ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ XẢO BÌNH
LỖI CỦA NGƢỜI TRUNG QUỐC HỌC TIẾNG VIỆT
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ XUYÊN VĂN HOÁ
( XÉT VỀ KHÍA CẠNH TỪ VỰNG)
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 50408
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học
PGS-TS TRẦN TRÍ DÕI
HÀ NỘI NĂM 2004
Mục lục
Trang
Mở đầu .......................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 6
2. Mục đích nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................. 7
3. Ý nghĩa của đề tài ...................................................................................... 7
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 8
5. Bố cục của luận văn .................................................................................. 8
Chƣơng I Một số nhận thức chung về ngôn ngữ và văn hoá trong việc dạy và
học tiếng nƣớc ngoài. .................................................................................... 9
1. Quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá .......................................................... 9
1.1.
Những nét đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ ............................................ 9
1.2.
Khái niệm văn hoá .............................................................................. 10
1.3.
Quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá ..................................................... 11
2.Đôi nét về lịch sử tiếp xúc giữa tiếng Hán và tiếng Việt ........................... 14
2.1. Sự tiếp xúc của tiếng Việt với tiếng Hán ................................................ 14
2.2. Mặt thuận lợi và mặt tiêu cực của lớp từ Hán Việt đối với việc dạy và học
tiếng Việt của người Trung Quốc .................................................................. 16
3.Văn hoá với dạy và học ngoại ngữ............................................................ 17
3.1. Tính quan trọng của văn hoá trong dạy và học ngoại ngữ ....................... 17
3.2. Xuyên văn hoá với dạy và học ngoại ngữ ............................................... 19
Chƣơng II Những kiểu lỗi thƣờng gặp của sinh viên Trung Quốc khi học
tiếng Việt. ..................................................................................................... 24
1 . X uy ê n v ă n ho á x uy ê n s uố t m ọ i g ia i đ o ạ n tr o ng q uá tr ình họ c
ng o ạ i ng ữ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2 4
2. Lỗi văn hoá trong giao tiếp ...................................................................... 27
3. Các kiểu lỗi thường gặp khi sinh viên Trung Quốc học tiếng Việt ( xét về khía
cạnh từ vựng) ............................................................................................... 30
Vấn đề tƣ liệu ......................................................................................... 30
Phân loại các kiểu lỗi theo từ loại .......................................................... 31
Từ xưng hô
31
Đại từ xưng hô ngôi thứ nhất ................................................................... 31
Đại từ xưng hô ngôi thứ hai ..................................................................... 33
Đại từ xưng hô ngôi thứ ba ...................................................................... 34
3.2.2. Đại từ chỉ định .................................................................................... 35
3.2.3. Một số động từ .................................................................................... 36
3.2.3.1. Động từ chuyển động ..................................................................... 36
3.2.3.2. Những động từ khác....................................................................... 37
3.2.4. Một số danh từ .................................................................................... 39
3.2.5. Một số phó từ ...................................................................................... 40
3.2.6.Số từ ..................................................................................................... 42
3.2.7.Giới từ.................................................................................................. 43
3.2.8.Cảm từ ................................................................................................. 45
3.2.9.Về ―sự‖ và ―việc‖ ................................................................................. 45
3.2.10.Tính từ................................................................................................ 46
3.2.11.Về thành ngữ, tục ngữ......................................................................... 47
3.3. Phân loại các kiểu lỗi theo từng năm học ............................................ 48
C hƣ ơng
III
N hữ ng phâ n tíc h và nhậ n xét dữ liệ u từ g óc độ
gia o v ă n hoá. .................................................................... 50
1. Nguyên nhân gây lỗi ............................................................................... 50
2. Thử đề nghị một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức về xuyên văn hoá
cho sinh viên Trung Quốc học tiếng Việt................................................ 54
So n g s o n g vớ i v iệ c d ạ y ngô n n g ữ , p hả i d ạ y vă n ho á c ủa ngô n
n gữ đ íc h . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5 4
Một vài nhận xét và đề nghị việc dạy ngôn ngữ và văn hoá ..................... 56
Kết luận ....................................................................................................... 59
Tài liệu tham khảo ...................................................................................... 60
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
Mấy năm gần đây, số người Trung Quốc học tiếng Việt ngày càng đông. Với
tư cách là một trong những trung tâm đào tạo ngôn ngữ phi thông dụng (trong đó
có tiếng Việt) cấp nhà nước, hàng năm Học viện Dân tộc Quảng Tây Trung Quốc
đảm nhiệm nhiệm vụ đào tạo hàng trăm sinh viên chuyên ngành tiếng Việt để phục
vụ các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục v.v. Sinh viên học ở trường này được
đánh giá cao về trình độ tiếng Việt, nhất là khẩu ngữ . Tuy nhiên, đối với sinh viên,
dù sao tiếng Việt cũng là ngôn ngữ thứ hai của họ, nên trong quá trình học tập,
thường mắc lỗi về ngữ âm, từ vựng, cấu trúc, ngữ pháp v.v. Một trong số nguyên
nhân dẫn đến những lỗi này một là sự can thiệp của tiếng mẹ đẻ, điển hình là đối
với những sinh viên mới học tiếng Việt. Đối với số sinh viên này khi gặp phải
những từ mà họ chưa học, phản xạ đầu tiên của họ là phiên từ đó từ tiếng mẹ đẻ ra
tiếng Việt. Ví dụ từ ―nước‖ (quốc gia), khi học sinh chưa học từ ―nước‖, thì họ
dùng từ ―quốc‖, chẳng hạn như: ―Trung Quốc là một quốc lớn...‖. Thứ hai là chịu
sự ảnh hưởng của giao thoa văn hoá. Văn hoá Trung Quốc và văn hoá Việt Nam
đều thuộc về nền văn hoá phương Đông, hai nền văn hoá có nhiều điểm tương
đồng, nhất là về ngôn ngữ. Lớp từ Hán Việt trong tiếng Việt là minh chứng cho
điều này. Nhưng dân tộc Trung Hoa và dân tộc Việt Nam vẫn là hai dân tộc khác
nhau, cho nên tập quán, tư duy, cách sống giữa hai dân tộc cũng khác nhau. Ngôn
ngữ là sự chuyển tải của văn hoá, những sự khác biệt đó đã được phản ánh trong
ngôn ngữ. Không nắm được những khác biệt về văn hoá, sẽ mắc lỗi xuyên văn hoá,
có nghĩa là câu nói không sai về từ vựng, cấu trúc và ngữ pháp, nhưng người bản
ngữ nói ngôn ngữ đó lại không nói như vậy. Hậu quả hoặc là người nghe chẳng
hiểu gì cả, hoặc là gây ra chuyện không vui, may là người nghe biết người nói là
người nước ngoài, nên bỏ qua sự ―thiếu văn hoá‖ của người nói, nếu không sẽ có
hậu quả nghiêm trọng. Đây là điều khó nhất đối với việc dạy và học ngoại ngữ. Hai
vấn đề này đã được các nhà nghiên cứu Trung Quốc quan tâm rất nhiều khi tiếng
Hán được coi là ngoại ngữ đối với người nước ngoài, hay là tiếng Anh được coi là
ngoại ngữ đối với người Trung Quốc. Tuy nhiên, đối với tiếng Việt, một thứ ngoại
ngữ đang được nhiều người học ở Trung Quốc, những lỗi về văn hoá mà người học
đang vấp phải hầu như chưa có một công trình nào quan tâm đến. Thực ra, đây là
khâu rất quan trọng trong việc dạy và học tiếng Việt, do đó nó chính là lý do quan
trọng nhất để chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu này.
2. Mục đích nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
2.1. Mục đích của luận văn này là chỉ ra những lỗi dùng từ của sinh viên
Trung Quốc khi học tiếng Việt, sau đó phân tích nguyên nhân nào đã gây những lỗi
đó, rồi tìm ra cách để chữa. Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ phải thu thập
những lỗi về từ vựng mà sinh viên Trung Quốc thường hay mắc, rồi phân tích từng
loại lỗi từ góc độ xuyên văn hoá.
2.2. Đối tượng nghiên cứu ở đây là đại từ nhân xưng (gồm đại từ nhân xưng
ngôi thứ 1, đại từ nhân xưng ngôi thứ 2 và đại từ nhân xưng ngôi thứ 3); đại từ chỉ
định; động từ: động từ chuyển động và một vài động từ khác; danh từ; tính từ; số
từ; giới từ ; cảm từ; một số thành ngữ tục ngữ, khi phân tích những trường hợp này
đều có sự so sánh đối chiếu với những từ ngữ tiếng Hán tương đương.
Lỗi mà sinh viên Trung Quốc học tiếng Việt gây ra có phạm vị rất rộng, hầu
như mỗi một loại từ đều thấy có. Vì thế nếu chúng tôi phân tích mọi trường hợp và
từ nhiều góc độ, thì phải mất nhiều công sức. Trong khi đó nhiệm vụ của chúng tôi
chỉ là phạm vi của một luận văn thạc sĩ nên khả năng của chúng tôi là rất hạn chế.
Vì vậy, trong luận văn này chúng tôi chỉ xem xét những lỗi dùng từ có tần suất cao,
rồi phân tích những những lỗi đó từ góc độ xuyên văn hoá để thực hiện mục đích
của luận văn như đã nêu ở trên.
3. Ý nghĩa của luận văn.
Thực hiện các mục đích và nhiệm vụ nêu trên, luận văn này hy vọng được góp
một phần cho việc giảng dạy tiếng Việt cũng như nghiên cứu về Việt ngữ học của
giáo viên Trung Quốc, giúp đỡ sinh viên tránh được những lỗi ở mức tối thiểu khi
học tiếng Việt, làm cho sinh viên dùng từ chính xác hơn, từ đó nâng cao trình độ
tiếng Việt một cách nhanh chóng hơn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Luận văn này chúng tôi dùng phương pháp hay cụ thể hơn là thao tác so sánh
đối chiếu hai lớp từ tiếng Hán và tiếng Việt để nghiên cứu ngôn ngữ ở khía cạnh
xuyên văn hoá. Đồng thời, trong luận văn chúng tôi cũng dùng cách thống kê, miêu
tả, rồi sau đó phân tích tổng hợp để đi đến nhận xét và kết luận cụ thể.
5. Bố cục của luận văn.
Luận văn gồm các phần và các chương chính như sau:
Mở đầu
Chương I:
Một số nhận thức chung về ngôn ngữ và văn hoá trong việc dạy và học tiếng nước
ngoài
Chương II:
Những kiểu lỗi thường gặp của sinh viên Trung Quốc khi học tiếng Việt
Chương III:
Những phân tích và nhận xét dữ liệu từ góc độ xuyên văn hoá
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Chƣơng I
MỘT SỐ NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ TRONG
VIỆC DẠY VÀ HỌC TIẾNG NƢỚC NGOÀI
1. Quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá.
1.1.Những nét đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ.
1.1.1. Ngôn ngữ là hiện tƣợng xã hội.
Ngôn ngữ là sản phẩm của xã hội nhân loại. Ngôn ngữ chỉ tồn tại trong xã hội
nhân loại.
Ngôn ngữ và xã hội cùng tồn tại bên nhau. Một mặt, ngôn ngữ tựa vào xã hội.
Chỉ có xã hội nhân loại mới có ngôn ngữ, thế giới tự nhiên không tồn tại ngôn ngữ.
Động vật bày tỏ tình cảm và nguyện vọng bằng một số tiếng gọi đơn giản, nhưng
chúng không có ngôn ngữ thật sự với cơ sở là từ vựng cơ bản và cấu trúc ngữ
pháp. Ngôn ngữ còn phát triển theo sự phát triển của xã hội, sự phát triển của ngôn
ngữ thích ứng với sự phát triển của xã hội, và mất đi theo sự mất đi của xã hội. Nếu
xã hội không tồn tại nữa thì ngôn ngữ cũng mất đi. Mặt khác, sự tồn tại và phát
triển của xã hội cũng chịu sự hạn chế của ngôn ngữ. Xã hội không thể không có
ngôn ngữ, ngôn ngữ là tiêu chí quan trong để phân biệt nhân loại và thế giới động
vật. Lịch sử phát triển của xã hội nhân loại đã chứng minh rằng: trong mọi giai
đoạn phát triển của xã hội đều có ngôn ngữ, xã hội mà không có ngôn ngữ sẽ
không tồn tại.
Ngôn ngữ là một trong những động lực chính để tổ chức thúc đẩy đời sống xã
hội. Vì ngôn ngữ là công cụ giao tiếp và trao đổi tư tưởng tình cảm, điều phối hoạt
động chung của con người. Nếu không có ngôn ngữ thì xã hội sẽ tan rã. Đồng thời
ngôn ngữ còn là công cụ tư duy trừu tượng của con người: Ngôn ngữ củng cố lại
những kết quả tư duy và thành quả hoạt động nhận thức của con người bằng từ
hoặc câu, truyền lại kinh nghiệm cho đời sau, là một phương tiện quan trọng để
cho văn hoá được truyền bá. Người sau có thể làm việc, nhận biết văn hoá từ cơ sở
của người trước. Cho nên, ngôn ngữ cũng là công cụ thúc đẩy mạnh mẽ đối với sản
xuất xã hội và sự phát triển của xã hội.
1.1.2. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của nhân loại.
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp đặc biệt của nhân loại, mà là công cụ giao tiếp
quan trọng nhất của nhân loại. Ngoài ngôn ngữ ra, người ta còn sử dụng công cụ
giao tiếp khác, chẳng hạn như ký hiệu toán học, công thức hoá học, đèn xanh đèn
đỏ, các động tác bằng cơ thể con người v.v. Nhưng tác dụng giao tiếp của những
phương tiện đó không thể sánh được với ngôn ngữ. Trước hết, tất cả những cái đó
đều xây dựng trên cơ sở ngôn ngữ. Nếu không có ngôn ngữ làm cơ sở, thì chúng
không thể phát huy tác dụng, không thể dùng để giao tiếp. Mặt khác, phạm vị sử
dụng của chúng cũng có hạn. Vì vậy, trong xã hội, chỉ có ngôn ngữ có thể làm công
cụ tốt nhất để giao tiếp và trao đổi tình cảm. Nó có thể diễn đạt tư tưởng phức tạp,
tiện cho sử dụng, và có quan hệ mật thiết với hành vi sản xuất của con người, nó có
quan hệ với hầu như mọi hoạt động của con người. Những công cụ giao tiếp cận
ngôn không thể sánh được với ngôn ngữ, cho nên, ngôn ngữ là công cụ giao tiếp
quan trọng nhất của nhân loại. Nhờ vai trò là công cụ giao tiếp quan trọng này,
ngôn ngữ có sự liên quan chặt chẽ với giao lưu và tiếp xúc văn hoá. Trong xã hội
nói chung và trong xã hội hiện nay, giao lưu và tiếp xúc văn hoá giữa các dân tộc
khác nhau là điều tất yếu. Chính vì vậy, học tập ngôn ngữ ở góc độ giao văn hoá là
thật sự cần thiết ở sinh viên học tiếng nước ngoài.
1.2. Khái niệm văn hoá
Từ khi có từ ― văn hoá‖, biết bao nhiêu nhà khoa học, dân tộc học đã đưa ra
vô số định nghĩa, mà cho đến nay cũng chưa thể nào thống nhất được. Theo từ điển
tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học, Hà Nội,2000) thì từ văn hoá có 5 nghĩa:
+ Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trình lịch sử.
+ Những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh
thần— nói một cách tổng quát.
+ Tri thức kiến thức khoa học.
+ Trình độ cao trong sinh hoạt văn hoá xã hội, biểu hiện của văn minh.
+ Nền văn hoá của một thời kỳ lịch sử cổ xưa được xác định trên cơ sở một
tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau.
Năm 1871, EB.Tylor, nhà nhân học nổi tiếng người Anh định nghĩa văn hoá
như thế này: ― Văn hoá hay văn minh hiểu theo ý nghĩa dân tộc bao quát của nó, là
một tổng thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật
pháp, phong tục và bất cứ năng lực và tập quán nào được lĩnh hội bởi con người
với tư cách thành viên của xã hội‖[dẫn theo Phạm Đức Dương—Từ văn hoá đến
văn hoá học.năm 2001.tr49]. Định nghĩa này có phạm vi rất rộng, nói một cách
đơn giản hơn là: văn hoá tức là mọi lĩnh vực tinh thần. Định nghĩa có phạm vi rộng
thế này, khi áp dụng khái niệm văn hoá để miêu tả, phân tích, giải thích một số vấn
đề sẽ mất đi tác dụng của nó. Từ đó cho thấy, định nghĩa này vẫn không chính xác
lắm khi giúp cho chúng ta làm việc.
Sau Tylor, văn hoá lại được định nghĩa nhiều lần nữa. Cho đến năm 1952,
đã có hơn 160 định nghĩa khác nhau. Phát triển đến ngày nay, văn hoá vẫn chưa có
một định nghĩa thống nhất. Tuy nhiên có một điều có thể khẳng định rằng, định
nghĩa của văn hoá ngày càng rõ ràng, cụ thể và các phân tích cũng càng tỉ mỉ hơn.
Dựa trên những khái niệm trên, chúng tôi xin xác định ra khái niệm ―giao
văn hoá‖ hay gọi là ―xuyên văn hoá‖ để giải thích những hiện tượng dạy và học
ngoại ngữ nói chung và người Trung Quốc dạy và học tiếng Việt nói riêng theo
cách hiểu của mình. Phần này sẽ được trình bày ở Chương II và Chương III của
luận văn này.
1.3.Quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá
Vấn đề giữa ngôn ngữ và văn hoá đã được các nhà khoa học bàn đến từ lâu và
bàn rất nhiều, bàn rất sâu sắc. Quan hệ đó, theo chúng tôi, đó là quan hệ như cá với
nước và có thể nói có nhiều ý kiến rất thống nhất.
1.3.1.Ngôn ngữ là một thành tố của văn hoá
Trước hết, ngôn ngữ dân tộc bao giờ cũng là một bộ phận hợp thành của nền
văn hoá dân tộc đó. Nó là phương tiện để phản ánh nền văn hoá dân tộc nên được
phát triển không ngừng. Một nền văn hoá phát triển sẽ chứa đựng một ngôn ngữ
phong phú. Tiếng Hán, tiếng Anh và tiếng Việt những thế kỷ trước có rất nhiều cái
khác so với tiếng Hán, tiếng Anh và tiếng Việt hiện đại, bởi một xã hội văn minh,
có một nền văn hoá cao đòi hỏi trong ngôn ngữ phải có những tín hiệu mới, quy tắc
mới đẻ phản ánh được tất cả những giá trị văn hoá tinh thần và vật chất của dân tộc
nói thứ tiếng đó.
1.3.2.Ngôn ngữ là cái hàm chữa văn hoá
Tuy ngôn ngữ nằm trong nền văn hoá dân tộc, nhưng bản thân ngôn ngữ lại là
tiền đề của một hiện tượng văn hoá. Theo Ănghen, ―đồng thời với lao động là ngôn
ngữ‖, vì vậy ngôn ngữ là cái sớm nhất, cùng với lao động, ngôn ngữ dần dần làm
cho con người văn minh hơn. Từ những từ đơn giản nhất phát ra trong lao động sẽ
phát triển thành những câu hò, điệu hát và ...thơ ca sau này. Từ đây, chúng ta cũng
thấy được ngôn ngữ luôn là bước khởi đầu của văn hoá, là dạng thức hàm chứa
một nội dung văn hoá nào đó. Do vậy mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá
không giống như quan hệ giữa ngôn ngữ và các ngành khoa học khác. Quan hệ này
như một cái gì đó tuần hoàn, cái này là khởi điểm của cái kia và có vòng ngược lại.
1.3.3. Sự ảnh hƣởng của văn hoá đối với ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là sản phẩm tín hiệu phản ánh hoạt động của con người, vì thế hoạt
động của con người ảnh hưởng đến mọi mặt của ngôn ngữ, kể cả cách quan niệm,
tư duy và diễn đạt ngôn ngữ. Đồng thời hoạt động của con người cũng có ảnh
hưởng tới thụ đắc ngôn ngữ.
Sự ảnh hưởng của văn hoá đối với hệ thống ngôn ngữ trước hết thể hiện ở tác
dụng chế ước sự hình thành và phát triển đối với các yếu tố của bản thân ngôn ngữ
như ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Sự chế ước này là chế ước chủ động, không di
chuyển theo ý chí con người, cũng được quyết định bởi chức năng ngôn ngữ và
chức năng văn hoá. Chẳng hạn như nghĩa của từ vựng, sự hình thành của nó đã
chịu sự chế ước của các nhân tố văn hoá như truyền thống dân tộc, tín ngưỡng tôn
giáo, hoàn cảnh địa lý và phong tục tập quán v.v. Tính đa nghĩa của từ là tín hiệu
tượng trưng cho thế giới hiện thực, thể hiện nhận thức khác nhau của con người đối
với thế giới hiện thực. Cũng có nghĩa là cái quyết định nghĩa của từ không phải là
cái gì khác mà là văn hoá dân tộc. Điều này không những thể hiện ở việc xác định
nghĩa gốc của từ, mà còn thể hiện ở nghĩa bóng của từ. Chẳng hạn như trong văn
hoá phương Đông, những từ liên quan đến ―chó‖ hầu như đều mang nghĩa tiêu cực,
còn trong văn hoá phương Tây, con chó lại là bạn của con người, là một thành viên
trong gia đình, cho nên, những từ liên quan đến chó thì không có sắc thái như trong
tiếng Hán. Chúng ta có thể nêu ra các thành ngữ tục ngữ tiếng Hán làm ví dụ:
狗仗人?势?(gou zhang ren shi):như ―chó cậy nhà, gà cậy chuồng‖ của tiếng Việt,
nghĩa là ỷ vào thế của mình mà hung hăng, bắt nạt người; 狼?心狗肺?(lang xin
gou fei): như ―lòng lang dạ thú‖ của tiếng Việt, nghĩa là tâm địa độc ác, mất hết
tính người; 狗急跳?墙? (gou ji tiao qiang):như ―chó cùng dứt giậu‖ của tiếng Việt,
nghĩa là bị dồn vào cùng đường, thế bí thì phải liều lĩnh để thoát thân;
狗拿耗子?,?多管?闲é事:nghĩa đen là chó lại bắt chuột, thật là lắm chuyện,còn
nghĩa bóng là hay nhúng tay vào việc người khác. Mấy thành ngữ và tục ngữ trong
tiếng Hán đều có từ ―chó‖, từ nghĩa của chúng cho thấy, những thành ngữ và tục
ngữ nêu trên đều có nghĩa xấu, và những thành ngữ và tục ngữ trên hầu như đều có
từ tương ứng trong tiếng Việt, vì văn hoá Trung Quốc và văn hoá Việt Nam đều là
văn hoá phương Đông, nên có nhiều điều giống nhau. Còn văn hoá phương Tây thì
lại khác, ví dụ họ nói một người may mắn là ― a lucky dog‖ (một con chó may),
người Trung Quốc sẽ không chấp nhận cách nói này.
Văn hoá không những ảnh hưởng hệ thống ngôn ngữ, mà còn quyết định nội
dung và hình thức sở chỉ của ngôn ngữ. Như chúng ta đã biết, đối tượng của ngôn
ngữ là sự và việc trong thế giới văn hoá lấy người làm hạt nhân, phương thức sự và
việc mà ngôn ngữ sở chỉ hoặc phản ánh, cũng là sự thể hiện của tâm lý văn hoá con
người. Cho nên chúng ta có thể nói nội dung và phương thức của ngôn ngữ là do
văn hoá của người và con người của văn hoá quyết định.
Sự ảnh hưởng của văn hoá đối với ngôn ngữ còn phản ánh trên cách tư duy
bằng ngôn ngữ và cách diễn đạt. Ngôn ngữ là chuyển tải vật chất và công cụ biểu
đạt của tư duy, một mặt thúc đẩy sự phát triển của tư duy, mặt khác lại chịu sự chế
ước của tư duy. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ngôn ngữ là công cụ bày tỏ tình cảm
và truyền đạt thông tin, nên tổ chức và diễn đạt phải phụ thuộc vào phương thức tư
duy của dân tộc. Chẳng hạn như diễn đạt một sự vật, mỗi dân tộc đều sắp đặt cấu
trúc ngôn ngữ theo cách suy nghĩ và logic của mình. Ví dụ như thứ tự diễn đạt thời
gian, dân tộc Việt Nam thì khác với dân tộc Trung Hoa. Tiếng Hán diễn đạt theo
thứ tự năm—tháng—ngày, còn tiếng Việt thì ngược lại theo ngày-- tháng-- năm.
Hiển nhiên, phương thức tư duy có quan hệ chặt chẽ với văn hoá dân tộc.
2. Đôi nét về lịch sử tiếp xúc giữa tiếng Hán và tiếng Việt
2.1.Sự tiếp xúc của tiếng Việt với tiếng Hán.
Về sự tiếp xúc của tiếng Việt với tiếng Hán trong lịch sử, nhiều nhà Việt ngữ
học đã đưa ra những công trình đáng ghi nhận, những công trình đó hầu như đều
thống nhất một nhận xét như sau: quá trình tiếp xúc của tiếng Việt với tiếng Hán
bắt đầu từ cách đây rất lâu, gần 2000 năm, vào khoảng trước sau đầu công nguyên.
Một đợt tiếp xúc lâu dài, sâu rộng và khá liên tục. Đợt tiếp xúc này có thể chia
thành hai giai đoạn nhỏ: thứ nhất, giai đoạn từ đầu cho đến khoảng hai thế kỷ VI,
VII và thứ hai, giai đoạn cuối Đường, Ngũ Đại. Kết quả của hai đợt tiếp xúc là tạo
thành một cách đọc Hán Việt cổ và một cách đọc Hán Việt. Giai đoạn thứ nhất
không trực tiếp liên quan đến cách đọc chữ Hán ở Việt Nam hiện nay. Giai đoạn
này hiện chỉ còn lưu lại lẻ tẻ một số cách đọc gọi là Hán Việt Cổ. Những cách đọc
này không tạo thành hệ thống và hiện không được người Việt dùng khi đọc các văn
bản Hán nữa, ví dụ bùa, buồng, buồm v.v. Sở dĩ như thế là vì trong suốt 9 thế kỷ
sau công nguyên, cách đọc chữ Hán ở Việt Nam là một cách đọc gắn liền với
những sự biến đổi xảy ra trong tiếng Hán, đến đời Đường thì những cách đọc tiếp
thu được trải qua các triều đại Hán, Nguỵ, Nam Bắc Triều đều bị Đường âm thay
thế. Giai đoạn thứ hai mới chính là giai đoạn lưu lại một ảnh hưởng sâu đậm, tồn
tại mãi đến ngày nay. Đứng về phương diện ngữ ngôn văn tự mà xét, giai đoạn này
đã để lại một cách đọc chữ Hán hết sức có hệ thống. Thế nhưng, sự tiếp xúc Việt –
Hán không phải chấm dứt ở giai đoạn này, về sau vẫn có sự tiếp xúc gián tiếp như
tiếp xúc thông qua sách vở: vận đồ, vận thư, từ điển v.v...; lại có những sự tiếp xúc
trực tiếp, tự nhiên như tiếp xúc với khẩu ngữ của người Hán thông qua sự cộng cư
với các tầng lớp Hoa Kiều. Nhưng những cách đọc mới này không lưu lại vết tích
gì thật sâu sắc và thật không có hệ thống. Có thể khẳng định - đúng như nhiều nhà
nghiên cứu đã khẳng định: chỉ giai đoạn tiếp xúc cuối Đường – Ngũ Đại mới là
giai đoạn có ảnh hưởng quyết định nhất đối với việc hình thành cách đọc chữ Hán
ở Việt Nam hiện nay. Cách đọc Hán Việt chính là sản phẩm bắt nguồn từ giai đoạn
tiếp xúc này.
Cuối đời Đường, cách đọc chữ Hán vào Việt Nam là vào với tư cách một cách
đọc học được của một sinh ngữ. Sinh ngữ đó có một hệ thống ngữ âm – nói chung
– và đặc biệt là một hệ thống phụ âm đầu – nói riêng – hết sức xa lạ với tiếng Việt.
Mặc dầu vậy, qua quá trình học tập, tiếp xúc, cuối cùng người Việt đã làm quen
được, và tiếp thu được một cách gần gần đúng. Cách đọc ngoại ngữ này đã duy trì
được vài thế kỷ. Nhưng rồi, cái gì quá xa lạ với tiếng Việt, người Việt thì cũng lần
lượt phải bị loại trừ dần. Tác động của quy luật tiếng Việt dội vào nó càng ngày
càng mạnh mẽ, cuối cùng tạo thành một lớp từ khá đặc biệt được gọi là từ Hán
Việt.
2.2. Mặt thuận lợi và mặt tiêu cực của lớp từ Hán Việt đối với việc dạy và học
tiếng Việt của người Trung Quốc.
Trên đây là quá trình tiếp xúc của tiếng Việt với tiếng Hán trong lịch sử. Hiện
nay, theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự giao lưu văn hoá nghệ thuật giữa
các nước trên thế giới cũng ngày càng nhiều. Là sự chuyển tải của văn hoá, cộng
với sự giao lưu văn hoá, những từ mới xuất hiện để diễn đạt những hiện tượng mới,
sự vật mới của ngôn ngữ này cũng được đưa vào các ngôn ngữ khác, góp phần làm
phong phú thêm vốn từ vựng của ngôn ngữ đó. Tiếng Việt và tiếng Hán cũng
không đứng ngoài thông lệ này. Nhất là mấy năm gần đây, sư giao lưu về mặt kinh
tế, văn hoá giữa Trung Quốc và Việt Nam rất nhiều, nhiều tác phẩm văn học và
phim nhiều tập của Trung Quốc được dịch ra tiếng Việt, cho nên nhiều từ mới
trong tiếng Trung Quốc cũng được đưa vào tiếng Việt, bổ sung những thành phần
mới cho tiếng Việt hiện đại.
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp, người nói ngôn ngữ này muốn giao tiếp với
người nói ngôn ngữ khác thì phải biết nói ngôn ngữ của đối tượng giao tiếp, hay
ngược lại. Như trên đã trình bày, vì nguyên nhân lịch sử, trong tiếng Việt có một
lớp từ Hán Việt, lớp từ này vừa tạo điều kiện thuận lợi cho người Trung Quốc học
tiếng Việt, song lại vừa dễ gây nhầm lẫn cho người học. Về mặt thuận lợi, vì từ
Hán Việt có quan hệ nguồn gốc với tiếng Hán, cho nên khi gặp những từ như
―khoa học‖, ―xã hội‖, ―tiên tiến‖ v.v, người học đều cảm thấy dễ đọc và dễ nhớ,
như vậy sẽ làm cho người học có cảm hứng ngay với thứ tiếng này, đây là điều
quan trọng cho việc học ngoại ngữ. Mặt khác, tiếng Hán và tiếng Việt đều là ngôn
ngữ đơn lập, theo thói quen dịch giả của hai nước, khi dịch tên riêng đều dịch
phiên âm, chẳng hạn như ―Quảng Tây‖, ―Lỗ Tấn‖ v.v. Cách dịch này chỉ hạn chế
trong phạm vi tên riêng mà thôi, nhưng có một số người học tiếng Việt, nhất là
những người mới bắt đầu học, khi giao tiếp với người Việt hoặc viết bài, khi cần
dùng đến những từ mình chưa biết, phản xạ đầu tiên của họ là phiên âm luôn. Đấy
chính là chịu sự ảnh hưởng của thói quen dịch tên riêng, đây là hiện tượng phổ
biến trong sinh viên năm thứ nhất. Điều nữa, một số từ Hán Việt sau khi tồn tại
một thời gian, đã mất đi nghĩa đen của nó, mà được dùng để diễn đạt nghĩa khác,
chẳng hạn như ―khốn nạn‖, ―tội nghiệp‖ v.v, nhưng người Trung Quốc học tiếng
Việt vẫn hiểu theo nghĩa vốn có của nó trong tiếng Hán, dĩ nhiên là không chính
xác. Những điều nói trên chúng tôi sẽ phân tích cụ thể ở chương II và chương III.
3.Văn hoá với việc dạy-- học ngoại ngữ.
3.1. Tính quan trọng của văn hoá trong dạy và học ngoại ngữ.
Văn hoá không phải là cái thứ nhất. Vật chất mới là cái thứ nhất. Song văn
hoá là cái cốt lõi trong nhân cách con người, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân
tộc, thấm đượm vào mọi hiện tượng xã hội và nhân văn. Văn hoá vừa như một mục
đích phải đi tới, vừa như động lực nuôi dưỡng sự trường tồn và phát triển của mỗi
dân tộc, của mỗi con người trong xã hội. Đồng thời mỗi người, mỗi tổ chức, mỗi
dân tộc, mỗi ngành khoa học xã hội và nhân văn đều nhìn thấy vai trò, tầm quan
trong của văn hoá và tìm cách giải quyết nó trong phạm vi của mình.
Những người làm công tác giáo dục ngôn ngữ và giảng dạy ngoại ngữ không
phải đến nay mới cảm nhận được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của vấn đề văn
hoá trong dạy— học ngoại ngữ. Đây là vấn đề đã được đề cao trong dạy— học
ngoại ngữ từ những thế kỷ trước, từ thế kỷ thứ XVI, XVII tại một số nước ở châu
Âu. Tiếp đó, vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, những nghiên cứu về văn hoá
trong dạy— học ngoại ngữ đã được chú ý ở nhiều nước, đặc biệt ở các nước như
Mỹ, Pháp, Đức, Liên Xô (cũ) và Trung Quốc. Tuy vậy, việc đề cập đến văn hoá
trong dạy –học ngoại ngữ chỉ thực sự có nội dụng khoa học và có ý nghĩa thực tiễn
là vào những thập kỷ gần đây. Vấn đề văn hoá ở những mức độ khác nhau đã trở
thành nội dung của môn học chính thức tại các khoa ngoại ngữ ở các trường đại
học và cao đẳng với các tên gọi hết sức đa dạng và phong phú.
Đội ngũ những người nghiên cứu văn hoá với dạy—học ngoại ngữ ở thời kỳ
hiện nay đã trở nên khá đông đảo. Tên tuổi của nhiều người trong số họ đã khá
quen thuộc như V.G.Koxtomarov, A.A.Leonchiev, B.X. Svarskopf (ở Nga);
G.Alvarez,
G.Galisson,
P.Charaudeau
(ở
Pháp);
N.Brooks,
R.A.Hudson,
J.C.Richards (ở Mỹ); La Thường Bồi, Tôn Diễn Phong (ở Trung Quốc). Còn ở Việt
Nam, cũng đã có nhiều bài viết của Bùi Đình Mỹ, Đỗ Ca Sơn, Nguyễn Phương
Sửu, Nguyễn Quang và một số người khác nữa. Từ những năm 80, ở Trung Quốc,
giới ngôn ngữ học Trung Quốc, kể cả giới dạy tiếng Hán cho người nước ngoài, đã
đi sâu thảo luận và nghiên cứu vấn đề này. Năm 1994, vấn đề định tính, định vị,
định lượng cho việc giảng dạy tiếng Hán cho người nước ngoài đã được nghiên
cứu kỹ lưỡng. Khái niệm ―văn hoá‖ ở đây được hiểu ở hai cấp độ. Một là nhân tố
―văn‖: Đó chính là nội dung giảng dạy ngoại ngữ, thuộc phạm trù giảng dạy ngoại
ngữ. Hai là kiến thức văn hoá: Đó chính là nội dung giảng dạy văn hoá, thuộc
phạm trù giảng dạy văn hoá cho người nước ngoài. Nhân tố văn hoá, chủ yếu xuất
phát từ góc độ đồng đại, là những nhân tố văn hoá liên quan chặt chẽ với lý giải và
biểu đạt ngôn ngữ. Đương nhiên, nó cũng chứa đựng những hiện tượng văn hoá
lịch đại. Nhân tố văn hoá gồm : Hàm ý văn hoá trong các hình thức ngôn ngữ, bối
cảnh văn hoá, thông tin phi ngôn ngữ. Trong khi truyền thụ kiến thức ngôn ngữ và
rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ, chỉ có kết hợp một cách hữu cơ trong nhân tố văn hoá
trong ngoại ngữ mới có thể tạo sinh và nâng cao năng lực giao tiếp ngôn ngữ một
cách có hiệu quả.
Giảng dạy tiếng Hán cho người nước ngoài, qua mấy thập kỷ tìm tòi, đã
chuyển từ chỉ coi trọng cấu trúc ngôn ngữ sang nghiên cứu đồng thời coi trọng ngữ
nghĩa và chức năng giao tiếp.
Một trong những mục đích của việc giảng dạy ngoại ngữ là bồi dưỡng năng
lực giao tiếp trong mối liên hệ trực tiếp với nhân tố văn hoá, gắn giảng dạy ngôn
ngữ với giảng dạy kiến thức văn hoá. Giảng dạy kiến thức ngôn ngữ, kỹ năng ngôn
ngữ gắn với giảng dạy kiến thức văn hoá liên quan, tiến hành đồng bộ hai cách
giảng dạy này mới có thể giành được hiệu quả cao trong giảng dạy ngoại ngữ. Vấn
đề giảng dạy, chương trình, hệ thống kiến thức là vấn đề quan trọng của khoa học
giảng dạy ngoại ngữ.
3.2. Xuyên văn hoá với dạy và học ngoại ngữ.
Hầu như mọi các nhà nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá đều có một nhận xét
chung là: nền văn hoá của một dân tộc là cái gì đó trừu tượng, vô hình nhưng lại rất
cụ thể, nó trường tồn và gắn liền với con người của dân tộc đó, ngấm sâu và lắng
đọng trong mỗi con người; văn hoá trừu tượng, vô hình nhưng lại được thể hiện
một cách cụ thể, muôn hình vẻ, ở nhiều khía cạnh của con người: từ cách tư duy,
cách nhìn nhận thế giới khách quan, đến lối sống, phong cách cư xử, giao tiếp, sự
nhận diện bản thân, hành động cảm xúc... Mỗi dân tộc đều có một nền văn hoá
riêng. Có thể tìm thấy những sự tương đồng của nền văn hoá này với nền văn hoá
khác nhưng hầu như khó tìm thấy hai nền văn hoá hoàn toàn như nhau.
Với ý nghĩa như vậy, xuyên văn hoá, nhìn từ góc độ dạy—học ngoại ngữ là
quá trình mâu thuẫn và xung đột giữa hai hệ thống tri thức, một bên là hệ thống tri
thức dân tộc đã được định hình và được thể hiện ở việc nắm vững ngôn ngữ mẹ đẻ
với một bên là hệ thống tri thức đang được hình thành qua khả năng nắm bắt ngôn
ngữ thứ hai. Nói một cách trực diện hơn, cái gọi là ―xuyên văn hoá‖ thực chất là sự
mâu thuẫn và xung đột giữa hai hệ thống tri thức đã có với hệ thống tri thức khác,
đòi hỏi người học ngôn ngữ thứ hai đang phải lý giải để tiếp thu và nắm vững.
Trong quá trình lý giải để tiếp thu ấy, người học ngôn ngữ thứ hai luôn gặp phải
hàng loạt các trường hợp mà họ phải nhanh chóng thích ứng hoặc phải kiên trì để
thích ứng, nếu không, sẽ bị coi là ―phạm lỗi‖, ―gây lỗi‖, hiện tượng này còn được
gọi là ―sốc văn hoá‖. Dưới đây xin nêu ra một vài biểu hiện cụ thể:
Thứ nhất: Người sử dụng ngoại ngữ trình bày một vấn đề rất đúng theo cấu
trúc của ngôn ngữ thứ hai như cấu trúc câu, cách dùng từ, ngữ âm v.v... nhưng nội
dung lại ―trái với cách nghĩ của dân tộc đó‖. Thí dụ, người phương Đông như
Trung Quốc, Việt Nam khi gặp một người phương Tây lần đầu tiên, nếu dùng tiếng
Anh để hỏi họ đại loại những câu mang nội dung hỏi thăm về riêng tư, tuổi tác, gia
đình riêng... thì người sử dụng ngoại ngữ như thế đã bị quy về mắc lỗi xuyên văn
hoá. Lý do là vì, mới làm quen mà hỏi chuyện riêng tư là chuyện tối kị đối với
người Phương Tây nhất là phụ nữ, còn đối với người phương Đông, đây lại là điều
hết sức cần thiết, vì đó là sự quan tâm chân tình với khách. Một số tác giả đã coi
đây là ― sự xê dịch vị trí ngữ nghĩa‖ trong giao tiếp xuyên văn hoá (bởi ngôn ngữ
bao gồm cả nghĩa của bản thân ngôn ngữ và nghĩa văn hoá của ngôn ngữ). Vì thế,
những câu cùng nội dung nhưng ở nền văn hoá này là thể hiện sự quan tâm, tự
nguyện hay làm quen v.v... còn ở nền văn hoá kia lại được hiểu là sự thóc mách,
bất đắc dĩ hoặc có ý dò xét, rình mò v.v... Như vậy, rõ ràng ở đây sử dụng ngôn ngữ
tuy ―đúng‖ về ngữ pháp (hay đúng về cấu trúc) nhưng lại ―sai‖ về cách sử dụng
ngôn ngữ. Nói một cách khác, lỗi ở đây là lỗi về văn hoá do đó chúng ta thấy đối
với người học ngoại ngữ là sự đồng thời tiếp nhận ngôn ngữ và văn hoá của ngôn
ngữ, chúng tôi gọi loại lỗi này là ―lỗi xuyên văn hoá‖.
Thứ hai: Người sử dụng ngoại ngữ đã dùng sai ngôn ngữ thứ hai ở bình diện
cấu trúc có nguyên nhân từ sự ảnh hưởng của cấu trúc của ngôn ngữ mẹ đẻ. Ngôn
ngữ học cấu trúc gọi những lỗi này là lỗi giao thoa hoặc do giao thoa, còn từ cách
nhìn xuyên văn hoá, người ta cũng gán vào lỗi xuyên văn hoá và được giải thích
như sau: việc học ngôn ngữ thứ hai là hoạt động trong bộ não của người học ngoại
ngữ ở mặt tri nhận. Trong quá trình học tập, người học không chỉ lý giải các yếu tố
của ngôn ngữ đang học mà còn vận dụng chúng vào trong hoạt động giao tiếp, một
mặt phải vận dụng hệ tri thức vốn có của bản thân, mặt khác đòi hỏi phải tiếp thu
các tri thức mới để xây dựng hệ tri thức mới. Sự khiếm khuyết tri thức mới hoặc
chưa có khả năng vận dụng tri thức mới vào giao tiếp bằng ngoại ngữ, mà thay vào
đó bằng tri thức vốn có là nguyên nhân gây ra lỗi xuyên văn hoá. Tất nhiên, khiếm
khuyết này gắn liền với sự không thích ứng về tâm lý văn hoá của người sử dụng
ngoại ngữ - một cơ chế tâm lý của người sử dụng khi phán đoán giá trị ngôn ngữ
hay lựa chọn ngôn ngữ dưới tác động của bối cảnh văn hoá nhất định. Có thể dẫn
chứng cho sự lý giải này ở cả ba bình diện ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng – ngữ
nghĩa. Chẳng hạn, ở bình diện ngữ âm, cùng với tính vật lý và sinh lý, ngữ âm có
tính xã hội. Chính tính xã hội này đã tạo nên tính thống nhất tương hỗ giữa ngữ âm
( âm thanh có thể tạo thành từ ngữ) ngôn ngữ với văn hoá xã hội của dân tộc đó.
Sự cố xuyên văn hoá ở bình diện này chính là ― sự không thích ứng‖ khi nghe, khi
nói cũng như khả năng cảm thụ âm thanh trong một số trường hợp. Điều này có thể
giúp cho lý giải tại sao âm thanh của các từ láy như khấp khểnh, gập ghềnh... hay
của các tổ hợp vàng khè, vàng choé, vàng xoẹ ... trong tiếng Việt chẳng giúp ích gì
cho người nước ngoài, dù có giỏi tiếng Việt đến đâu chăng nữa, hiểu được nghĩa
của chúng; ở bình diện ngữ pháp như cấu trúc câu chẳng hạn, sự khác nhau về hình
thức cấu tạo câu giữa các ngôn ngữ cũng phản ánh sự khác nhau về hệ thống tri
thức của mỗi dân tộc khi cấu trúc câu cho ngôn ngữ dân tộc mình. Sự khác nhau
này không chỉ dừng lại ở tri thức ngữ pháp mà nó phản ánh sự khác nhau về
phương thức, phương pháp hành vi trong nhận thức, phản ánh thế giới khách quan,
tư duy, cách thức tổ chức nội dung tư tưởng để biểu đạt câu của mỗi dân tộc. Sự
thiếu hụt tri thức đó sẽ dẫn đến cấu trúc câu không đúng về mặt ngữ pháp hoặc có
thể không sai về hình thức câu nhưng người bản ngữ lại ― không nói như vậy‖, ở
trường hợp này, những câu thành ngữ tiếng Việt như ―cao chạy xa bay‖, ―chó treo
mèo đậy‖ thật là ―vô lý‖ về mặt ngữ pháp khiến cho người được học ngoại ngữ khó
lòng mà chấp nhận ngay được; ở bình diện từ vựng – ngữ nghĩa, có rất nhiều điều
để nêu nhưng có lẽ nổi lên, hay được nhắc đến là sự khác nhau về đặc trưng văn
hoá được phản ánh trong các nét nghĩa của những từ tương đương giữa các ngôn
- Xem thêm -