện tập và bài tập - Khảo sát xem trong các giáo trình đó việc đưa các cấu trúc vào bài học có phức tạp hay không, mức độ dễ, khó như thế nào, có hợp lý hay không. - Trên cơ sở khảo sát, đề xuất một số giải pháp tối ưu trong việc đưa và xử lý các cấu trúc cú pháp cơ bản trong việc biên soạn giáo trình tiếng Việt bậc nâng cao Với những mục tiêu đề ra như trên, chúng tôi mong muốn góp phần cải tiến chất lượng trong việc biên soạn các giáo trình tiếng Việt cho người nước ngoài như một ngoại ngữ, cũng như góp phần vào hoàn thiện vấn đề lý thuyết, phương pháp dạy tiếng nói chung và vấn đề lý thuyết cú pháp nói riêng. 4. Phƣơng pháp và tƣ liệu nghiên cứu 4.1. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong luận văn là: - Phương pháp thống kê, phân loại - Phương pháp phân tích - Phương pháp so sánh, đối chiếu - Phương pháp phân tích, miêu tả - Phương pháp quy nạp, diễn dịch 7 LuËn v¨n Th¹c sü 4.2. Tư liệu Trong phần khảo sát, chúng tôi chỉ tập trung vào khảo sát giáo trình bậc nâng cao (không khảo sát giáo trình chuyên ngành, hoặc những giáo trình phục vụ cho những đối tượng riêng biệt). Dưới đây là một số giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài mà chúng tôi sẽ khảo sát trong luận văn: 1. Trường Đại học Tổng hợp, Khoa tiếng Việt, Giáo trình tiếng Việt thực hành, tập II, Nhà in Bộ Tham mưu, 1980. 2. Phan Văn Giưỡng, Tiếng Việt (Vietnamese) Intermediate 3, NXB trẻ, 1994. 3. Bửu Khải - Phan Văn Giưỡng, Tiếng Việt (Vietnamese) Intermediate 4, NXB trẻ, 1998. 4. Nguyễn Thiện Nam, Tiếng Việt nâng cao (Intermediate Vietnamese), NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998. 5. Đoàn Thiện Thuật (chủ biên), Thực hành tiếng Việt, trình độ B, NXB Thế giới, Hà Nội, 2001. 6. Trịnh Đức Hiển (chủ biên), Tiếng Việt cho người nước ngoài, trình độ nâng cao, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004. 7. Nguyễn Văn Huệ (chủ biên), Giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, tập 3, NXB Giáo dục, Tp HCM, 2004. 8. Nguyễn Văn Huệ (chủ biên), Giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, tập 4, NXB Giáo dục, Tp HCM, 2004. 5. Bố cục của luận văn Phần mở đầu Nội dung Chương 1: Cơ sở lý luận Chương 2: Khảo sát sự phân bố và xử lý các cấu trúc cú pháp cơ bản trong các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài bậc nâng cao từ năm 1980 đến năm 2008 Chương 3: Giải pháp tối ưu trong việc đưa và xử lý ngữ liệu các cấu trúc cú pháp cơ bản trong việc xây dựng giáo trình tiếng Việt nâng cao Kết luận 8 LuËn v¨n Th¹c sü NỘI DUNG CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Cấu trúc cú pháp Cú pháp học là một địa hạt của ngôn ngữ học nghiên cứu các quy tắc tổ chức câu. Đối tượng nghiên cứu của cú pháp học là các phạm trù ngữ pháp của câu, các kiểu quan hệ, các phương thức và các dạng thức biểu diễn các quan hệ cú pháp của câu, thể hiện trên cấu trúc câu. Có hai cách hiểu mô hình cấu trúc câu: Cách hiểu thứ nhất: “Cấu trúc câu là cấu trúc không khai triển và có tính hoàn chỉnh ngữ pháp. Tất cả các yếu tố dùng khai triển câu đều ở ngoài phạm vi mô hình. Như vậy mô hình câu là mẫu khái quát gồm một hoặc vài hình thức ngôn ngữ thường trực biểu diễn quan hệ cú pháp và như một