ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------*****------------
TRỊNH CÔNG MINH
LỖI SỬ DỤNG GIỚI TỪ
TIẾNG ANH CỦA NGƢỜI VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
Hà nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------*****------------
TRỊNH CÔNG MINH
LỖI SỬ DỤNG GIỚI TỪ
TIẾNG ANH CỦA NGƢỜI VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
Mã số: 60 22 02 40
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN KHÁNH HÀ
Hà nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công
bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Trịnh Công Minh
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới TS. Nguyễn Khánh Hà,
người đã
tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận
văn này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngôn ngữ họcTrường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã
tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em trong suốt quá trình học tập tại trường.
Do thời gian có hạn, Luận văn khó có thể tránh khỏi những thiếu sót,
em rất mong nhận được những đóng góp của các thầy giáo, cô giáo và các
bạn để Luận văn được hoàn thiện hơn. Qua đó, em sẽ có thêm những kiến
thức bổ ích để thực hiện tốtt việc giảng dạy và những công trình nghiên cứu
tiếp theo.
Hà nội – 2014
Tác giả
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
trang
Biểu đồ 2.1
Kết quả khảo sát lỗi giới từ trong câu
35
Bảng 3.1
Vị trí của giới từ trong câu tiếng Anh
64
Hình 3.1
Tam giác phân biệt giới từ in, on, at
72
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Danh mục các bảng, biểu
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
4
2. Lịch sử nghiên cứu
5
3. Đối tƣợng và nhiệm vụ nghiên cứu
6
4. Phạm vi nghiên cứu
7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
7
6. Ý nghĩa đề tài
8
7. Bố cục luận văn
8
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
9
1.1. Giới từ
9
1.1.1. Định nghĩa về giới từ
9
1.1.2. Đặc điểm giới từ
15
1.1.3. Phân loại giới từ
17
1.2. Lỗi và một số vấn đề lý thuyết liên quan
23
1.2.1. Khái niệm về lỗi
23
1.2.2. Giả thuyết về nguồn gốc và sự hình thành phát triển lỗi
26
1.2.3. Nguyên nhân tạo lỗi và quá trình phân tích lỗi
27
1.3. Tiểu kết
31
CHƢƠNG 2. KHẢO SÁT LỖI SỬ DỤNG GIỚI TỪ TIẾNG
33
ANH CỦA NGƢỜI VIỆT
1
2.1. Đối tƣợng và phƣơng thức khảo sát
33
2.1.1. Đối tượng khảo sát
33
2.1.2. Phương thức khảo sát
33
2.2. Kết quả khảo sát
34
2.3. Phân tích kết quả khảo sát
36
2.3.1. Lỗi sử dụng sai giới từ.
36
2.3.2. Lỗi sử dụng thừa giới từ.
37
2.3.3. Lỗi do sử dụng nhầm giữa hai giới từ.
38
2.3.4. Lỗi dùng thiếu giới từ.
42
2.4. Lỗi về cấu trúc
44
2.4.1. Dùng thiếu hoặc thừa từ
44
2.4.2. Nhầm lẫn trong cách sử dụng giới từ
47
2.5. Lỗi về nghĩa
50
2.5.1. Chọn không đúng giới từ cần dùng
50
2.5.2. Dịch sai nghĩa của giới từ
57
2.6. Tiểu kết
60
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC LỖI SỬ
62
DỤNG GIỚI TỪ TIẾNG ANH CỦA NGƢỜI VIỆT
3.1. Giải pháp khắc phục nguyên nhân gây lỗi xét từ góc độ
62
cấu trúc
3.2. Giải pháp khắc phục nguyên nhân gây lỗi xét từ góc độ
66
ngữ nghĩa
3.3. Giải pháp khắc phục nguyên nhân gây lỗi xét từ góc độ sƣ
72
phạm
3.3.1. Về phía giáo viên
72
2
3.3.2. Về phía học viên
78
3.4. Tiểu kết
81
KẾT LUẬN
83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
85
PHỤ LỤC 1
92
PHỤ LỤC 2
95
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay trong quá trình toàn cầu hóa, năng lực sử dụng ngoại ngữ thực sự
cần thiết đối với mọi người. Những tiến bộ trong khoa học kỹ thuật đã dẫn tới sự
bùng nổ về tri thức, trong đó ngoại ngữ là nhân tố chính và là phương tiện hữu
hiệu nhất trong việc trao đổi thông tin giữa con người với nhau. Tiếng Anh
không những là ngôn ngữ chính thức của khoảng 30 quốc gia trên thế giới mà
còn là ngôn ngữ chung trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, kinh doanh, và các
phương tiện truyền thông. Nó cũng là ngôn ngữ của văn học, giáo dục, âm nhạc
hiện đại và du lịch quốc tế.
Việc dạy và học tiếng Anh ở Việt Nam đã và đang trải qua những sự thay
đổi lớn lao song song với công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển của đất
nước. Nhìn chung lĩnh vực này đã đạt được những kết quả đáng kể, nhưng vẫn
còn tồn tại nhiều khó khăn trong dạy và học ở các cấp, đặc biệt đối với những
người học không học chuyên sâu ngoại ngữ. Những thành tựu nghiên cứu ngôn
ngữ học đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các phương pháp hiện đại
vào dạy ngoại ngữ. Tuy nhiên có thể nói các phương pháp này chưa đem lại kết
quả như mong muốn, và số lượng người thành thạo các kỹ năng nghe, nói, đọc,
viết còn hạn chế, đặc biệt là trong các ngành khoa học kỹ thuật, ứng dụng công
nghệ. Người Việt học tiếng Anh gặp nhiều khó khăn do sự khác biệt giữa tiếng
Anh và tiếng Việt về cấu trúc ngữ âm, cấu trúc ngữ nghĩa và cấu trúc ngữ pháp.
Những khác biệt này khiến người học rất dễ mắc lỗi trong quá trình tiếp thu kiến
thức và luyện tập. Để việc dạy và học đạt kết quả cao, thì một trong những khâu
quan trọng nhất là tìm ra nguyên nhân gây lỗi và sửa những lỗi đó.
Trong các lỗi mà người học có thể gặp phải, lỗi giới từ được coi là một
loại lỗi khá phổ biến đối với học viên người Việt. Bởi muốn sử dụng đúng giới
4
từ thì người học phải chú ý tới các nhân tố chi phối chúng như: cấu trúc, ngữ
nghĩa, cách nhận thức thế giới của mỗi dân tộc,…song điều này không dễ dàng.
Chính vì thế, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chọn các lỗi sử dụng giới từ
trong tiếng Anh của người Việt làm đối tượng nghiên cứu với hi vọng góp phần
nâng cao hiệu quả dạy và học tiếng, hạn chế tối đa lỗi sử dụng giới từ của sinh
viên Việt Nam khi học tiếng Anh.
2. Lịch sử nghiên cứu
Những công trình nghiên cứu về lỗi của người học ngoại ngữ đã xuất hiện
từ rất lâu trên thế giới bởi các nghiên cứu ngôn ngữ, các nhà tâm lý học và các
giáo viên trực tiếp giảng dạy. Tại Việt Nam đề tài này cũng được đề cập qua
nhiều công trình nghiên cứu khác nhau.
Tại Anh, Mỹ, việc nghiên cứu lỗi của người nước ngoài học tiếng Anh
như một ngoại ngữ đã xuất hiện từ lâu, tiêu biểu là các công trình của Pit Corder
như Error Analysis (1974), Common Error in Language Learning; Error
Analysis, Interdisciplinary của H.V.George (1972); Principle of Language
Learning and Teaching của H. Douglas (1994)… Nhìn chung, các công trình này
ở những mức độ phân tích, tiếp cận khác nhau đã chỉ ra được các nguyên nhân
mắc lỗi của người học tiếng, đồng thời qua việc thống kê, phân loại, dự báo lỗi,
các tác giả cũng đã đưa ra những giải pháp khắc phục và đề xuất các phương
pháp giảng dạy tiếng Anh hiệu quả. Kết quả nghiên cứu của các tác giả kể trên là
rất quan trọng và giúp ích cho những người nghiên cứu vấn đề này ở các góc độ
khác nhau.
Tại Việt Nam, việc nghiên cứu về lỗi cũng đã được nhiều tác giả quan tâm
tới, trong đó không thể không kể đến các công trình nghiên cứu như: luận án tiến
sĩ khoa học ngữ văn năm 2001 của Nguyễn Thiện Nam Khảo sát lỗi ngữ pháp
tiếng Việt của người nước ngoài; luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học năm 2003 của
5
Trần Thị Mai Đào Lỗi phát âm phụ âm Tiếng Anh của sinh viên Việt Nam; luận
văn thạc sĩ ngôn ngữ học năm 2004 của Dương Thị Ngọc Thúy Lỗi phát âm
trọng âm từ Tiếng Anh của học sinh Việt Nam; luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học
năm 2008 của Đào Thị Thanh Huyền Khảo sát lỗi ngữ âm của người Trung
Quốc học Tiếng Việt và cách khắc phục,…
Chúng ta không thể phủ nhận rằng những đóng góp của các công trình
nghiên cứu kể trên rất quý báu và đáng được trân trọng. Kết quả nghiên cứu của
các công trình đó giúp cho việc giảng dạy ngoại ngữ nói chung, giảng dạy tiếng
Anh nói riêng của các giáo viên đạt được hiệu quả cao, đồng thời cũng giúp cho
người học nhận ra được lỗi và đạt được tiến bộ trong việc học ngoại ngữ.
Tóm lại, vấn đề nhận biết lỗi và chữa lỗi trong học ngoại ngữ, cụ thể là
trong việc sử dụng giới từ tiếng Anh của người Việt thực sự cần thiết cho những
người học ngoại ngữ, nhất là ở trình độ cơ sở. Nghiên cứu vấn đề này là việc làm
cần thiết nhằm nâng cao chất lượng của dạy và học ngoại ngữ.
3. Đối tƣợng và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các lỗi sử dụng giới từ tiếng Anh
của người Việt, cụ thể là sinh viên năm thứ nhất không chuyên ngoại ngữ của
Trường Cao đẳng Công nghiệp Phúc Yên, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đặt ra các nhiệm vụ cụ thể sau:
1. Xác định, thống kê, mô tả các dạng lỗi mà sinh viên thường mắc phải
trên cơ sở khảo sát các bài tập về giới từ tiếng Anh của sinh viên trường Cao
đẳng Công Nghiệp Phúc Yên, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
6
2. Lý giải các nguyên nhân gây lỗi thông qua việc tìm hiểu những đặc
điểm của hệ thống giới từ tiếng Anh và tiếng Việt, nhìn nhận chúng trên các
phương diện cấu trúc, ngữ nghĩa và ngữ dụng.
3. Qua việc khảo sát lỗi giới từ của sinh viên Việt Nam học tiếng Anh,
chúng tôi đưa ra một số giải pháp khắc phục lỗi sử dụng giới từ. Các giải pháp
này có tính đến những đặc điểm việc dạy và học ngoại ngữ, cụ thể trong việc dạy
và học giới từ.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi tiến hành khảo sát các lỗi sử dụng
giới từ của người Việt khi học tiếng Anh thông qua việc khảo sát 300 sinh viên
của Trường Cao đẳng Công nghiệp Phúc Yên.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
5.1. Phương pháp thống kê
Phương pháp thống kê giúp cho chúng tôi xác định được tỷ lệ mắc lỗi
trong việc sử dụng giới từ tiếng Anh của sinh viên.
5.2. Phương pháp miêu tả
Trên cơ sở dữ liệu thống kê tỷ lệ mắc lỗi, chúng tôi đi sâu phân tích một
cách chi tiết các lỗi mà sinh viên thường gặp, để từ đó giúp cho người dạy lẫn
người học có những phương pháp mới nhằm nâng cao chất lượng trong việc sử
dụng ngôn ngữ Anh.
5.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
Ngoài hai phương pháp trên, chúng tôi còn tiến hành đối chiếu cách sử
dụng giới từ trong tiếng Anh và tiếng Việt để tìm ra nét tương đồng và khác biệt
giữa hai ngôn ngữ khác loại hình.
7
Đồng thời để tìm hiểu và phát hiện các đặc trưng ngữ nghĩa, chức năng
của giới từ trong tiếng Anh và tiếng Việt, chúng tôi sẽ áp dụng các thủ pháp phân
tích khác khi cần thiết.
6. Ý nghĩa đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Việc nghiên cứu đề tài này giúp hiểu rõ nguồn gốc, quá trình hình thành
lỗi, đồng thời cũng vạch ra một số điểm tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn
ngữ Anh- Việt để từ đó có thể tham gia vào định hướng phương pháp luận cho
việc nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ thứ hai.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Tìm hiểu việc sử dụng giới từ, luận văn hướng tới việc nâng cao chất
lượng giảng dạy, nhằm hoàn thiện phương pháp dạy tiếng Anh trong nhà trường.
Bên cạnh đó, luận văn cũng có những tác dụng thực tế đối với việc dạy và học
tiếng Anh cho học viên người Việt, giúp các học viên rút ngắn thời gian học tập
và có thể đi sâu vào nghiên cứu, ứng dụng các kết quả nghiên cứu đã đạt được.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, phần chính của luận văn được
chia thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 2: Khảo sát lỗi sử dụng giới từ tiếng Anh của người Việt
Chương 3: Một số giải pháp khắc phục lỗi sử dụng giới từ tiếng Anh của
người Việt
8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1.
Giới từ
1.1.1. Định nghĩa về giới từ
1.1.1.1. Giới từ tiếng Anh
Trong ngôn ngữ học đại cương, vấn đề phân định từ loại đã được đề cập từ
thời Hy Lạp cổ đại. Nhưng phải đến thế kỉ thứ IV trước công nguyên thì từ loại
giới từ mới được chú ý đến, mà người đầu tiên là Aristote (384 – 322 tr.CN).
Trong số các từ loại mà ông phân định, giới từ cùng với liên từ được gộp vào
một loại là từ nối. Một trường phái khác của triết học Hy Lạp, tiêu biểu là Stoic
cũng phân biệt bốn thành phần của lời nói: danh từ, động từ, liên từ và mạo từ.
Dựa trên các công trình của trường phái Stoic, các học giả thuộc trường phái
Alexandria đã phân chia thành tám từ loại khác nhau, trong đó có giới từ. Theo
đó, từ loại này được định nghĩa như sau: "Giới từ là những từ phụ đứng trước
các từ khác". [ Đinh Văn Đức 1986: 10].
Theo quan điểm của ngữ pháp truyền thống, giới từ chỉ được xem như một
thành phần phụ của danh từ hay đại từ. Vì thế, trong tiếng Anh, giới từ cũng chỉ
được coi là tên gọi của một từ loại đối lập với các từ loại khác như danh từ, động
từ, tính từ, trạng từ, v.v. Đến thập niên 90 của thế kỷ XX, nhiều nhà ngôn ngữ
học như: Ronald Langacker với ngữ pháp tri nhận (Cognitive Grammar), Joan
Bresnan với ngữ pháp từ chức năng (Functional Lexical Grammar), Hudson với
ngữ pháp từ (Word Grammar),… đã mở rộng danh sách giới từ theo hai hướng:
(1) Giới từ không bắt buộc phải có bổ ngữ theo sau, và (2) Bổ ngữ của giới từ
không nhất thiết phải là danh từ. Chính vì sự mở rộng này mà nhiều từ được xếp
vào các từ loại khác nhau như “giới từ”, “trạng từ”, “liên từ phụ thuộc” hay “tiểu
từ”. Theo quan điểm của các nhà ngôn ngữ học chức năng như: Talmy Givón,
9
Sylvia Chalker, Angela Downing, Philip Locke,… các tác giả này cũng vẫn chỉ
coi giới từ là một lớp từ nhỏ. Chalker định nghĩa giới từ như sau “Giới từ là một
tiểu loại từ. Chúng được dùng để kết nối các loại từ với các thành phần khác
trong câu. Một số giới từ còn lệ thuộc vào các loại từ khác. Nhưng giới từ là loại
từ khép kín về nghĩa và chúng ta không thể tạo mới ra những giới từ đơn nữa”
[Chalker, S 1992:102].
Các nhà ngữ pháp học hiện đại, khi nghiên cứu về giới từ tiếng Anh, cũng
đưa ra nhiều quan niệm khác nhau, nhưng nhìn chung đều khá thống nhất về
những đặc điểm cơ bản của giới từ. Dưới đây, chúng tôi điểm qua một số định
nghĩa về giới từ tiếng Anh.
Trong cuốn Oxford Advanced Learner’s Dictionary of Current Engllish,
các tác giả A.S. Hornby, E.V. Gatenby và H. Wakefield (Oxford University
Press, 1970) định nghĩa: “Giới từ là một từ hay nhiều từ được dùng với một danh
từ hay đại từ để chỉ mối quan hệ của nó với những từ khác” [A.S. Hornby, E.V.
Gatenby và H. Wakefield 1970: 763].
Theo H. A. Gleason,“Giới từ là những từ chức năng mà ngữ nghĩa của nó
bị ý nghĩa ngữ pháp làm lu mờ” [H. A. Gleason 1968: 215].
J. B. Heaton, trong cuốn Prepositions and adverbial particles (Giới từ và
tiểu trạng từ) cho rằng “Giới từ là một từ loại chỉ mối quan hệ giữa danh từ hay
đại từ với những từ khác trong câu. Giới từ thường đứng trước danh từ hay đại
từ mà nó chi phối” [J. B. Heaton 1965: 1].
W. S. Allen, trong cuốn Living English Structure (Cấu trúc tiếng Anh hiện
hành) cho rằng: “Giới từ luôn được đặt trước từ mà nó chi phối, chỉ ra mối quan
hệ giữa các từ hay cụm từ, mà thông thường là các mối quan hệ về thời gian, vị
trí và phương hướng, các quan niệm về tinh thần hay xúc cảm. Giới từ cũng
10
đứng sau các từ mà nó chi phối, đặc biệt là trong câu hỏi và các mệnh đề quan
hệ hoặc nghi vấn” [W. S. Allen 1958: 292].
Penelope Choy và James R.Mc Cormick, trong công trình Basic Grammar
and Usage (Ngữ pháp cơ bản và cách dùng) quan niệm: “Giới từ là những từ
ngắn trong ngôn ngữ của chúng ta được dùng để chỉ vị trí và mối quan hệ của
một tân ngữ nào đó với tân ngữ kia” [Penelope Choy and James R.Mc Cormick
1998: 25].
Các tác giả R. Quirk, S. Greenbaum, G. Leech và J. Svartvik, trong công
trình A comprehensive grammar of the English language (Ngữ pháp tiếng Anh
tường giải) cho rằng: “Theo cách nói khái quát nhất, giới từ biểu thị mối quan hệ
giữa hai tổng thể, trong đó một được diễn tả bằng bổ ngữ giới từ” [R. Quirk, S.
Greenbaum, G. Leech and J. Svartvik 1985: 657].
Sylvia Chalker, một nhà ngôn ngữ học chức năng lại định nghĩa: “Giới từ
là một loại tiểu từ. Chúng được dùng để nối các từ loại (thường là danh từ) với
các thành phần khác trong câu. Một số giới từ còn lệ thuộc vào các từ loại khác
(VD: trạng từ, liên từ, tính từ). Nhưng giới từ là từ loại khép kín về nghĩa và
chúng ta không thể tạo mới ra những giới từ đơn nữa”. [Downing A. and Locke
P.A 1995: 580].
M.A.K. Halliday trong công trình An Introduction to Functional Grammar
(Nhập môn Ngữ pháp chức năng) của mình, cho rằng: “Giới từ không phải là lớp
nhỏ của phó từ, giới từ có quan hệ với động từ và làm chức năng là từ nối”
[M.A.K. Halliday 1985: 212].
Qua những quan niệm về giới từ nói trên, có thể thấy rằng mỗi tác giả
thường lấy một vài đặc điểm được coi là đặc trưng của giới từ để đưa ra định
nghĩa của riêng mình về từ loại này. Nếu như H. A. Gleason và W. S. Allen quan
tâm tới mặt ngữ nghĩa (sự lu mờ của nghĩa từ vựng so với nghĩa ngữ pháp hay
11
các kiểu nghĩa tồn tại trong giới từ) thì A.S. Hornby, E.V. Gatenby và H.
Wakefield, J. H. Heaton, Penelope Choy và James Mc Cormick, R. Quirk, S.
Greenbaum, G. Leech và J. Svartvik, M.A.K. Halliday,… lại quan tâm tới mối
quan hệ của giới từ với những từ khác trong câu. Còn nhà ngôn ngữ học chức
năng Sylvia Chalker thì quan tâm tới cả chức năng, ngữ nghĩa của giới từ lẫn
mối quan hệ của nó với các từ loại khác, cho rằng giới từ không thể đứng một
mình mà tồn tại trong giới ngữ. Từ sự thống nhất tương đối trong cách định
nghĩa của các tác giả nói trên, chúng tôi rút ra một số điểm đặc trưng của giới từ
tiếng Anh như sau:
(1) Về hình thức, giới từ có thể là từ đơn hay từ ghép; không thể độc lập làm
thành phần của cụm từ và câu.
(2) Về ngữ nghĩa, giới từ không có ý nghĩa từ vựng chân thực, chủ yếu mang
ý nghĩa ngữ pháp. Các kiểu nghĩa tồn tại trong giới từ có thể là thời gian,
vị trí, phương hướng, xúc cảm,…
(3) Về vị trí, giới từ thường đứng trước danh từ hoặc đại từ mà nó chi phối.
(4) Về chức năng, giới từ làm thành tố phụ để kết nối các thành phần trong
câu, xác định mối quan hệ giữa các từ mà chúng liên kết.
1.1.1.2. Giới từ tiếng Việt
Trong giới Việt ngữ học, một số tác giả không thừa nhận việc phân định từ
loại trong tiếng Việt. Theo đó, các tác giả này cũng phủ nhận sự tồn tại của giới
từ. Phần lớn các nhà nghiên cứu khác đều thừa nhận sự tồn tại của giới từ trong
tiếng Việt, mặc dù cho đến nay nó vẫn không được coi là từ loại quan trọng. Hơn
nữa, các quan niệm xung quanh từ loại này cũng có những điểm khác biệt nhất
định giữa các nhà Việt ngữ học nên việc đưa ra bộ tiêu chí để xác định giới từ
cũng chưa có sự thống nhất cao.
12
Với công trình Văn phạm Việt Nam (1956), Bùi Đức Tịnh coi giới từ cũng
là một loại từ loại trong chín loại từ loại khác: “Giới từ và giới ngữ là những từ
dùng để chỉ sự tương quan giữa ý nghĩa của hai từ và hai mệnh đề. Giữa hai từ
ta còn dùng một giới từ. Giữa hai mệnh đề, ta dùng một giới từ”. [Bùi Đức Tịnh
1956: 319].
Trong cuốn Việt Nam văn phạm, Trần Trọng Kim cho rằng “Giới từ là
tiếng dùng để liên lạc một tiếng với tiếng túc từ của nó” [Trần Trọng Kim 1960:
31]
Khác với những tác giả trên, không chỉ tập trung vào việc chỉ ra chức năng
của giới từ, tác giả Nguyễn Kim Thản (1984) làm rõ vị trí của giới từ trong hệ
thống, cụ thể là giới từ là một loại hư từ thuộc nhóm quan hệ từ. Ông cho rằng:
“Giới từ là một loại hư từ (trong nhóm quan hệ từ) có tác dụng nối liền từ phụ
(hoặc từ tổ phụ) với chính (hoặc từ tổ chính) biểu thị quan hệ ngữ pháp giữa hai
đơn vị đó”. [Nguyễn Kim Thản 1984: 330]
Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, Đinh Văn Đức coi giới từ cùng với liên
từ thuộc hư từ cú pháp. “Hư từ cú pháp, theo đó cũng là công cụ diễn đạt các
quan hệ logic, các quan hệ trong cách thức phản ánh của người bản ngữ. Các
hư từ cú pháp không làm trung tâm và cũng không làm thành tố phụ đoản ngữ,
chúng là một thứ phương tiện liên kết “xúc tác” thành tố phụ với trung tâm đoản
ngữ, các đoản ngữ, các mệnh đề với nhau trong cấu trúc phát ngôn” [Đinh Văn
Đức 1986: 179].
Nguyễn Minh Thuyết trong bài Thảo luận về vấn đề xác định hư từ trong
tiếng Việt cho giới từ là một từ loại năm trong hư từ chân chính, nó “(1) Không
có ý nghĩa chân thực; (2) Không có khả năng làm thành phần câu và khả năng
một mình làm nên một câu độc lập” [Nguyễn Minh Thuyết 1986: 39].
13
Tác giả Vũ Văn Thi cũng cho rằng: “Giới từ là một loại hư từ thuộc nhóm
quan hệ từ, có chức năng thể hiện mối quan hệ cú pháp giữa thành phần chính
và thành phần phụ trong câu” [Vũ Văn Thi 1995: 25]
Trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nguyễn Như Ý
đưa ra định nghĩa về giới từ: “Giới từ - từ loại có ý nghĩa phạm trù đặc trưng là
biểu thị quan hệ của đối tượng với đối tượng, hiện tượng, cảnh huống. Ý nghĩa
này được biểu hiện không phải bằng ý nghĩa từ vựng chân thực mà bằng đặc
điểm hoạt động của chúng với tư cách là các từ hư chỉ quan hệ” [Nguyễn Như Ý
1996: 104].
Cũng nhấn mạnh vào chức năng của giới từ, Phan Khôi quan niệm: “Giới
từ dùng để giới thiệu danh từ hoặc đại danh từ đến với động từ, danh từ hoặc đại
danh từ khác để tỏ ra sự quan hệ giữa chúng nó với nhau” [Phan Khôi 1997:
195].
Đề cập đến giới từ, Diệp Quang Ban không gọi là “quan hệ từ” mà gọi từ
loại này là “kết từ”. Ông cũng phân chia kết từ thành hai lớp: lớp kết từ chính
phụ (giới từ) và lớp từ đẳng lập (liên từ). Tác giả này quan niệm: “Kết từ chính
phụ dùng để nối kết thành tố phụ vào thành tố chính (nối kết từ phụ với từ chính,
thành phần phụ với thành phần chính của câu” [Diệp Quang Ban 1998: 137].
Cũng giống như Nguyễn Kim Thản xếp giới từ vào nhóm quan hệ từ,
trong Ngữ pháp tiếng Việt, tác giả Nguyễn Hữu Quỳnh cho rằng “quan hệ từ là
những từ chỉ các quan hệ ngữ pháp dùng để nối các thành phần trong câu hay
các thành tố trong cụm từ. Quan hệ từ cũng như phó từ không có ý nghĩa từ
vựng, ý nghĩa thực, mà chỉ có ý nghĩa ngữ pháp và không bao giờ đứng làm chức
năng chủ ngữ, vị ngữ trong câu” [Nguyễn Hữu Quỳnh 2001: 161]. Ông chia
quan hệ thành hai tiểu loại: quan hệ từ chính phụ (giới từ) và quan hệ từ liên hợp
(liên từ).
14
Từ những quan điểm trên của các nhà Việt ngữ học, có thể thấy rằng giới
từ tiếng Việt, được hầu hết các nhà nghiên cứu khẳng định sự tồn tại của nó.
Giới từ tiếng Việt từng được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau, chẳng hạn “hư
từ” hay “hư từ chân chính” như Nguyễn Anh Quế (trong Hư từ trong tiếng Việt
hiện đại), Nguyễn Minh Thuyết (trong Thảo luận về vấn đề xác định hư từ trong
tiếng Việt), “hư từ cú pháp” như Đinh Văn Đức (trong Ngữ pháp tiếng Việt), Lê
Biên (trong Từ loại tiếng Việt hiện đại), hay “quan hệ từ” như Nguyễn Kim Thản
(trong Lược sử ngôn ngữ học), Nguyễn Hữu Quỳnh (trong Tiếng Việt hiện đại),
“kết từ” như Diệp Quang Ban (trong Một số vấn đề về câu tồn tại trong tiếng
Việt). Nhìn chung, giới từ tiếng Việt được các nhà Việt ngữ học định nghĩa dựa
trên các khía cạnh ngữ nghĩa và chức năng.
Về ngữ nghĩa, giới từ không có ý nghĩa từ vựng hay ý nghĩa chân thực, chỉ
có ý nghĩa ngữ pháp.
Về chức năng, giới từ biểu thị mối liên hệ/ nối kết/ liên kết giữa thành
phần chính và thành phần phụ trong câu (hay giữa đối tượng này với đối tượng
khác).
1.1.2. Đặc điểm giới từ
Do đặc trưng loại hình nên giới từ tiếng Việt và tiếng Anh có những đặc
điểm riêng biệt. Các đặc điểm này cũng được nhiều nhà nghiên cứu đề cập, có
thể thêm hay bớt một số nội dung nào đó. Dưới đây, chúng tôi xin nêu ra cách
quan niệm mà theo chúng tôi là khá toàn diện và có thể nêu bật được những đặc
trưng cơ bản nhất của giới từ.
1.1.2.1. Giới từ tiếng Anh
Trong tiếng Anh, giới từ là tên gọi của một loại từ đối lập với các loại từ
khác như danh từ, tính từ, trạng từ, v.v…., những từ như of, in, on, at, by,…
15
- Xem thêm -