Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu mô hình công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi tại trung tâm nuôi dưỡn...

Tài liệu Nghiên cứu mô hình công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi tại trung tâm nuôi dưỡng trẻ em mồ côi hà cầu – hà đông - hà nội

.PDF
113
1116
86

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN *************** NGUYỄN THỊ QUỲNH NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI TẠI TRUNG TÂM NUÔI DƢỠNG TRẺ EM MỒ CÔI HÀ CẦU – HÀ ĐÔNG – HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ Hà Nội – 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN *************** NGUYỄN THỊ QUỲNH NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI TẠI TRUNG TÂM NUÔI DƢỠNG TRẺ EM MỒ CÔI HÀ CẦU – HÀ ĐÔNG – HÀ NỘI Chuyên ngành: Công tác xã hội Mã số: 60900101 LUẬN VĂN THẠC SỸ Ngƣời hƣớng dẫn: PGS. Nguyễn An Lịch Hà Nội - 2014 Lời cảm ơn Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Nghiên cứu mô hình công tác xã hội tại trung tâm nuôi dưỡng trẻ em mồ côi Hà Cầu – Hà Đông – Hà Nội”, cùng nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của nhiều thầy cô, bạn bè, người thân, cán bộ, nhân viên tại trung tâm nuôi dưỡng, các em đang sống tại trung tâm nuôi dưỡng và của một số cơ quan, người dân tại địa bàn nghiên cứu... Qua đây, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo: PGS. TS Nguyễn An Lịch - người đã tận tâm theo dõi, chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập cũng như khi thực hiện luận văn này. Xin chân thành cảm ơn các mẹ cùng với các em tại trung tâm nuôi dưỡng đã không ngần ngại chia sẻ hoàn cảnh, hợp tác với tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Xin chân thành cảm ơn các cán bộ, công nhân viên của một số cơ quan, người dân...tại Hà Cầu đã tạo điều kiện cho tôi khi thâm nhập khảo sát thực tế, thu thập thông tin phục vụ cho đề tài nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn thầy cô trong khoa Xã hội học - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập. Hy vọng thầy cô và các bạn sẽ có những đóng góp bổ ích giúp cho luận văn này khắc phục được những hạn chế và hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, 2014 Nguyễn Thị Quỳnh DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT - CTXH : Công tác xã hội - TEMC: Trẻ em mồ côi - TTND: trung tâm nuôi dưỡng DANH MỤC BẢNG BIỂU Biểu 1.1. Mô hình hệ thống sinh thái ở trẻ em Biểu 1.2. Tháp nhu cầu theo Abraham Maslow Biểu 2.1. Phối hợp giáo dục kỹ năng sống Biểu 2.2. Số lượng trẻ em khám bệnh định kỳ Phần 1. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em, trong bối cảnh đặc trưng về kinh tế - văn hóa – xã hội – con người, Việt Nam đã Trẻ em, thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước, nhịp cầu nối các thành viên trong gia đình, đã trở thành mối quan tâm hàng đầu trong các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của các quốc gia.Nhận thức tầm quan trọng đó, Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em của Liên hợp quốc (Việt Nam phê chuẩn ngày 20/02/1990). Trên cơ sở ban hành và từng bước hoàn thiện nhiều văn bản pháp lý liên quan như Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Nuôi con nuôi, Luật phòng chống mua bán người… và nhiều chương trình, chính sách, kế hoạch hành động nhằm gắn mục tiêu bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em với các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội quốc gia. Hiện thực hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội dành cho trẻ em trong đó có nhóm trẻ em mồ côi được hình thành rộng khắp trên cả nước. Hình thức hoạt động của cơ sở bảo trợ xã hội gồm cơ sở bảo trợ xã hội công lập, cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập và các mô hình chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em dựa vào cộng đồng. Tên gọi của các cơ sở khá đa dạng dựa trên những đặc thù riêng như trung tâm nuôi dưỡng (TTND), cứu trợ, hỗ trợ, nuôi dưỡng, điều trị, điều dưỡng, giáo dục, dạy nghề, làng trẻ em SOS, nhà trẻ, nhà tình thương, nhà nuôi dưỡng, nhà an toàn, mái ấm tình thương, cô nhi viện, cơ sở nuôi dưỡng, khu bảo trợ… Trên địa bàn Thành phố Hà Nội, mạng lướ icơ sở bảo trợ xã hội ngày càng phát triển và đa dạng.Theo số liệu thống kê, Hà Nội hiện có 20 cơ sở bảo trợ xã hội, trong đó có đến 14 cơ sở bảo trợ xã hội dành cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và 02 trung tâm có đối tượng bảo trợ trọng tâm là trẻ em mồ côi 1 [5, 6]. Tuy vậy, mạng lưới cơ sở bảo trợ xã hội vẫn chưa thể đáp ứng kịp thời sự gia tăng nhanh chóng về số lượng đối tượng trẻ em cần được bảo vệ. Ngoài ra, các mô hình hoạt động đó có phải là mô hình công tác xã hội đối với trẻ em hay không hay thuần túy là những mô hình nuôi dưỡng nặng tính nhân đạo, từ thiện, cán bộ, nhân viên làm việc tại các cơ sở bảo trợ xã hội đó có phải là những nhân viên CTXH chuyên nghiệp hay không là những vấn đề cần phải được làm rõ. Nhằm làm sáng tỏ những băn khoăn trên, tôi đã thực hiện đề tài Nghiên cứu mô hình công tác xã hội đối với trẻ mồ côi tại trung tâm nuôi dưỡng Hà Cầu – Hà Đông – Hà Nội 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là đối tượng nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Trong phạm vi nghiên cứu là trẻ em mồ côi (TEMC) và mô hình công tác xã hội (CTXH) trong các cơ sở nuôi dưỡng TEMC, tôi lựa chọn và phân tích một số công trình nghiên cứu, báo cáo, bài viết tiêu biểu. 2.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến trẻ em mồ côi “Báo cáo phân tích tình hình trẻ em ở Việt Nam” do UNICEF thực hiện năm 2010 đã xem xét tình hình trẻ em dựa trên quan điểm các nguyên tắc chính về quyền con người như bình đẳng, không phân biệt đối xử và trách nhiệm giải trình. Các cơ sở chăm sóc cả công lập và dân lập có ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước dưới nhiều hình thức như chăm sóc tại nhà, chăm sóc tập trung và các hình thức chăm sóc hỗ trợ không chính thức khác. Tình trạng số lượng cho con nuôi ra nước ngoài cao trong khi đây được quy định là biện pháp cuối cùng chỉ sử dụng khi không còn cách nào khác. Ngoài ra, báo cáo cũng chỉ ra rằng Việt Nam còn thiếu các quy định cụ thể cho việc truy tố những đối tượng hoạt động môi giới cho nhận con nuôi trái pháp luật. 2 “Điều tra đánh giá các mục tiêu về trẻ em và phụ nữ” (MICS) năm 2010–2011 cho thấy, Việt Nam có 83,7% trẻ em trong độ tuổi từ 0–17 tuổi đang sống với cả cha và mẹ, trong khi có 5,2% không sống với cả cha và mẹ. Khoảng 5,7% trẻ em chỉ sống với mẹ dù cha đẻ vẫn còn sống và 2,4% trẻ em chỉ sống với mẹ khi cha đẻ đã tử vong. Khoảng 1,8% trẻ em chỉ sống với cha dù mẹ đẻ vẫn còn sống và 0,7% chỉ sống với cha khi mẹ đẻ đã tử vong. Có 5,3% không sống với cha đẻ [20, 187]. Kết quả điều tra trên là cơ sở tham khảo hữu ích cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu song cần lưu ý rằng các số liệu về thực trạng trẻ em mồ côi của MICS ở trên là theo cách tiếp cận trẻ em mồ côi của MICS. “Một số kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển các dịch vụ công tác xã hội trong công tác bảo vệ trẻ em” của tác giả Đỗ Thị Ngọc Phương nhận định tại Anh , Mĩ, Úc, Philippines, Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, việc cung cấp dịch vụ xã hội chủ yếu là trách nhiệm của các bộ và cơ quan nhà nước. Tại các quốc gia này, cán bộ xã hội vẫn thực hiện chức năng tham vấn tâm lý xã hội, nhưng lồng ghép với đánh giá các nhu cầu phúc lợi xã hội và quản lý việc tiếp cận với các dịch vụ xã hội đa dạng khác nhau. Dịch vụ xã hội cũng có thể bao gồm việc xem xét các nhu cầu phát triển của trẻ em , gia điǹ h, cộng đồng và lồng ghép với sự tham gia của cộng đồng [13]. “Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em: Đánh giá pháp luật và chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam” tập trung đến hoàn thiện khung pháp lý đối với vấn đề nhận con nuôi trong nước và nước ngoài. Đánh giá cũng chỉ ra nhiều vấn đề cần phải khắc phục như: chưa có khung pháp lý về công tác đánh giá một cách có hệ thống và chuyên nghiệp đối với TEMC để quyết định mô hình chăm sóc nào sẽ phù hợp với lợi ích tốt nhất cho các em, đảm bảo rằng trẻ em được nhận nuôi trong một gia 3 đình thay thế phù hợp nhất với lợi ích của các em. Đây là một trong những phát hiện quan trọng và hết sức có ý nghĩa đối với nuôi dưỡng TEMC. “Nhận con nuôi từ Việt Nam” là công trình đánh giá độc lập do Hervé Boéchat, Nigel Cantwell và Mia Dambach thuộc Tổ chức Dịch vụ Xã hội Quốc tế (ISS) tiến hành tại Việt Nam năm 2009. Báo cáo đã có những quan tâm đáng kể đến vấn đề nhận con nuôi ở Việt Nam, tình hình phúc lợi trẻ em và bảo vệ trẻ em trên bình diện rộng, đặc biệt là từ góc độ những tác động trực tiếp và gián tiếp đối với nuôi con nuôi quốc tế. Báo cáo đã cung cấp cái nhìn tổng quan việc nhận con nuôi trên thế giới và những phát hiện có tính đặc trưng trong việc nhận con nuôi từ Việt Nam. “Đánh giá tình hình chăm sóc nhận nuôi và việc thực hiện quyết định 38/2004/QĐ-TTg” đã phân tích, đánh giá thực trạng trẻ em mồ côi, trẻ em cần được chăm sóc thay thế cũng như thực trạng việc thực hiện quyết định 38/2004/QĐ-TTg về chính sách trợ giúp kinh phí cho gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi. Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng trẻ mồ côi và trẻ bị bỏ rơi có xu hướng tăng lên do những biến đổi kinh tế - xã hội. Nghiên cứu nhận thấy mô hình chăm sóc nhận nuôi là mô hình phù hợp để thí điểm ở các khu vực thành phố/đô thị, nơi được biết có số lượng trẻ em bị bỏ rơi cao hơn và có nhiều gia đình có điều kiện tài chính cũng như kỹ năng chăm sóc trẻ. 2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về mô hình can thiệp, trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt “Chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng – Những cơ sở xã hội và thách thức” là bài viết đồng tác giả Nguyễn Hồng Thái và Phạm Đỗ Nhật Thắng đã tìm hiểu mô hình chăm sóc trẻ em dựa vào cộng đồng. Theo tác giả, cách tiếp cận truyền thống là tiếp cận dưới góc độ trẻ em là đối tượng