đơn vị vị ngữ đủ về mặt ngữ pháp” [31; 21]. Trung tâm mô hình là vị ngữ. Cách hiểu thứ 2: Mô hình là cấu trúc có đầy đủ các yếu tố ngữ pháp và thông báo. Người ta có thể xây dựng nhiều mô hình cấu trúc khác nhau, nhưng mô hình C – V là kết cấu cú pháp nhỏ nhất. Một số tác giả cho rằng chủ ngữ (C) và vị ngữ (V) làm thành nòng cốt của câu đơn tiếng Việt, trong đó vị ngữ là cốt lõi, có chức năng quan trọng về mặt thông báo. Tuy nhiên, không phải bất cứ câu nào viết ra cũng chỉ có một mô hình nhất định mà nó còn có nhiều biến thể. Biến thể trong phạm vi của mô hình cấu trúc câu trước hết gắn liền với sự có mặt của các yếu tố mở rộng mô hình. Nhiều khi những yếu tố mở rộng mô hình này lại rất quan trọng, nó bổ sung nghĩa cho câu, hay nói cách khác nó làm cho câu hoàn chỉnh về mặt thông báo, làm dấu hiệu để khu biệt với các mô hình khác. [33] Theo Hoàng Trọng Phiến thì việc xác định, miêu tả, xây dựng mô hình cấu trúc cú pháp có thể đi từ hai hướng: 9 LuËn v¨n Th¹c sü + Mở rộng kết hợp với chuyển đổi tất cả các vị trí trong mô hình trừ vị trí của động từ vị ngữ. + Thu gọn bằng cách bỏ bớt các yếu tố biên, trước hết là các yếu tố tuỳ tiện. Trong quá trình nghiên cứu về câu tiếng Việt, Hoàng Trọng Phiến cũng đưa ra một số mô hình cơ bản của câu đơn và mô hình của câu ghép. Mô hình cơ sở của câu đơn: C – V Mô hình tổng quát: P – C – V - B Mô hình suy diễn: Px - Cx - Vx - Bx (Trong đó C: chủ ngữ, V: vị ngữ, B: bổ ngữ, P: thành phần phụ của câu, x: tượng trưng cho quá trình khai triển cấu trúc của các thành phần câu) Trong mỗi mô hình này lại có những biến thể khác. Câu ghép có từ nối có mô hình tiêu biểu là: XA + YB (X,Y là những cặp từ nối; A, B là các mệnh đề mà mỗi vế đều có tính vị ngữ riêng của mình.). [33] Ngoài ra, Nguyễn Cao Đàm trong luận án Phó Tiến sĩ nghiên cứu về câu đơn hai thành phần, cũng đưa ra hai nhóm mô hình của câu đơn: Nhóm A: mô hình C – V, C- V – Tr, C - V/(cụm từ cố định/thành ngữ) C– V là+từ/ngữ/mệnh đề Nhóm B: mô hình C - V – B, C – V- B – GB, C – V – B1- B2, C – V – B - Tr (Trong đó: C: chủ ngữ, V: vị ngữ, B: bổ ngữ, GB: Bổ ngữ gián tiếp, Tr: trạng ngữ) Và trong mỗi nhóm này lại có những biến thể khác nhau. Như vậy, cấu trúc cú pháp được hiểu một cách ngắn gọn là cách tổ chức sắp xếp của các kiểu câu khác nhau trong một ngôn ngữ cụ thể, trong đó có sự tham gia của các thành phần câu, mỗi thành phần đều thực hiện một chức năng nào đó. 10 LuËn v¨n Th¹c sü 1.2. Các thành phần câu Theo Hoàng Trọng Phiến thì “Câu là một đơn vị giao tế hai mặt. Một mặt, nó là cấu trúc ngữ pháp, phản ánh các phạm trù ngữ pháp của riêng mình. Mặt khác nó mang lượng thông tin nhất định. Chính cái sức chuyển vận giao tế này của câu có ảnh hưởng tích cực đến cấu trúc ngữ pháp của nó, đặc biệt tạo điều kiện xuất hiện các thành phần câu và trật tự phân bố các thành phần câu.” [33; 106] Theo nguyên tắc vị trí và cấu tạo câu thì thành phần câu được chia thành hai loại: thành phần chính và thành phần thứ. Dựa vào nguyên tắc tính chất mối liên hệ cú pháp và các ý nghĩa cơ bản của các thành phần câu, các thành phần chính lại chia ra chủ ngữ và vị ngữ; còn trong thành phần thứ có bổ ngữ, trạng ngữ, định ngữ, vị ngữ thứ yếu và một số thành phần khác như: thành phần chuyển tiếp, thành phần khởi ý… Riêng tác giả Đào Thanh Lan cho rằng có bảy thành phần câu tiếng Việt: đề ngữ, thuyết ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ, chu ngữ, minh xác ngữ, định ngữ. Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Minh thuyết lại cho rằng tiếng Việt có các thành phần câu: vị ngữ, chủ ngữ, bổ ngữ, khởi ngữ, tình thái ngữ, định ngữ, trạng ngữ. Trong đó vị ngữ, chủ ngữ và bổ ngữ là thành phần chính của câu, còn các thành phần khác là thành phần phụ. * Chủ ngữ: chủ ngữ có ý nghĩa biểu thị đối tượng. Đối tượng này có quan hệ với vị ngữ về phương diện của chủ thể hành động, chủ thể sở hữu, chủ thể tiếp nhận, chủ thể phẩm chất…Chủ ngữ có yếu tố như một chủ tố – yếu tố trung tâm thu hút yếu tố biên để làm thành nhóm chủ ngữ. Chủ ngữ có thể được cấu tạo bằng một từ, một tiếng, một cụm từ, một kết cấu… * Vị ngữ là thành phần chính tác động đến toàn bộ câu, nó có liên đới đến nhiều thành phần khác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Về ý nghĩa, vị ngữ biểu thị sự hoạt động, tính chất, trạng thái của con người, hiện tượng, sự vật được nêu lên ở chủ ngữ. * Bổ ngữ là thành phần phụ của câu. Nó có ý nghĩa chỉ ở trong mối liên hệ, chịu chi phối của động từ làm vị ngữ. Bổ ngữ có chức năng ngữ nghĩa như sau: - Chức năng biểu thị đối tượng hay công cụ của hành động 11 LuËn v¨n Th¹c sü - Chức năng chi tiết hoá, chính xác hoá hành động hay phẩm chất về mặt số lượng. Bổ ngữ là thành phần phụ nhưng lại có tác động đến toàn cấu trúc câu. Bổ ngữ cần thiết để biểu hiện ý nghĩa hoàn chỉnh của câu. Việc xếp bổ ngữ vào thành phần chính hay thành phần phụ của câu gây ra nhiều tranh luận. Có người cho rằng đây là thành phần chính của câu như Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Minh Thuyết, lại có người cho rằng đây là thành phần phụ như các tác giả Hoàng Trọng Phiến, Nguyễn Cao Đàm. * Trạng ngữ là một trong những thành phần thứ yếu của câu. Nó thường mang ý nghĩa đặc điểm không gian, thời gian, nguyên nhân, mục đích… Tuy nhiên, cần phải chú ý đến sự khác nhau giữa trạng ngữ và trạng tố. Tác giả Hoàng Trọng Phiến phân biệt hai thành phần này dựa vào các đặc điểm sau: - Trạng ngữ là thành phần của câu, còn trạng tố là yếu tố của nhóm động từ hoặc tính từ đi sau các yếu tố đó xác minh cho từ trung tâm của nhóm. - Về vị trí: Trạng ngữ thường đứng đầu câu, trạng tố tương đối cố định sau động từ vị ngữ. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp trong cuốn “Thành phần câu tiếng Việt” đưa ra một số tiêu chí để phân biệt trạng ngữ và trạng tố: - Quan hệ phụ thuộc với nòng cốt - Khả năng cải biến vị trí mà không làm thay đổi quan hệ giữa các thành tố còn lại trong câu. [42] Đào Thanh Lan lại phân biệt hai thành phần này lại dựa vào vị trí: Thành phần trạng tố thường đứng cuối hoặc giữa câu và bổ sung ý nghĩa cho vị từ, thành phần trạng ngữ của câu thường đứng đầu câu và bổ sung nghĩa cho cả câu. [31] * Về định ngữ, theo Nguyễn Cao Đàm thì định ngữ không được coi là thành phần câu thực thụ mà nó chỉ là thành phần phụ mở rộng của tất cả các thành phần câu. Còn Hoàng Trọng Phiến cho đây là thành phần phụ thuộc trong tổ chức câu. Định ngữ bao giờ cũng đứng sau yếu tố mà nó thuyết minh. 12 LuËn v¨n Th¹c sü Ngoài ra còn có một số thành phần phụ khác khác như thành phần chuyển tiếp, khởi ý… 1.3. Phân loại câu theo cấu trúc - ngữ nghĩa Hầu hết các nhà nghiên cứu đều chia câu thành hai loại câu đơn và câu ghép. Tuy nhiên trong nội bộ các câu này lại có sự phân chia khác nhau. 1.3.1. Quan niệm của Hoàng Trọng Phiến trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt – câu” - Câu đơn: Câu đơn phần lớn ứng với kết cấu hạt nhân C - V (chủ - vị), ngoài ra, nó còn được xây dựng bằng những đơn vị khác như: tiếng, từ, đoản ngữ hoặc một kết cấu cố định…Về tổ chức, câu đơn bao giờ cũng biểu hiện một vị tính hoặc có thể biểu hiện bằng một vị ngữ hoặc không. Về chức năng, câu đơn mang thông tin ngữ nghĩa tự thân. Dựa vào thành phần cấu tạo. câu đơn được chia thành hai loại: * Câu đơn không đầy đủ thành phần - Câu đơn một thành phần: Thường là câu không có chủ ngữ hoặc câu có chủ ngữ zêrô - Câu do một từ, hoặc ngữ tạo nên * Câu đơn hai thành phần nòng cốt - Câu ghép “Câu ghép là một tổ hợp các đơn vị vị ngữ hoặc các tương đương văn cảnh được xây dựng theo các sơ đồ cấu trúc cú pháp nhất định để truyền đi thông báo như một đơn vị giao tế.” [33; 209] Dựa vào mối quan hệ cấu trúc và ý nghĩa cũng như các phương tiện biểu diễn mà câu ghép được chia thành hai loại lớn: câu ghép qua lại và câu ghép đẳng lập. Trong nội bộ mỗi loại chia nhỏ theo quan hệ ý nghĩa do câu ghép biểu thị. 13 LuËn v¨n Th¹c sü - Câu ghép qua lại gồm: câu ghép có quan hệ thời gian, câu ghép có quan hệ nhân - quả, câu ghép có quan hệ điều kiện, câu ghép có quan hệ nhượng bộ - tăng tiến, câu ghép có quan hệ mục đích, câu ghép có quan hệ so sánh. - Câu ghép đẳng lập gồm câu ghép biểu thị quan hệ lựa chọn; câu ghép liên hợp gồm câu ghép có quan hệ đồng loại, câu ghép có quan hệ tương phản, câu ghép có quan hệ gộp. Do kết quả của quá trình phức tạp hoá câu ghép, GS. Hoàng Trọng Phiến còn nhắc tới một loại câu ghép: câu ghép bao hàm. Ngoài hai loại câu đơn và câu ghép, tác giả còn đưa ra một loại câu là câu trung gian là câu có bề ngoài giống câu ghép nhưng thực chất là câu do kết quả phức tạp hoá câu đơn mà thành. 1.3.2. Quan điểm của Diệp Quang Ban trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” Diệp Quang Ban cũng chia câu thành hai loại câu đơn và câu ghép: Câu đơn “là đơn vị lớn nhất của mặt cấu trúc trong tổ chức ngữ pháp của một ngôn ngữ, được làm thành từ một khúc đoạn ngôn ngữ tập trung chung quanh một vị tố, và được dùng để diễn đạt một sự thể.” [1; 17] Theo cấu trúc cú pháp - nghĩa biểu hiện tác giả chia câu đơn thành 12 kiểu câu cơ bản: câu chứa vị tố động từ tính, vị tố tính từ tính, vị tố danh từ tính; câu chứa vị tố là từ chỉ quan hệ không dùng độc lập; câu chứa chủ ngữ nguyên nhân; câu khiển động; câu có chủ ngữ chỉ phương tiện; câu có cấu tạo thuận – nghịch; câu chứa quan hệ chỉnh thể – bộ phận; câu có đề ngữ; câu bị động; câu không có chủ ngữ: câu tồn tại; câu không có chủ ngữ: câu gọi - đáp; “câu cảm thán” là phát ngôn đặc biệt. - “Câu ghép (hay hợp thể câu) là một cấu tạo gồm từ hai dạng câu trở lên, mỗi dạng câu trong đó có tính tự lập tương đối, giữa chúng có những kiểu quan hệ nhất định. Mỗi câu trong câu ghép là một vế câu, hay một “dạng câu” không bị bao”. [1; 292] 14 LuËn v¨n Th¹c sü Dựa vào các kiểu quan hệ ngữ pháp khái quát giữa các vế trong các câu lẫn các dấu hiện hình thức là các quan hệ từ, hay các phó từ có tác dụng nối kết các vế câu, câu ghép được chia thành: - Câu ghép chính phụ gồm: + Câu ghép nhân – quả + Câu ghép điều kiện/giả thiết + Câu ghép nhượng bộ – tăng tiến + Câu ghép mục đích - Câu ghép đẳng lập : căn cứ vào cách nối kết giữa các vế câu, có thể chia thành: + Câu ghép liên hợp + Câu ghép tương liên + Câu ghép tiếp liên Ngoài ra, tác giả còn nói tới hiện tượng câu ghép nhiều bậc. 1.3.3. Quan điểm của Đào Thanh Lan trong cuốn “Cơ sở tiếng Việt” Tác giả Đào Thanh Lan cũng chia câu thành hai loại câu đơn và câu ghép. * Câu đơn + Câu đơn được phân chia theo cấu trúc đề - thuyết + Câu đơn đặc biệt * Câu ghép “Câu ghép là câu có cấu tạo là nòng cốt ghép bao gồm hai vế, mỗi vế là một nòng cốt đơn, chúng được ghép lại với nhau bằng kết từ (từ nối) hoặc không có kết từ để biểu thị một suy lí của lôgic.” [13; 151] Căn cứ vào mối quan hệ giữa các vế câu, tác giả Đào Thanh Lan chia câu ghép thành: câu ghép chính phụ và câu ghép đẳng lập. Về cơ bản thì việc chia các loại câu ghép này thành những loại nhỏ hơn không khác với quan niệm của Hoàng Trọng Phiến. Tuy nhiên, ở câu ghép chính phụ tác giả Đào Thanh Lan không có loại câu ghép biểu thị quan hệ thời gian. 15 LuËn v¨n Th¹c sü Ngoài hai câu ghép chính phụ và đẳng lập thì Đào Thanh Lan còn có câu ghép phát triển. Đây là “loại câu mà mỗi vế câu ghép lại do một nòng cốt ghép đảm nhiệm.” 1.3.4. Quan điểm của Nguyễn Hữu Quỳnh trong cuốn “ngữ pháp tiếng Việt” Nguyễn Hữu Quỳnh chia câu thành ba loại: câu đơn, câu trung gian, câu phức hợp. * Câu đơn Tiêu chí phân loại: căn cứ vào cấu tạo ngữ pháp có thể phân thành: - “Câu đơn một thành phần là câu chỉ có một từ hay một cụm từ làm thành phần nòng cốt của câu.” [37; 220] - “Câu đơn hai thành phần là câu đơn gồm một đơn vị tính vị ngữ có quan hệ chủ - vị làm nòng cốt tức là một đơn vị nòng cốt gồm hai thành phần chủ ngữ và vị ngữ. Đơn vị tính vị ngữ có quan hệ chủ - vị (gọi tắt là C - V) có thể có cấu tạo khác nhau.” [37; 209] Sau đó căn cứ vào ý nghĩa của các nòng cốt C – V khác nhau tác giả lại chia ra hai loại câu gồm: câu tả và câu luận. Ngoài câu đơn, tác giả còn nêu lên 2 loại câu khác là câu trung gian và câu phức hợp: * Câu trung gian: là câu có hai đơn vị tính vị ngữ nhưng một đơn vị phụ thuộc vào một yếu tố của đơn vị khác. [37] * Câu phức hợp: bao gồm hai đơn vị tính vị ngữ trở lên, các đơn vị đó là các thành phần của câu liên hợp. Riêng loại câu liên hợp lại có thể chia thành các tiểu loại: - Câu phức hợp liên hợp - Câu phức hợp phụ thuộc lẫn nhau - Câu liên hợp hỗn hợp [37] 1.3.5. Quan điểm của trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” Các tác giả này cũng chia câu thành hai loại: câu đơn và câu ghép. 16 LuËn v¨n Th¹c sü * Câu đơn bao gồm mỗi câu một “nòng cốt đơn”, bình thường nhất là trường hợp nòng cốt đơn có phần đề với phần thuyết. Trong câu đơn có các loại: câu tả, câu luận và câu đơn đặc biệt. * Câu ghép: - Về ý nghĩa: câu ghép biểu thị một phán đoán phức hợp, một suy lí. - Về ngữ pháp: câu ghép bao gồm bộ phận chủ yếu là một nòng cốt ghép, được tạo nên bởi ít nhất hai vế và mỗi vế thường bao gồm một nòng cốt đơn. - Tiêu chí phân loại: Căn cứ vào một số đặc điểm về ngữ nghĩa, ngữ pháp, sự xuất hiện của kết từ hay thậm chí cả ngữ điệu mà các tác giả chia ra hai loại câu ghép. Đó là câu ghép qua lại và câu ghép song song. Trong đó câu ghép song song: gồm một số trường hợp sau: + Giữa các vế, có quan hệ liệt kê + Giữa các vế, có quan hệ nối tiếp + Giữa các vế, có quan hệ lựa chọn + Giữa các vế, có quan hệ đối xứng + Giữa các vế, có quan hệ bổ sung [43] 1 Theo Nguyễn Văn Hiệp, c , câu . * - V. : ) C- V C – V: : . C – V: . 17 – V. LuËn v¨n Th¹c sü C – V: tôi vui. – – . . – - . : . – . : . : . : Mưa! Nói tóm lại việc phân loại câu theo cấu trúc - ngữ nghĩa cũng khá phức tạp. Tuy hầu hết các nhà Việt ngữ học khi phân loại câu đều có hai loại là câu đơn và câu ghép nhưng mỗi tác giả lại dựa trên các tiêu chí phân loại khác nhau dẫn tới kết quả phân loại cũng khác nhau. Chẳng hạn như Nguyễn Hữu Quỳnh chia làm ba loại câu lớn, trong khi các tác giả khác lại chia làm hai loại lớn; Nguyễn Hữu Quỳnh xếp câu trung gian thành một loại riêng và dùng thuật ngữ “câu phức hợp” thay cho “câu ghép”. Ngoài ra trong từng kiểu câu nhỏ lại có sự phân chia khác nhau. Với câu đơn, Diệp Quang Ban chia làm 12 loại, còn đa số các tác giả lại chia làm hai loại. Tuy nhiên, việc phân chia thành hai loại này cũng không hoàn toàn đồng nhất. Về phân chia câu ghép, đa số các quan niệm trên (trừ quan niệm 1.3.4) đều chia thành ba loại câu ghép: ghép chính phụ (qua lại), đẳng lập (song song), hỗn hợp (nhiều bậc, phát triển). Nói chung, vấn đề phân loại câu ghép chính phụ và đẳng lập của tác giả khá giống nhau, chỉ có 18 LuËn v¨n Th¹c sü Hoàng Trọng Phiến coi câu biểu thị quan hệ thời gian (khi….thì) là câu ghép chính phụ. Trong khi đó Diệp Quang Ban hay các tác giả khác không coi đó là câu ghép mà lại coi nó là câu đơn. 1.3.7. Sự lựa chọn : Từ những quan điểm trên của các nhà ngôn ngữ học đã cho thấy vấn đề cú pháp cũng như phân loại câu khá phức tạp, ngay cả các quan niệm về các thành phần câu cũng không đơn giản. Hơn nữa, chúng tôi nhận thấy trong hầu hết các cách giáo trình dạy tiếng Việt, các tác giả đều lựa chọn các mô hình cấu trúc theo phương châm ngắn gọn, đơn giản, rõ ràng và hiệu quả. mẫu câu theo cấu trúc, đó là những mẫu câu đơn song phần, các mẫu câu ghép cơ bản, các mẫu câu hỏi cơ bản, các mẫu câu phủ định cơ bản, các mẫu câu cảm thán cơ bản và những mẫu câu mang tính thực dụng. Những mẫu câu mang tính thực dụng là những mẫu câu được thể hiện bằng các kết cấu cụ thể, trong thực tế được sử dụng nhiều và có khả năng ứng dụng cao trong quá trình giao tiếp. a. Các mẫu câu song phần Câu song phần là loại câu phổ biến nhất, bao gồm hai bộ phận chủ yếu chủ ngữ là vị ngữ. Câu song phần tiếng Việt có thể mô hình hóa: C-V (C: Chủ ngữ, V: Vị ngữ) Tuy nhiên, thành phần chủ ngữ, vị ngữ lại được cấu tạo một cách khác nhau, do vậy đã tạo nên nhiều dạng cấu trúc của câu song phần. Các kiểu câu song phần này có thể được liệt kê dưới một số dạng cấu trúc như sau: 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan