ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
LÊ THỊ PHƯƠNG
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG TỪ VỰNG - NGỮ
NGHĨA THỂ HIỆN TÌNH YÊU ĐÔI LỨA
TRONG THƠ XUÂN QUỲNH
Luận Văn Thạc Sĩ
Hà Nội - 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
LÊ THỊ PHƯƠNG
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG TỪ VỰNG - NGỮ
NGHĨA THỂ HIỆN TÌNH YÊU ĐÔI LỨA
TRONG THƠ XUÂN QUỲNH
chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC
Mã số: 60 22 01
Luận Văn Thạc Sĩ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM TẤT THẮNG
Hà Nội - 2013
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ, các từ không tồn tại một
cách rời rạc mà chúng đều có quan hệ nhất định với nhau về một phạm vi ngữ
nghĩa nào đó. Mỗi một tập hợp những từ có quan hệ về nghĩa như vậy tạo nên
một tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là “trường từ vựng”, “trường từ vựng ngữ nghĩa” hay “trường nghĩa”. (Semantic field).
Chẳng hạn, khi nói đến chiến tranh người ta nghĩ ngay đến súng, đạn,
xe tăng, máy bay, bắn, nổ, cháy, binh lính, sĩ quan, chết, bị thương...; nói đến
mùi vị người ta nghĩ ngay đến cay, đắng, ngọt, chát, thơm, thối, v.v.
Việc tìm hiểu các trường nghĩa như vậy không chỉ phản ánh mối quan
hệ ngữ nghĩa giữa các đơn vị từ vựng trong một hệ thống ngôn ngữ, mà còn
góp phần tìm hiểu nội dung tác phẩm cũng như tìm hiểu phong cách tác giả
qua cách họ sử dụng các trường từ vựng - ngữ nghĩa trong các tác phẩm.
Trong làng thơ Việt Nam, nếu như Xuân Diệu được xưng tụng là “Ông
Hoàng” của thơ tình, thì Xuân Quỳnh được coi là nữ sĩ của thơ tình yêu và
khát vọng. Tuy nhiên, khác với thơ tình của nhiều nhà thơ khác, thơ tình của
Xuân Quỳnh có sức lôi cuốn đặc biệt. Vì thế, việc tìm hiểu trường nghĩa thể
hiện tình yêu đôi lứa trong thơ Xuân Quỳnh sẽ góp phần khẳng định vai trò
của trường nghĩa trong sử dụng ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp.
2. Tình hình nghiên cứu thơ Xuân Quỳnh
Đã có khá nhiều các bài viết, các công trình nghiên cứu về thơ Xuân
Quỳnh từ trước và sau năm 1988. Chẳng hạn, từ thời điểm 1988 trở về trước,
các công trình nghiên cứu, phê bình về thơ Xuân Quỳnh đã được công bố
như:
- Xuân Quỳnh - Một chồi thơ sắc biếc (Chu Nga, Tạp chí văn học 1973,
số 1, trang 20).
- Thơ Xuân Quỳnh (Thiếu Mai, Tạp chí văn học 1983, số 1, trang 39)
- Sóng (Nguyễn Đức Quyền, trích trong Những vẻ đẹp thơ Văn nghệ
thành phố Hồ Chí Minh, 1987)…
Sau năm 1988 một loạt các bài viết, công trình nghiên cứu về cuộc đời,
sáng tác của Xuân Quỳnh đã được công bố. Chẳng hạn như:
- Thơ viết tặng anh (NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1988
- Thơ Xuân Quỳnh (Nhiều tác giả - NXB Tác phẩm mới, 1989)
- Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh gửi lại (Nhiều tác giả - Hội Văn học –
Nghệ thuật Đà Nẵng, 1989),…
Tuy vậy, những công trình nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh trước và sau
năm 1988 mới chỉ dừng lại ở việc tuyển chọn, biên soạn hoặc những bài phê
bình, nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh chủ yếu xuất phát từ bình diện nghiên
cứu lí luận văn học. Các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh
chưa nhiều.Vì thế, việc tìm hiểu các trường từ vựng - ngữ nghĩa thể hiện tình
yêu đôi lứa trong thơ Xuân Quỳnh có thể xem là công trình nghiên cứu đầu
tiên về ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các trường từ vựng – ngữ nghĩa
thể hiện tình yêu đôi lứa, được sử dụng chủ yếu trong tuyển tập “Xuân Quỳnh
không bao giờ là cuối” (2011). Ngoài ra, luận văn còn khảo sát thêm các tập
thơ khác như: “Chồi biếc”, “Hoa dọc chiến hào”, “Gió Lào cát trắng,” “Lời
ru trên mặt đất”, “Sân ga chiều em đi”, “Tự hát”, “Hoa cỏ may”, “Truyện
Lưu, Nguyễn”.
4. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tiến hành khảo sát một cách có hệ thống
và miêu tả một cách tương đối toàn diện và đầy đủ trường từ vựng – ngữ
nghĩa thể hiện tình yêu đôi lứa trong thơ Xuân Quỳnh. Trên cơ sở đó, luận
văn tiến hành phân tích, miêu tả mối quan hệ giữa trường nghĩa thể hiện
tình yêu đôi lứa với nội dung thể hiện tình yêu đôi lứa, góp phần khẳng
định những giá trị tư tưởng trong các tác phẩm của nhà thơ Xuân Quỳnh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm rõ mục đích và nội dung nghiên cứu, luận văn sử dụng phương
pháp phân tích, miêu tả. Ngoài ra, để làm rõ hai phương pháp này, luận văn còn
sử dụng một số thủ pháp nghiên cứu khác như: thống kê, phân loại, so sánh các
lớp từ thể hiện tình yêu đôi lứa trong thơ Xuân Quỳnh với một số nhà thơ khác.
6. Đóng góp của luận văn
Những kết quả thu được thông qua việc khảo sát miêu tả các trường từ
vựng - ngữ nghĩa thể hiện về tình yêu đôi lứa trong thơ Xuân Quỳnh không
chỉ có ý nghĩa về mặt lí luận, mà còn có giá trị thực tiễn.
Về lí luận, việc tìm hiểu trường từ vựng thể hiện tình yêu đôi lứa trong
thơ Xuân Quỳnh góp phần khẳng định vai trò của trường từ vựng - ngữ nghĩa
trong hệ thống ngôn ngữ - một khái niệm mà cho đến nay vẫn còn có nhiều
quan niệm khác nhau.
Về thực tiễn, việc nghiên cứu trường từ vựng - ngữ nghĩa thể hiện trong
tác phẩm văn học không chỉ góp phần khẳng định giá trị của tác phẩm đó, mà
còn góp phần tìm hiểu phong cách sáng tác của nhà văn.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm ba chương sau đây:
Chương 1: Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài.
Chương 2: Đặc điểm trường từ vựng – ngữ nghĩa thể hiện tình yêu đôi
lứa trong thơ Xuân Quỳnh.
Chương 3: Vai trò của trường từ vựng - ngữ nghĩa trong việc thể hiện
tình yêu đôi lứa trong thơ Xuân Quỳnh.
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái quát trƣờng từ vựng – ngữ nghĩa
1.1.1. Khái niệm trường từ vựng – ngữ nghĩa
Trường từ vựng là một lĩnh vực nghiên cứu từ vựng học xuất hiện từ
những năm 20 – 30 của thế kỷ XX. Lý thuyết này bắt nguồn từ những tiền đề
duy tâm của trường phái W. Humboldt và phần nào từ những tư tưởng của F.
de Sausure về tính cấu trúc của ngôn ngữ. Tư tưởng cơ bản của lý thuyết này là
khảo sát từ vựng một cách hệ thống. Trong Giáo trình ngôn ngữ học đại
cương, Saussure đã chỉ ra “Giá trị của bất cứ yếu tố nào cũng do những yếu tố
xung quanh quy định” [15, tr. 224] và “Phải xuất phát từ cái toàn thể làm
thành một khối để phân tích ra những yếu tố chứa đựng” [15, tr. 220].
Người có công lao đưa lý thuyết trường vào ngôn ngữ học là hai nhà
ngôn ngữ học người Đức J. Trier và L. Weisgerber.
Trier nói tới trường khái niệm và trường từ vựng. Theo ông, trường từ
vựng bao phủ lên trường khái niệm như một cái áo khoác hay tấm vải phủ. Theo
Trier “Một từ chỉ có ý nghĩa khi nằm ở trong trường, nhờ những quan hệ của nó
với các từ khác cũng thuộc trường ấy. Trong hệ thống, tất cả chỉ nhận được ý
nghĩa qua cái toàn thể. Có nghĩa là từ của ngôn ngữ nào đó không phải là đại
diện tách biệt của ý nghĩa, ngược lại mỗi một từ có ý nghĩa chỉ là vì có các từ
khác liên hệ trực tiếp với nó”. [dẫn theo Nguyễn Thiện Giáp, 17, tr. 110].
Ở Việt Nam, người đầu tiên áp dụng lý thuyết trường vào nghiên cứu
từ vựng tiếng Việt là tác giả Đỗ Hữu Châu.
Khi định nghĩa về trường, ông cho rằng: “Trường từ vựng là một tập hợp
các đơn vị từ vựng căn cứ vào một nét đồng nhất nào đó về ngữ nghĩa”. [8, tr. 35].
Dựa theo quan điểm của F. de Saussure về hai dạng quan hệ là quan hệ
ngang và quan hệ dọc, tác giả đã phân chia thành hai loại trường nghĩa là
trường nghĩa ngang (trường nghĩa tuyến tính) và trường nghĩa dọc (trường
nghĩa trực tuyến). Từ hai loại trường nghĩa đó, tác giả lại phân chia trường
nghĩa dọc thành trường biểu vật và trường biểu niệm rồi đến trường tuyến tính
và trường liên tưởng.
Phân biệt trường từ vựng và trường nghĩa, tác giả Nguyễn Thiện Giáp quan
niệm: “Trường nghĩa là phạm vi những đơn vị từ vựng có quan hệ lẫn nhau về ý
nghĩa”; còn “Trường từ vựng của một trường nghĩa là tập hợp những từ ngữ có
những đơn vị từ vựng cơ sở cùng thuộc trường nghĩa này”. [20, tr. 437].
Theo Vũ Đức Nghiệu, Nguyễn Văn Hiệp: “Trường ngữ nghĩa (còn
được gọi là trường từ vựng) là những tiểu hệ thống, những tổ chức của từ
vựng, gồm những từ ngữ có quan hệ về nghĩa với nhau một cách có hệ
thống”. [47, tr. 339].
Ví dụ: Các từ: bố, mẹ, ông, bà, cụ, kị, tổ, anh, chị, em, cô, dì, chú, bác,
cậu, mợ, cháu, chắt… lập thành trường ngữ nghĩa những từ chỉ quan hệ thân tộc.
Theo Đỗ Việt Hùng thì: “Các đơn vị từ vựng không tồn tại tách biệt,
rời nhau mà luôn có những mối quan hệ nhất định. Điều đó làm cho từ vựng
không thuần túy chỉ là tập hợp các từ và đơn vị tương đương với từ mà còn là
một hệ thống với những mối quan hệ nhất định. Một trong những mối quan hệ
mà các nhà khoa học thường tập trung làm rõ là quan hệ về nghĩa giữa các
đơn vị từ vựng. Các từ ngữ đồng nhất về nghĩa được tập trung thành các
nhóm được gọi là trường nghĩa (hay là trường từ vựng hoặc trường từ vựng –
ngữ nghĩa)”. [31, tr. 10].
Theo Phạm Tất Thắng thì: “Có thể xem trường từ vựng - ngữ nghĩa như
một hình chóp nón, mà đỉnh của nó là một từ chính , từ trung tâm hay từ khoá
(keyword) mang ý nghĩa bao trùm lên toàn bộ cơ cấ u ngữ nghĩa của những từ
khác (gọi là từ ngoại vi) trong phạm vi ảnh hưởng của nó” [59, tr. 39].
Cho đến nay, dường như chưa có một sự nhất trí cao về khái niệm
trường từ vựng – ngữ nghĩa. Vì vậy, dựa theo những quan niệm của các nhà
nghiên cứu đi trước, chúng tôi nhận thấy một cách hiểu chung về từ trường từ
vựng – ngữ nghĩa để làm cơ sở cho việc nghiên cứu:
“Mỗi một tập hợp từ có quan hệ với nhau về nghĩa (meaning) như vậy
tạo thành một tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là “trường từ vựng”,
“trường nghĩa” hay “trường từ vựng - ngữ nghĩa”.[59, tr. 38].
Ví dụ: Trường từ vựng chỉ bộ phận của con người bao gồm các từ: đầu,
mình, chân, tay, mắt, miệng, da, răng, lưỡi, tim, phổi, họng, ruột, gan, dạ dày…
Có thể hình dung khái niệm trường trường từ vựng - ngữ nghĩa bằng
một ví dụ sau đây:
Trường ý niệm về người hay con người bao gồm các nhóm từ chỉ các
mối quan hệ về nghĩa với nó như:
Về giới tính có các từ: nam, nữ, gái, trai, đàn ông, đàn bà,...
Về tuổi tác có các từ như: trẻ con, thiếu nhi, nhi đồng, thanh niên, trung
niên, phụ lão,...
Về ngoại hình có các từ: cao, thấp, béo, gầy, lùn, dong dỏng , què, cụt,
khập khiễng, gù,...
Về hoạt động có các từ : đi, nói, cười, ăn, nằm, học, chơi, nhìn, ngó,
nếm, đá, chạy, nhảy, đứng, ngồi,...
Về nghề nghiệp có các từ : công nhân, nông nhân, giáo viên, học sinh,
bác sĩ, nghệ sĩ, kỹ sư, thầy thuốc,...
Đế n lươ ̣t mình , mỗi từ trong mô ̣t nhóm từ như vâ ̣y la ̣i có thể kế t hơ ̣p
với những từ trong nhóm khác làm thàn
h ma ̣ng lưới các mố i quan hê ̣ gồ m
nhiề u tầ ng bâ ̣c rấ t phức ta ̣p .
Ví dụ, trong tiểu trường về hoạt động của con người lại có thể phân loại
thành các nhóm trường nhỏ hơn nữa như:
- Hoạt động chân tay như: đi, đứng, chạy, đạp, sút, tát, đấm, đá, ném, xô,
đẩy, kéo, giật, lôi, co, vác, phóng, lao, lia,...
- Hoạt động bằng miệng như: nói, hát, ho, kêu, gào, hét, la, mắng,
thổi, huýt,...
- Hoạt động trí óc như: nghĩ, nghĩ ngợi, tư duy, nghiền ngẫm, suy tư,
suy tưởng, suy luận, suy sét, suy đoán, phán xét, suy nghĩ, phán đoán,...
1.1.2. Quan hệ ngữ nghĩa trong trường từ vựng – ngữ nghĩa
1.1.2.1. Quan hệ dọc
Để phân biệt các kiểu quan hệ ngữ nghĩa trong trường từ vựng - ngữ
nghĩa, các nhà từ vựng học thường nói đến các nhóm trường từ vựng - ngữ
nghĩa (gọi là trường nghĩa hay trường) như: trường biểu vật và trường biểu
niệm (quan hệ trên trục dọc), trường tuyến tính (quan hệ trên trục ngang) và
trường liên tưởng (quan hệ trong sử dụng)..
Các kiểu trường nghĩa thể hiện trên trục dọc thường được nói đến là
trường nghĩa biểu vật và trường biểu niệm .
- Trường nghĩa biểu vật
Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là
những tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa.
F. de Saussure trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương đã chỉ ra hai
dạng quan hệ ngang và quan hệ dọc. Theo hai dạng quan hệ đó có thể có hai loại
trường nghĩa: trường nghĩa ngang (trường nghĩa tuyến tính) và trường nghĩa dọc
(trường nghĩa trực tuyến).
Trường nghĩa dọc là trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu niệm
rồi đến trường nghĩa tuyến tính và cuối cùng là trường nghĩa liên tưởng.
Theo Đỗ Hữu Châu, trường nghĩa biểu vật là “Một tập hợp những từ
đồng nghĩa về ý nghĩa biểu vật”. [8, tr. 588]
Ví dụ trường biểu vật của tiếng Việt :
Trường biểu vật (Người)
Người nói chung:
1. Người nói chung về giới: Đàn ông, đàn bà, nam, nữ,…
2. Người nói chung xét về tuổi tác: Trẻ em, nhi đồng, thiếu niên, thanh
niên, cụ già, trung niên,…
3. Người nói chung xét về nghề nghiệp: Thầy giáo, giáo viên, công
nhân, nông dân, học sinh, thầy thuốc, thợ xây,…
Bộ phận con người:
Đầu, mình, chân, tay, mắt, miệng, răng, da, lưỡi, phổi, đùi, ruột, gan,
phổi, họng…
Hoạt động của con người:
1. Hoạt động trí tuệ: Nghĩ, suy, suy nghĩ, ngẫm, nghiền ngẫm, phán
đoán, phân tích…
2. Hoạt động của các giác quan để cảm giác: nhìn, trông, thấy, ngó,
ngửi, nếm…
3. Hoạt động của con người tác động đến đối tượng:
a. Hoạt động chân tay: túm, nắm, xé, cắt, chặt…
b. Hoạt động của đầu: húc, đội
c. Hoạt động của chân: đá, đạp, xéo, dẫm, khoèo…
- Trường nghĩa biểu niệm
Theo Đỗ Hữu Châu, một trường biểu niệm là “Một tập hợp các từ có
chung một cấu trúc biểu niệm” [8, tr. 593].
Căn cứ để phân lập các trường biểu niệm là các ý nghĩa biểu niệm của từ.
Do có hiện tượng nhiều nghĩa biểu niệm, cho nên một từ có thể đi vào
những trường biểu niệm khác nhau. Vì vậy, cũng giống như các trường biểu
vật, các trường biểu niệm có thể giao thoa với nhau, thẩm thấu vào nhau và
cũng có lõi trung tâm với các từ điển hình và những từ ở những lớp kế cận
trung tâm, những từ ở lớp ngoại vi.
Ví dụ:
Trường biểu niệm vật thể nhân tạo thay thế hoặc tăng cường thao tác
lao động cầm tay:
1. Dụng cụ để chia, cắt: dao, cưa, búa, phảng, rìu, liềm, hái,...
2. Dụng cụ để xoi, đục: đục, dùi, dui, khoan,...
3. Dụng cụ để nện, gõ: búa, vồ, dùi, đục, dùi cui,...
4. Dụng cụ để đánh bắt: lưới, nơm, đó, đăng, câu, vó, bầy,...
5. Dụng cụ để mài giũa: giũa, bào, đá mài, giấy ráp,....
1.1.2.2. Quan hệ ngang
- Trường nghĩa tuyến tính (trường nghĩa ngang)
Theo Đỗ Hữu Châu: “Nói đến trường tuyến tính là nói đến những từ có khả
năng kết hợp với từ trung tâm làm thành một ngữ đoạn kiểu như: trời cao, trời
xanh, trời mưa, trời nồm,...hoặc cổ ng trờ,i vòm trời, ông trời,....” [8, tr. 599].
Để lập nên các trường nghĩa tuyến tính, chúng ta chọn một từ làm gốc
rồi tìm tất cả những từ có thể kết hợp với nó thành những chuỗi tuyến tính
(cụm từ, câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ.
Ví dụ: Trường tuyến tính của từ tay là búp măng, mềm, ấm, lạnh, nắm,
cầm, khoác,...
Trường nghĩa tuyến tính của từ đi là nhanh, chậm, tập tễnh, khập
khiễng,...
Cùng với các trường nghĩa dọc, trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa
biểu niệm, các trường tuyến tính góp phần làm sáng tỏ những quan hệ và cấu
trúc ngữ nghĩa của từ vựng, phát hiện những đặc điểm nội tại và những đặc
điểm hoạt động của từ.
1.1.2.3. Quan hệ liên tưởng (trường liên tưởng)
Khi nói đến trường liên tưởng, Đỗ Hữu Châu viết: “Nói đến “trường
liên tưởng” là nói đến những từ có mối liên hệ về nghĩa với từ trung tâm theo
quan hệ so sánh trong các hoạt động giao tiế p
. Theo mối quan hệ này, ý
nghĩa của các từ không chỉ biểu hiê ̣n ở những thông tin bề nổi xuất hiện do
mối quan hệ chiều dọc hay chiều ngang với từ trung tâm , mà nó còn nằm ở
tầng sâu mang ý nghĩa lịch sử - văn hóa và phụ thuộc vào đặc tính tâm lí của
mỗi cá nhân và tính dân tộc, thời đại”.[8, tr. 610]
Chẳng hạn, khi nói đến buổi chiều là người ta phải buồn bã vì những
cái gì tàn tạ, nói đến bến đò là nghĩ tới chia ly, hay nói đến chia ly là phải
nghĩ tới sông nước:
“Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng!”
(Tống biệt hành – Thâm Tâm)
Nói tới nửa đêm là người ta phải dậy lên nỗi nhớ không gian, sầu
vạn cổ.
Trong thơ ca trường liên tưởng được thể hiện rõ. Khi nói về từ hoa với
tư cách là một thực thể sinh vật
, người ta thường liên
hê ̣ đế n các từ cùng
trường biể u vâ ̣t hay biể u niê ̣m với nó như : đài, cuố ng, cánh, nhụy,... hay tươi,
khô, tàn, héo,...Tuy nhiên , trong thực tiễn sử du ̣ng , người Viê ̣t còn dùng từ
hoa để thay thế cho một bộ phận cơ thể người . Chẳ n g ha ̣n, trong Truyê ̣n Kiề u ,
đa ̣i thi hào Nguy ễn Du đã sử dụng từ hoa để nói về khuôn mặt và cái miệng
của người con gái đẹp trong hai câu thơ :
“Lại càng ủ dột nét hoa”
“Hoa cười ngọc thốt đoan trang”.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ “trường liên tưởng” cũng có người dùng
để thay thế cho thuật ngữ “trường từ vựng - ngữ nghĩa”.
Dễ dàng nhận thấy rằng các từ trong một trường liên tưởng là sự hiện
thực hóa, sự cố định bằng từ các ý nghĩa liên hội có thể có của từ trung tâm.
Các từ trong một trường liên tưởng trước hết là những từ cùng nằm
trong trường biểu vật, trường biểu niệm và trường tuyến tính, tức là những từ
có quan hệ cấu trúc đồng nhất và đối lập về ngữ nghĩa với các từ trung tâm.
1.1.2.4. Hiện tượng chuyển trường
Một vấn đề khá thú vị khác có liên quan đến khái niệm trường từ vựng ngữ nghĩa - đó là hiện tươ ̣ng chuyể n trường từ vựng - ngữ nghiã (gọi tắt là
“hiện tượng chuyển trường”).
Nói về hiện tượng chuyển trường, Đỗ Hữu Châu cho rằ ng , hiê ̣n tươ ̣ ng
chuyể n trường từ vựng là : “Một từ ngữ thuộc trường ý niệm này được chuyển
sang dùng cho các sự vật thuộc một trường ý niê ̣m khác” [8, tr. 68]
Khi các từ ngữ được dùng đúng trường của chúng thì do sự trung hòa
về đối lập của ngữ cảnh, tác dụng gợi hình ảnh của chúng giảm đi. Ví dụ:
“hòn đá rất nặng”, “tôi bắt cá”, tôi đóng cửa” ; các từ nặng, bắt, đóng không
gợi hình ảnh bởi vì chúng dùng đúng với các từ thuộc trường ý niệm cơ bản
của chúng. Lúc này muốn tạo ra hình ảnh, chỉ có cách lựa chọn trong số
những đơn vị đồng nghĩa, đơn vị nào phù hợp nhất với các hoạt động vừa kể,
tức là tìm những từ loại biệt hơn mà thay thế, như: “Hòn đá nặng trĩu” (nặng
trịch); “tôi câu cá” (nơm, cất vó, đánh lưới…); “tôi cài cửa” (chốt, chặn,
khóa…). Khi từ ngữ chuyển trường thì sự đối lập ngữ cảnh làm cho khả năng
tạo hình của nó tăng lên.
Ví dụ: “tôi nơm cá” và “du kích nơm xe tăng địch”; “tôi căng dây” và
“đường đạn rất căng”; “nó vít cành cam xuống” và “pháo ta vít cổ lũ giặc trời
xuống đất”…
Ví dụ: Trong câu thơ “Nói điều giàng buộc thì ta cũng già”
Truyện Kiều – Nguyễn Du
Từ già vốn chỉ trạng thái của cây quả (thuộc trường nghĩa thực vật)
chuyển sang chỉ trình độ kỹ năng (thuộc trường nghĩa về người).
Khi sự chuyển trường đối với một từ ngữ càng mới mẻ thì năng lực gợi
hình ảnh càng cao, ngược lại, sự chuyển trường càng thường xuyên , tiến tới cố
định (tức là tạo nên các nghĩa phụ của từ ) thì năng lực đó càng mờ nhạt . Bản
chất của hiê ̣n tươ ̣ng chuyể n trường chỉ là hình thức vay mượn . Đó là hình thức
mượn các đơn vị của trường này để gọi tên cho sự vật, hiện tượng thuộc về một
trường khác. Tuy nhiên, sự vay mượn đó không chỉ đơn thuần là con số cộng
thuần thúy, mà là sự kết hợp có giá trị khái quát hay biểu trưng ngữ nghĩa.
Hiện tượng chuyển trường từ vựng - ngữ nghĩa không chỉ có ý nghĩa
mở rộng phạm vi quan hệ của trường đó với những trường khác, mà còn làm
cho quá trình sử dụng của chúng trở lên đa dạng hơn, sinh động hơn.
Ví dụ: Các từ ngữ thuộc phạm vi quân sự áp dụng vào lĩnh vực trong
nông nghiệp, trong công nghiệp và trong các ngành hoạt động xã hội như:
“mặt trận sản xuất”, “chiến sĩ giáo dục” “chiến dịch trừ sâu”. Hoặc trong
chuyện yêu đương người ta cũng dùng các từ ngữ như: tấn công, bao vây,
chiến thắng, rút lui….
Hiện tượng chuyển trường nhằm mục đích làm tăng khả năng diễn đạt
và hiệu quả cho lớp từ ngữ thuộc trường từ vựng – ngữ nghĩa được nói đến.
1.1.3. Một số khía cạnh ứng dụng trường nghĩa trong hoạt động
giao tiếp
1.1.3.1. Trường nghĩa với việc tạo lập, sản sinh lời nói
Hoạt động giao tiếp gồm hai quá trình cơ bản là tạo lập (sản sinh) văn
bản (lời nói) và tiếp nhận (lĩnh hội) văn bản. Các quá trình giao tiếp được
thực hiện với mức độ hiệu quả khác nhau ở các cá nhân khác nhau về những
lĩnh vực khác nhau. Do đó, trong thực tế, các quá trình này thường cần đến
các phương tiện hỗ trợ cho từng quá trình. Các từ điển mà chúng ta dùng tham
khảo chính là một phương tiện hữu hiệu phục vụ cho các quá trình giao tiếp
đó. Để hỗ trợ cho quá trình lĩnh hội, các mục từ trong từ điển được sắp xếp
theo quá trình hình thức – trật tự bảng chữ cái để người sử dụng dễ dàng tra
được từ rồi tìm hiểu nghĩa của các từ ngữ mà họ chưa hiểu trong việc tiếp
nhận, lĩnh hội lời nói của người khác. Song các từ điển này lại không phát huy
tác dụng nhiều đối với quá trình tạo lập, sản sinh lời nói. Việc tạo lập các
trường nghĩa là một hoạt động hữu hiệu đối với quá trình huy động và lựa
chọn từ ngữ thích hợp với nội dung cần diễn đạt. Chỉ huy động đầy đủ các từ
ngữ thuộc về trường nghĩa liên quan đến nội dung cần diễn đạt người viết mới
có thể dễ dàng tìm từ ngữ thích hợp nhất để tạo lời.
1.1.3.2. Trường nghĩa với việc lĩnh hội, tiếp nhận lời nói
Không chỉ phát huy tác dụng đối với hoạt động tạo lời, khả năng tạo lập
trường nghĩa và nắm vững các đặc điểm của trường nghĩa cũng phát huy tác
dụng nhất định trong quá trình tiếp nhận và phân tích lời nói, nhất là các cách
diễn đạt chứa các hiện tượng nôn ngữ bất thường.
Trong mỗi trường nghĩa, các từ ngữ được phân bổ thành các từ ngữ
trung tâm và các từ ngữ ngoại vi. Các từ ngữ trung tâm của trường nghĩa là
các từ ngữ biểu thị các sự vật, hoạt động tính chất, quan hệ…đặc trưng cho
trường nghĩa đó. Các từ ngữ ngoại vi là các từ ngữ biểu thị những sự vật, hoạt
động, tính chất, quan hệ…không chỉ thuộc về trường nghĩa đó mà còn có thể
thuộc về trường nghĩa.
Quan hệ trường nghĩa giữa các từ ngữ trong từ vựng không chỉ là một
bằng chứng về tính hệ thống của từ vựng mà việc sử dụng tốt các quan hệ
trường nghĩa còn có tính hành dụng cao, trong cả hai quá trình giao tiếp là tạo
lập lời nói và lĩnh hội, phân tích các giá trị diễn đạt nhất là các giá trị diễn đạt
văn chương.
1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu trƣờng từ vựng – ngữ nghĩa
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trường từ vựng trên thế giới
Trên thế giới có nhiều cách hiểu khác nhau về trường từ vựng nhưng
nhìn chung có thể quy vào hai khuynh hướng chủ yếu:
Khuynh hướng thứ nhất quan niệm trường từ vựng là toàn bộ các khái
niệm mà các từ trong một ngôn ngữ biểu hiện. Đại diện cho khuynh hướng
này là J. Trier và J. Weisgerber.
Khuynh hướng thứ hai xây dựng lý thuyết trường nghĩa trên cơ sở các
tiêu chí ngôn ngữ học. Trường nghĩa không phải là phạm vi các khái niệm
nào đó nữa mà là phạm vi tất cả các từ có quan hệ lẫn nhau về nghĩa. Đại diện
cho khuynh hướng này là W. Porzig.
Điển hình cho khuynh hướng thứ nhất là quan điểm của J. Trier và J.
Weisgerber
Ngoài quan điểm của những tiền đề duy tâm của trường phái W.
Humboldt và phần nào từ những tư tưởng của F. de Sausure, Trier quan
niệm về trường như sau. Trier nói tới trường khái niệm và trường từ vựng.
Theo ông, trường từ vựng bao phủ lên trường khái niệm như một cái áo
khoác hay tấm vải phủ. Theo Trier “Một từ chỉ có ý nghĩa khi nằm ở trong
trường, nhờ những quan hệ của nó với các từ khác cũng thuộc trường ấy.
Trong hệ thống, tất cả chỉ nhận được ý nghĩa qua cái toàn thể. Có nghĩa là
từ của ngôn ngữ nào đó không phải là đại diện tách biệt của ý nghĩa, ngược
lại mỗi một từ có ý nghĩa chỉ là vì có các từ khác liên hệ trực tiếp với nó”.
[Dẫn theo Nguyễn Thiện Giáp 17, tr. 110]
Quan điểm của L. Weisgerber về trường là quan niệm theo hệ dọc:
trường trực tuyến – trường truyền thống. Cơ sở ngôn ngữ học của L.
Weisgerber là khái niệm thế giới trung gian của ngôn ngữ. Ông thay thế sự
phân tích các từ bằng sự phân tích các khái niệm nằm trong “tinh thần” của
một ngôn ngữ nào đó. Ông đã phủ nhận hiện tượng đa nghĩa và đồng nghĩa
của các đơn vị từ vựng. L. Weisgerber không giải thích sự khác nhau của
những mô hình cấu tạo từ mà coi đó là kết quả của sự khác nhau trong tư duy
của các dân tộc. Thế giới khái niệm của ngôn ngữ phụ thuộc vào quy luật của
trường, tức là phụ thuộc vào hệ thống các tư tưởng thuần túy nằm ở bên ngoài
sự phản ánh thực tế. Những ý kiến của L. Weisgerber và J. Trier về trường đã
bị phê phán kịch liệt về mặt triết học cũng như về phương pháp.
Sau J. Trier và J. Weisgerber, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra
những quan niệm khác về trường dựa vào các tiêu chí khác nhau để tập hợp
các đơn vị từ vựng. Đáng chú ý nhất là lý thuyết về trường của nhà ngôn ngữ
học người Đức W. Porzig. Ông là người đại diện cho khuynh hướng thứ hai
khi nghiên cứu về trường từ vựng. Ông đã xây dựng khái niệm về các trường
tuyến tính (hệ ngang) hay còn gọi là trường từ vựng – cú pháp. Theo đó, tác
giả xây dựng khái niệm trường nghĩa căn cứ vào các ý nghĩa ngữ pháp của
các quan hệ. Ông quan niệm trường dựa trên cơ sở các mối quan hệ chung
nhất, những mối quan hệ ngữ nghĩa tạo nên “các trường cơ bản của ý nghĩa”.
Porzig chú ý tới hiện tượng nhiều nghĩa nên đã phân biệt được trường trung
tâm và các trường chuyển nghĩa.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trường từ vựng ở Việt Nam
Lý thuyết trường từ vựng được Đỗ Hữu Châu giới thiệu vào Việt Nam
từ năm 1970. Đến nay, nó vẫn được coi là một trong những mô hình nghiên
cứu ưu thắng của ngữ nghĩa học cấu trúc và miêu tả. Nhiều công trình đã giới
thiệu, vận dụng lý thuyết này vào nghiên cứu các trường từ vựng, trường
nghĩa, trường từ vựng – ngữ nghĩa hay đối chiếu trường từ vựng của tiếng
Việt với trường từ vựng tương ứng trong ngôn ngữ khác.
Đỗ Hữu Châu là người đầu tiên áp dụng lý thuyết trường từ năm 1970
vào nghiên cứu từ vựng tiếng Việt. Các nghiên cứu của ông được đề cập trong
các công trình như: “Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng” [7], “Đỗ Hữu Châu tuyển
tập (tập I)” [8], và nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí ngôn ngữ. Tác
giả đã phân chia thành hai loại trường nghĩa là trường nghĩa ngang (trường
nghĩa tuyến tính) và trường nghĩa dọc (trường nghĩa trực tuyến). Từ hai loại
trường nghĩa đó, tác giả lại phân chia trường nghĩa dọc thành trường biểu vật
và trường biểu niệm rồi đến trường tuyến tính và trường liên tưởng. Đây là
tác giả nghiên cứu cụ thể nhất về trường nghĩa cho đến thời điểm hiện nay.
Nghiên cứu về trường từ vựng – ngữ nghĩa cũng được tác giả Nguyễn
Thiện Giáp (1996), đề cập trong các công trình nghiên cứu của mình. Tác giả
quan niệm trường từ vựng và trường nghĩa khác nhau. Theo ông, trường từ
vựng có phạm vi rộng hơn trường nghĩa. [20]
Hai tác giả Vũ Đức Nghiệu và Nguyễn Văn Hiệp (2009), đề cập đến
vấn đề trường từ vựng – ngữ nghĩa trong công trình nghiên cứu của mình.
Trong công trình nghiên cứu của mình hai tác giả đã đề cập đến khái niệm
trường ngữ nghĩa và quan hệ bao nghĩa. [47].
Tác giả Đỗ Việt Hùng (2010), đã nghiên cứu trường từ vựng – ngữ
nghĩa trong việc ứng dụng vào hoạt động giao tiếp [31]
Tác giả Phạm Tất Thắng (2012), đã nghiên cứu trường từ vựng – ngữ
nghĩa trên tư liệu cụ thể đó là nghiên cứu trường nghĩa thiên nhiên trong thơ
Hồ Chí Minh. Trường nghĩa thể hiện thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh được
tác giả phân loại khá cụ thể và chi tiết [59].
Trong công trình mới nhất của mình, tác giả Nguyễn Tuyết Minh
(2013) đã coi từ điển như một trường từ vựng – ngữ nghĩa [45]
Ngoài các tác giả Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Vũ Đức Nghiệu,
Đỗ Việt Hùng, Phạm Tất Thắng, Nguyễn Tuyết Minh, quan niệm về trường
từ vựng cũng được đề cập trong một số công trình nghiên cứu của các tác giả
khác như: Nguyễn Văn Tu [66]; Hoàng văn Hành [24]; Hoàng Phê [53];
Nguyễn Đức Tồn [65]; … Hầu hết các công trình này đều đề cập đến trường
từ vựng – ngữ nghĩa ở khía cạnh lý thuyết chứ chưa áp dụng vào nghiên cứu
thực tiễn trong văn thơ.
Đặc biệt, gần đây nhiều khóa luận, luận văn ngôn ngữ học cũng đã
chọn trường từ vựng - ngữ nghĩa làm đối tượng để nghiên cứu. Chẳng hạn, tác
giả Nguyễn Thúy Khanh trong luận văn của mình (1996) nghiên cứu “Đặc
điểm trường từ vựng – ngữ nghĩa tên gọi động vật (trên tư liệu đối chiếu tiếng
Việt với tiếng Nga)”, tác giả Phạm Thị Hòa (2000) nghiên cứu “Hiện tượng
nhiều nghĩa trong trường từ vựng chỉ người (các động từ nhiều nghĩa có
nghĩa nói năng) ”, tác giả Lê Thị Lệ Thanh (2001) nghiên cứu “Trường từ
vựng – ngữ nghĩa các từ ngữ biểu thị thời gian của tiếng Việt (trong sự so
sánh với tiếng Đức)”…
Các tác giả Nguyễn Thúy Khanh, Lê Thị Lệ Thanh đã nghiên cứu trường
từ vựng – ngữ nghĩa trong sự so sánh tiếng Việt với tiếng Đức và tiếng Nga.
Tuy nhiên đây là vấn đề nghiên cứu còn khá mới mẻ nên vẫn chưa có
những thống nhất về khái niệm cũng như những đặc trưng về trường từ vựng
ngữ nghĩa. Những thành tựu nghiên cứu về trường nghĩa ở Việt
Nam vẫn còn
ở mức độ khá khiêm tốn , cần được tiếp tục quan tâm.
Nghiên cứu trường từ vựng – ngữ nghĩa trong một tác phẩm cụ thể là một
hướng nghiên cứu mới. Trong luận văn này, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu
trường từ vựng – ngữ nghĩa theo hướng mới khác với những hướng nghiên cứu
truyền thống. Đề tài “Nghiên cứu trường từ vựng – ngữ nghĩa thể hiện tình yêu
đôi lứa trong thơ Xuân Quỳnh” là minh chứng cho sự khác biệt đó.
Việc nghiên cứu trường nghĩa góp một phần rất quan trọng vào việc
phân chia các lớp từ vựng cũng như vạch ra mối quan hệ bản chất giữa các
nhóm từ trong một lớp, giữa các từ trong một nhóm. Lý thuyết trường nghĩa
còn giúp chúng ta nhìn nhận một cách hệ thống về quá trình phát triển nghĩa
của từ và cơ cấu nghĩa của nó trong hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ.
1.3. Khái quát về thân thế và sự nghiệp văn thơ của Xuân Quỳnh
1.3.1. Vài nét về tiểu sử của Xuân Quỳnh
Nhà thơ Xuân Quỳnh có tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày
6/10/ 1942 tại xã La Khê, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây trong một gia đình
công chức.
Mẹ của Xuân Quỳnh là bà Nguyễn Thị Trích. Bà sinh được 5 người
con nhưng 3 người con trai đã bỏ cha mẹ mà đi từ khi chưa đầy 6 tháng tuổi.
Chỉ có chị gái Đông Mai và Xuân Quỳnh là gắn bó với bậc sinh thành. Bao
nhiêu tình mẫu tử đối với 3 người con trai trước bà dồn hết cho chị em Đông
Mai, Xuân Quỳnh. Ước mơ làm mẹ của bà tưởng rằng sẽ trọn vẹn nhưng đau
đớn thay, sau khi sinh Xuân Quỳnh ít lâu bà lâm trọng bệnh rồi qua đời. Khi
ấy bà mới 31 tuổi.
Mất mẹ quá sớm, hình ảnh người mẹ với Xuân Quỳnh thật xa xôi
nhưng nỗi đau mất mẹ đã ám ảnh suốt đời chị. Sau này trên bước đường đời
những lúc vui buồn, đau khổ, chị vẫn nhớ và khóc về một người mẹ mà chị
tin rằng rất thiêng. Xuân Quỳnh hiểu tình mẫu tử thiêng liêng và quý giá như
thế nào đối với trẻ thơ nên khi làm mẹ chị đã dồn tất cả tâm hồn và sức lực
cho con. Trong thơ Xuân Quỳnh, tình mẹ con thật thiêng liêng sâu đậm và tha
thiết. Những bài thơ viết cho con và viết về tình mẫu tử chiếm một số lượng
lớn trong thơ chị. Đó là điều lí giải tại sao thơ văn Xuân Quỳnh viết cho thiếu
nhi, viết về tuổi thơ lại nồng ấm, dí dỏm, trong sáng và gợi cảm, xúc động đến
như vậy.
Cha Xuân Quỳnh tên là Nguyễn Quang Thường, là ông giáo trường
làng. Ông cũng viết thơ văn, làm báo với bút danh là Nguyễn Qung Lục. Sau
khi mẹ Xuân Quỳnh mất ông đã lấy vợ hai. Sau đó, ông đem người vợ kế và
4 người con vào Sài Gòn làm ăn sinh sống, để lại chị em Đông Mai, Xuân
Quỳnh cho bà nội chăm lo.
Bù lại sự thiếu vắng bàn tay chăm sóc của cha mẹ, bà nội và chị gái
Đông Mai đã dành tất cả tình yêu thương, chăm sóc cho Xuân Quỳnh. Song
- Xem thêm -