cần được hỗ trợ và bảo vệ từ trên xuống mang nặng tính từ thiện, 4 bao cấp, còn tiếp cận trên cơ sở quyền trẻ em nhìn nhận trẻ em là chủ thể của quyền, có quyền được chăm sóc, bảo vệ. Trước bối cảnh số lượng trẻ em đặc biệt cần được bảo vệ ngày càng gia tăng trong khi các hình thức chăm sóc tập trung đã và đang vượt quá nhu cầu đầu vào thì hình thức chăm sóc, bảo vệ trẻ em dựa vào cộng đồng ngày càng trở lên phù hợp hơn. Tác giả đã rất cố gắng khi chỉ ra những bất cập, trở ngại trong việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt dựa vào cộng đồng song vẫn chưa chú trọng đến các giải pháp để khắc phục những hạn chế, bất cập đó. “Đánh giá mô hình ngôi nhà bình yên cho phụ nữ và trẻ em gái là nạn nhân của bạo lực gia đình và buôn bán người” là nghiên cứu của Phạm Thị Ngọc Dinh, Hồ Thị Huyền đã cho thấy mô hình ngôi nhà bình yên mang đậm nét công tác xã hội đó là tăng cường chức năng xã hội bằng cách cung cấp các dịch vụ hỗ trợ phòng chống bạo lực gia đình cho phụ nữ và trẻ em gái như dịch vụ nhà tạm lánh, tư vấn, chăm sóc sức khỏe, đào tạo nghề, dạy kỹ năngsống... Tác giả cũng cho thấy Mô hình Ngôi nhà Bình yên có thể được áp dụng xây dựng ở các địa phương trong cả nước trên cơ sở phù hợp với tình hình địa phương và nhu cầu của các đối tượng. Khi áp dụng mô hình này, cần chú ý học tập những ưu điểm (cơ cấu tổ chức khoa học, hệ thống dịch vụ toàn diện, thiết lập mạng lưới hỗ trợ, huy động nguồn lực chất lượng...); đồng thời khắc phục những điểm hạn chế (nhất là mối quan hệgiữa tính bảo mật thông tin và việc tuyên truyền về mô hình). “Kinh nghiệm tổ chức mô hình văn phòng hỗ trợ tâm lý và tư vấn hướng nghiệp tại trường THPT Trần Nhân Tông, TP.Hà Nội” của tác giả Phạm Mạnh Hà, Trần An Châu hướng đến hỗ trợ và giải toả những khó khăn tâm lý và quá trình lựa chọn nghề nghiệp của học sinh nhà trường trong quá trình học tập, đồng thời những kinh nghiệm thực tiễn rút ra được từ việc tổ chức 5 thực hiện mô hình sẽ là cơ sở khoa học để các nhà quản lý nghiên cứu xem xét và nhân rộng tới các trường THPT khác trên cả nước. “Mô hình chăm sóc trẻ em mồ côi ở Hà Nội” của nguyên Giám đốc làng trẻ SOS Hà Nội Nguyễn Thị Thanh là công trình nghiên cứu đề cập đến trẻ em mồ côi và hoạt động chăm sóc đối tượng này một cách phù hợp. Công trình đã góp phần nêu cái nhìn tổng quan tình hình trẻ em mồ côi và công tác chăm sóc trẻ em mồ côi trên địa bàn Thành phố. Mặc dù là tài liệu tham khảo bổ ích, tuy vậy, nghiên cứu mới chỉ tập trung vào việc chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh mồ côi mà chưa đề cập đến các vấn đề khác như thúc đẩy sự tham gia, hòa nhập cộng đồng, tiếp cận quyền trẻ em... “Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn với các lớp học linh hoạt” là bài viết của tác giả Trần Thị Minh Đức giới thiệu mô hình lớp học linh hoạt phù hợp với các em có hoàn cảnh đặc biệt không thể đến trường học văn hóa hay học nghề dẫn tới chậm phát triển về trí tuệ và có nguy cơ cao lây nhiễm các tệ nạn xã hội. Các em trong lớp học linh hoạt thuộc những gia đình nghèo hoặc có bố mẹ nghiện hút, buôn bán ma tuý, đánh bạc, bị tù v.v... hoặc các em là trẻ mồ côi được ở trong các Mái ấm, Nhà tình thương của cộng động. Tác giả đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu là quan sát, quan sát có sự tham gia, phỏng vấn trẻ, giáo viên, tư vấn viên và cha mẹ trẻ đề giới thiệu một hình thức giáo dục không chính quy, không mang tính hàm lâm sư phạm cho đối tượng học. Vấn đề tác giả đặt ra là triển vọng của các lớp học linh hoạt ở Hà Nội sẽ ra sao nếu các nguồn tài trợ không còn để duy trì để trả lương cho giáo viên, miễn phí sách vở, khám chữa bệnh, thậm chí cả bữa ăn cho các em. Đây là một trong những khó khăn lớn khi triển khai mô hình lớp học linh hoạt trên diện rộng ở Hà Nội. Từ những công trình nghiên cứu, những đánh giá, bài viết kể trên có thể thấy, các tác giả đã tập trung tìm hiểu, phân tích, đánh giá một số nội dung 6 liên quan đến trẻ em, mô hình chăm sóc trẻ em dựa vào cộng đồng, nuôi con nuôi, lớp học linh hoạt. Tiếp cận dưới góc độ quyền trẻ em, pháp luật dân sự được nhiều tác giả đề cập tới nhằm làm nổi bật vị trí của trẻ em trên bản đồ xã hội. Các phương pháp chủ yếu được vận dụng trong quá trình nghiên cứu là điều tra, khảo sát, nghiên cứu có sự tham gia. Quá tình tổng quan một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài tôi nhận thấy trẻ em mồ côi là nhóm đối tượng đã được nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, chuyên gia quan tâm tìm hiểu, phân tích, đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy vậy, tiếp cận từ mô hình CTXH đối với trẻ em mồ côi tại TTND thì hầu như chưa có công trình nghiên cứu chính thức nào đề cập tới. Đây là một trong những lý do chính để tôi thực hiện nghiên cứu mô hình CTXH đối với TEMC tại TTND. 3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 3.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ lý luận về mô hình CTXH đối với TEMC tại TTND, qua đó bổ sung và làm phong phú thêm cách nhìn nhận, đánh giá về mô hình CTXH đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung. 3.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu góp phần làm rõ thực trạng hoạt động đối với TEMCtại TTND. Trên cơ sở đó các nhà quản lý TTND có những giải pháp tổ chức nhân sự, cơ sở vật chất và các hoạt động của trung tâm phù hợp hơn với mô hình CTXH. Ngoài ra, các nhà hoạch định chính sách có thêm góc nhìn về thực trạng mô hình CTXH đối với TEMCtại TTND để đưa ra những điều chỉnh về chế độ chính sách, bồi dưỡng nguồn nhân lực phù hợp hơn với điều kiện kinh tế-xã hội. Kết quả nghiên cứu còn là tài liệu tham khảo hữu ích đối với 7 các học giả, nhà khoa học, nhà nghiên cứu, chuyên gia quan tâm đến mô hình CTXH đối với TEMC. 4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Mô hình CTXH đối với TEMC 4.2. Khách thể nghiên cứu Cán bộ quản lý Nhân viên xã hội Trẻ em mồ côi tại trung tâm 5. Phạm vi nghiên cứu 5.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu Tôi tìm hiểu và đánh giá hoạt động mô hình đối với TEMC tại TTND qua các nội dung cơ bản sau: Đặc điểm về cơ cấu, tổ chức, hoạt động nuôi dưỡng, giáo dục, dạy nghề, kết nối xã hội, thúc đẩy hòa nhập cộng đồng và các yếu tố theo mô hình CTXH. 5.2. Phạm vi không gian Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm nuôi dưỡng trẻ em mồ côi Hà Cầu, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội 5.3. Phạm vi thời gian Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 05/2013 đến hết tháng 03/2014 6. Câu hỏi nghiên cứu Mô hình với TEMC tại TTND được tổ chức như thế nào? Đối chiếu các yêu cầu mô hình CTXH ? Hiệu quả hoạt động của mô hình với TEMC ra sao? Những yếu tố căn bản nào ảnh hưởng đến hoạt động của mô hình? 8 Cần phải làm gì để nâng cao hiệu quả hoạt động mô hình với TEMC tại TTND theo tiêu chí mô hình CTXH. 7. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7.1. Mục đích Nghiên cứu hoạt động mô hình CTXH với TEMCtại TTND nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của TTNDtrẻ em mồ côi nói riêng và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệtnói chung. 7.2. Nhiệm vụ Thao tác hóa một số khái niệm liên quan đến trẻ em, trẻ em mồ côi, CTXH, mô hình CTXH, trung tâm nuôi dưỡng làm công cụ nghiên cứu đề tài. Tìm hiểu các công trình nghiên cứu, báo cáo, đánh giá, điều tra có liên quan đến trẻ em mồ côi, mô hình CTXH đối với trẻ em Tìm hiểu một số mô hình trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh khó khăn Thu thập thông tin về địa bàn nghiên cứu, các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa ảnh hưởng đến hoạt động bảo vệ trẻ em tại TTND Trưng cầu ý kiến của trẻ em kết hợp phỏng vấn sâu cán bộ, nhân viên tại trung tâm nuôi dưỡng và cán bộ bảo trợ xã hội nhằm làm sáng tỏ mô hình CTXH với TEMC Tìm hiểu và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của mô hình CTXH đối với TEMCtại TTND Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình CTXH đối với TEMCtại TTND. 8. Giả thuyết nghiên cứu Trung tâm nuôi dưỡng TEMC chưa hình thành rõ mô hình CTXH? 9 Năng lực của nhân viên xã hội tại trung tâm nuôi dưỡng còn hạn chế do đó cần phải nâng cao trình độ nhận thức và kỹ năng CTXH với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong đó có TEMC. 9. Phƣơng pháp nghiên cứu 9.1. Phương pháp phân tích tài liệu Quá trình thực hiện nghiên cứu, tôi đã sử dụng tư liệu từ các công trình, báo cáo, văn bản, chương trình…bao gồm: Các báo cáo: Báo cáo tóm tắt phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam 2010, báo cáo hoạt động của một số mô hình bảo vệ trẻ em không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi: trung tâm, làng trẻ, mái ấm tình thương, gia đình thay thế…, báo cáo hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em ở Hà Nội, báo cáo tình hình hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em của TTND trẻ em mồ côi Hà Cầu – Hà Đông. Văn bản pháp lý: Công ước Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em năm 1990, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi năm 2004, Luật Nuôi con nuôi năm 2010, Luật Phòng chống mua bán người, Nghị định 67/2007/NĐCP và Nghị định 13/2010/NĐ-CP bổ sung Nghị định 67/2007/NĐ/CP Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2001-2010, chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 – 2015 Các công trình nghiên cứu, sách, báo, đánh giá, bài viết về trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn,trẻ em mồ côi, mô hình nuôi dưỡng trẻ em mồ côi của nhiều nhà khoa học, học giả trong cả nước. 9.1.2. Phương pháp trưng cầu ý kiến Mục đích: Sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến nhằm lấy ý của trẻ em đang sinh sống tại Trung tâm nuôi dưỡng về cơ sở vật chất, các chế độ sinh hoạt, giáo dục, y tế, vui chơi, giải trí, hòa nhập cộng đồng 10 Đối tượng: Tất cả các em ở trung tâm Cơ cấu mẫu: + Giới tính: Trẻ em nam (29 em), trẻ em nữ (26 em) + Cấp học: Tiểu học (10 em), THCS(21 em), THPT(10 em), Sơ cấp nghề: 14 em 9.1.3. Phương pháp phỏng vấn sâu Mục đích: Sử dụng bảng hỏi phỏng vấn sâu nhằm lấy ý kiến của cán bộ, nhân viên và trẻ em tại Trung tâm nuôi dưỡng về hoạt động của mô hình nuôi dưỡng TEMC, vai trò, trách nhiệm của họ như những nhân viên xã hội Đối tượng: Cán bộ và nhân viên tại TTND Cơ cấu mẫu: Cán bộ quản lý (01), nhân viên (02), cán bộ bảo trợ xã hội (02), trẻ em (04). 9.1.4. Phương pháp quan sát Sử dụng phương pháp quan sát nhằm: Nắm bắt được thể trạng và các biểu hiện trong giao tiếp, ứng xửgiữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với cán bộ, nhân viên và với khách đến Trung tâmđể biết các em có gặp vấn đề về sức khỏe, tâm lý, giao tiếp Đánh giá thái độ, hành vi của cán bộ, nhân viên với vai trò là những nhân viên CTXH. 9.2. Phương pháp xử lý số liệu Các số liệu định lượng thu thập được xử lý, phân tích qua phần mềm chuyên dụng SPSS 18.0. 11 Phần 2. NỘI DUNG Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Một số khái niệm công cụ trong nghiên cứu 1.1.1.1. Trẻ em Khái niệm “Trẻ em” hiện nay chưa có sự thống nhất giữa các cơ quan, tổ chức trong nước và ngoài nước: Theo quan điểm của một số tổ chức quốc tế trực thuộc Liên hiệp quốc như Quỹ Dân số (UNFPA), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (UNESCO) xác định trẻ em là người dưới 15 tuổi. Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc công bố năm 1989 xác định “Trong phạm vi công ước này, trẻ em có nghĩa là dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [11]. Tại Việt Nam, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [15]. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi vận dụng khái niệm Trẻ em theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. Cụ thể, trong phạm vi nghiên cứu trẻ em là những em có hoàn cảnh mồ côi dưới 16 tuổi tại TTND trẻ em mồ côi Hà Cầu, quận Hà Đông. 1.1.1.2. Trẻ em mồ côi Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi năm 2004 quy định trẻ em mồ côi được hiểu là những trẻ em có hoàn cảnh như sau [15]: 12 Mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc bị bỏ rơi, bị mất nguồn nuôi dưỡng và không còn người thân thích ruột thịt (ông, bà nội, ngoại; bố, mẹ nuôi hợp pháp; anh, chị) để nương tựa. Mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại (mẹ hoặc cha) mất tích theo quy định của Bộ luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng (như tàn tật nặng, đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại cải tạo), không có nguồn nuôi dưỡng và không có người thân thích để nương tựa. Theo Luật Nuôi con nuôi ban hành năm 2010 [16] thì: Trẻ em mồ côi là trẻ em mà cả cha mẹ đẻ đã chết hoặc một trong hai người đã chết và người kia không xác định được Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi xác định, trẻ em mồ côi là những em dưới 16 tuổi và có hoàn cảnh: cả cha lẫn mẹ đã chết, hoặc cha hoặc mẹ đã chết; cả cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đã mất tích theo uy định của Pháp luật Dân sự (gồm có cha, mẹ đẻ; cha, mẹ nuôi hợp pháp). 1.1.1.3. Trung tâm nuôi dưỡng Theo Điều 1 và Điều 2, Nghị định 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ xã hội thì những cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng từ 10 đối tượng trở lên được coi là cơ sở bảo trợ xã hội. Cơ sở bảo trợ xã hội bao gồm cơ sở bảo trợ xã hội công lập và cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập.Cơ sở bảo trợ xã hội công lập do cơ quan nhà nước quản lý, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên của cơ sở bảo trợ xã hội.Cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên của cơ sở bảo trợ xã hội [5]. 13 Cơ sở bảo trợ xã hội là tên gọi chung cho tất cả các mô hình hoạt động bảo trợ xã hội dưới các hình thức tên gọi khác nhau phụ thuộc vào đối tượng, chức năng và nhiệm vụ của đơn vị đó.Trong nghiên cứu này, TTND trẻ em mồ côi Hà Cầu được coi là một loại hình cơ sở bảo trợ xã hộicó đối tượng là trẻ em mồ côi ở Hà Nội. 1.1.1.4. Mô hình Nói đến mô hình là nói đến một hình thức diễn đạt hết sức gọn (theo một ngôn ngữ nào đó) các đặc trưng chủ yếu của một đối tượng, để nghiên cứu đối tượng ấy. Có nhiều cách hiểu khác nhau về mô hình, bao gồm: Mô hình được hiểu là vật cùng hình dạng nhưng làm thu nhỏ lại, mô phỏng cấu tạo và hoạt động của một vật khác để trình bày, nghiên cứu. Mô hình là công cụ giúp ta thể hiện một sự vật, hiện tượng, quá trình... nào đó, phục vụ cho hoạt động học tập, nghiên cứu, sản xuất và các sinh hoạt tinh thần của con người Mô hình được phân loại theomô hình hệ thống, mô hình cấu trúc, mô hình lô gic, mô hình toán, mô hình xã hội: Mô hình hệ thống là mô hình phản ánh một hệ thống, trong đó nêu được các phần tử bên trong, bên ngoài và các quan hệ tương tác giữa chúng. Mô hình cấu trúc là mô hình thể hiện các thành phần bên trong của hiện tượng sự vật. Không nhất thiết hiện tượng, sự vật đó có là hệ thống hoặc không phải là hệ thống. Mô hình lô gic là mô hình thể hiện chủ yếu thứ tự diễn ra các hiện tượng sự vật. Mô hình lôgic còn có tên gọi khác là mô hình mạng lưới. 14 Mô hình toán là mô hình dựa vào các công cụ toán học như công thức, đồ thị, bảng biểu,sơ đồ, sa bàn, vật mẫu để thể hiện các mối quan hệ về lượng nằm trong các hiện tượng sự vật được nghiên cứu. Mô hình xã hội là một kiểu mẫu tương tác xã hội, một cung cách ứng xử, một mẫu tương tác mà chủ thể xã hội bắt chước, học hỏi và tiến hành theo Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, mô hình được hiểu là một dạng thức tương tác, ứng xử giữa các chủ thể có liên quan trong cùng một hệ thống trên cơ sở vị trí, vai trò của họ trong hệ thống ấy. 1.1.2. Một số mô hình CTXH 1 1.1.2.1. Mô hình động lực tâm lý Tính tổng hợp của mô hình động lực tâm lý cho phép người cán bộ xã hội sử dụng trong những tình huống khác nhau trong từng kỹ năng, kỹ thuật và phương pháp luận khác nhau, tạo điều kiện giải quyết một cách có hiệu quả các vấn đề của thân chủ. Nền tảng lý luận của mô hình động lực tâm lý là thuyết động lực tâm lý được hiểu là một tập hợp toàn vẹn các tư tưởng khác nhau, theo mức độ phát triển - những tư tưởng đó phân chia ra và thể hiện thành các quan điểm và luận thuyết độc lập, tiếp đó làm cho mối liên hệ của nó với những lĩnh vực kiến thức xã hội khác trở nên có hiệu quả. Những luận thuyết xuất hiện này tiếp tục được thực hiện qua mô hành động lực tâm lý của thực tiễn CTXH và có những biến đổi nhất định nhưng không làm mất đi thực chất của nó. Các quan hệ của người cán bộ xã hội và thân chủ trong khuôn khổ của mô hình động lực tâm lý bao gồm những yếu tố như cá nhân hoá, đánh giá vấn đề xuất hiện, chẩn đoán và trị liệu vấn đề của thân chủ. 1 Thực hành CTXH – Phương pháp tổng hợp, Louis Johnson, Đại học Nam Dakota, Tr.660 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan