Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ngữ âm tiếng di thị trấn trung bình huyện lộc khuyến thành phố côn minh vân nam ...

Tài liệu Ngữ âm tiếng di thị trấn trung bình huyện lộc khuyến thành phố côn minh vân nam trung quốc (có so sánh với tiếng lô lô ở việt nam)

.PDF
216
1254
117

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------- Vương Kế Cầm (Wang Ji Qin) Ngữ âm tiế ng Di thị trấn Trung Bình huyêṇ Lô ̣c Khuyế n thành phố Côn Minh Vân Nam Trung Quố c (có so sánh với tiếng Lô Lô ở Việt Nam) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------- Vương Kế Cầm ( Wang Ji Qin ) Ngữ âm tiế ng Di thi trấ ̣ n Trung Bin ̀ h huyêṇ Lô ̣c Khuyế n thành phố Côn Minh. Vân Nam Trung Quố c (có so sánh với tiếng Lô Lô ở Việt Nam) Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số chuyên ngành: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Trần Trí Dõi Hà Nội - 2013 Mục Lục Mở đầu………………………………………………………………………….1 Chương 1. Giới thiệu nguồn gốc dân tộc và tình hình nghiên cứu tiếng tiếng Di ở Trung Quốc ………………………………………………………………5 1.1. Giới thiệu dân tộc Di ở tỉnh Vân Nam Trung Quốc…………………….5 1.2 Giới thiệu tiếng Di ở tỉnh Vân Nam Trung Quốc……….………..…....…9 1.3 Giới thiệu người Di và tiếng Di ở thị trấn Trung Bình…………..………11 1.4 Giới thiệu tình hình nghiên cứu tiếng Di ở Trung Quốc……..………….15 1.5 Tiểu kết………………………………………………………..…..……..21 Chương 2. Miêu tả ngữ âm tiếng Di ở thị trấn Trung Bình, thành phố Côn Minh, Vân Nam Trung Quốc............................................................................22 2.1 Một số khái niệm cơ bản………………………………….……………22 2.2 Âm tiết tiếng Di thị trấn Trung Bình…………………………………….25 2.3 Hệ thống thanh điệu trong tiếng Di thị trấn Trung Bình…………...……26 2.4 Hệ thống âm đầu tiếng Di thị trấn Trung Bình…………………….…….30 2.5 Hệ thống vần tiếng Di thị trấn Trung Bình………………………………48 2.6 Tiểu kết…………………………………………………………………..56 Chương 3. Bước đầu nhận xét ngữ âm tiếng Di thị trấn Trung Bình và tiếng Lô Lô thị trấn Mèo Vạc, Hà Giang Việt Nam...............................................57 3.1 Mô tả ngữ âm tiếng Lô Lô thị trấn Mèo Vạc.............................................57 3.2 So sánh ngữ âm tiếng Di thị trấn Trung Bình và tiếng Lô Lô thị trấn Mèo Vạc…………………………………………………………………………...75 3.3 tiểu kết.....................................................................................................80 Phần kết luận.....................................................................................................81 Tài liệu tham khảo.............................................................................................84 Phụ lục…………………………………………………………………………88 Danh mục các bảng biểu Nội dung các bảng biểu Trang Bảng 2.1 Mô hình âm tiết tiếng Di thị trấn Trung Bình 26 Bảng 2.2 Phân xuất thanh điệu tiếng Di thị trấn Trung Bình 26 Bảng 2.3 Phân xuất phụ âm đầu tiếng Di thị trấn Trung Bình 31 Bảng 2.4 Hệ thống phụ âm đầu tiếng Di thị trấn Trung Bình 47 Bảng 2.5 Phân xuất nguyên âm tiếng Di thị trấn Trung Bình 48 Bảng 2.6 Hệ thống nguyên âm tiếng Di thị trấn Trung Bình 55 Bảng 3.1 Mô hình âm tiết tiếng Lô Lô thị trấn Mèo Vạc 58 Bảng 3.2 Phân xuất thanh điệu tiếng Lô Lô thị trấn Mèo Vạc 58 Bảng 3.3 Phân xuất phụ âm đầu tiếng Lô Lô thị trấn Mèo Vạc 62 Bảng 3.4 Hệ thống phụ âm đầu tiếng Lô Lô thị trấn Mèo Vạc 66 Bảng 3.5 Nhận diện nguyên âm tiếng Lô Lô thị trấn Mèo Vạc 67 Bảng 3.6 Hệ thống nguyên âm tiếng Lô Lô thị trấn Mèo Vạc 74 Bảng 3.7 Nhận diện phụ âm cuối tiếng Lô Lô thị trấn Mèo Vạc 74 Mở đầu 1. Mục đích và ý nghĩa chọn đề tài. Dân tô ̣c Di với dân số hơn 8 triệu người là một dân tộc thiểu số có dân số đứng thứ 7 trong 56 dân tô ̣c ở Trung Quố c , và là dân tộc thiểu số có dân số nhiề u nhấ t ở tỉnh Vân Nam (Theo kết quả tổng điều tra dân số lần thứ sáu năm 2010 của Trung Quốc). Ở Trung Quốc dân tộc Di chủ yếu cư trú ở khu vực phía tây nam, ngoài vùng đất phía tây nam Trung Quốc dân tộc Di còn có mặt ở các nước Đông Nam Á như Việt Nam, Myanmar, Lào và Thái Lan. Ở Việt Nam dân tộc Di được gọi là dân tộc Lô Lô, là một trong số 20 dân tộc có dân số ít nhất ở Việt Nam với dân số là 4.541 người (theo kết quả điều tra dân số năm 2009), sống phân tán trên các vùng núi cao các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu. Địa bàn sinh sống của người Lô Lô thường là các làng các xã vùng giáp biên giới Việt – Trung [1, tr.108]. Về mặt nguồn gốc lịch sử tộc người, người Lô Lô ở Việt Nam có quan hệ chặt chẽ với người Di ở Trung Quốc. Theo “Đại Việt sử kí toàn thư”, người Lô Lô từ Vân Nam di cư vào vùng Thủy Vĩ (trấn Hưng Hóa, nay thuộc tỉnh Lào Cai) vào năm Mậu Thìn (1508). Nguyên nhân của quá trình di cư này chủ yếu là do họ lẩn tránh sự đàn áp của vương triều Minh (1368-1644) sau khi cuộc khởi nghĩa của người Lô Lô chống nhà Minh thất bại. Lịch sử di cư của người Lô Lô ở Việt Nam được chia thành nhiều đợt khác nhau. Về mặt ngôn ngữ, dân tộc Lô Lô là một trong số 6 dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng Miến ở Việt Nam [5, tr.78]. Tiế ng Di là mô ̣t trong những ngôn ngữ có lich ̣ sử lâu đời ở Trung Quố c , vì vâ ̣y với mô ̣t dân tô ̣c thiể u số có dân số nhiề u và lịch sử lâu đời như thế, “Di học” xưa nay đã đươ ̣c nhiề u người quan tâm đế n . Làm một học viên dân tô ̣c Di đang học tiếng Việt, bản thân tôi rất muốn tìm hiểu ngữ âm của tiếng Di , và mối liên hệ giữa ngữ âm tiếng Di ở Trung Quốc với ngữ âm tiếng Lô Lô ở Viê ̣t Nam. Ở Trung Quốc dân tộc Di được coi là một dân tộc thiểu số thống nhất, nhưng trong nôi bộ người Di có sự khác biệt địa phương khá rõ rệt. Sự khác biệt ấy được thể hiện ở chỗ với những địa bàn cư trú khác nhau, người Di sẽ có những tên gọi tộc danh khác nhau [11, tr.1], và tiếng Di được chia làm 6 vùng phương ngữ lớn và giữa các vùng phương ngữ không thể giao lưu được với nhau [25, tr.3]. Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi có mục đích là để tìm hiểu ngữ âm c ủa tiế ng Di ở làng Thuyết Tử Ngọa, thị tr ấn Trung Bình huyện Lộc Khuyến tỉnh Vân Nam Trung Quốc, là tiếng Di được cho là thuộc vùng phương ngữ Đông Bộ và qua đó , bước đầu tìm hiểu mối liên hệ giữa tiế ng Di v ới tiếng Lô Lô ở xã Sảng Pả A thị trấn Mèo Vạc tỉnh Hà Giang Viê ̣t Nam . Để thực hiện đề tài này bản thân tôi cũng đã đến tận nơi hai địa chỉ đã nhắc đến ở trên để tiến hành nghiên cứu điền dã, thu thập tài liệu, tìm hiểu lời ăn tiếng nói cũng như cuộc sống hàng ngày của người dân tộc Di và dân tộc Lô Lô cư trú ở hai địa điểm trên. Tìm hiể u ngữ âm tiế ng Di có thể giúp mọi người hiểu rõ hơn về tiếng Di và dân tộc Di, giúp cho viê ̣c ho ̣c ngoa ̣i ngữ của các ba ̣n dân tô ̣c Di . Đồng thời tìm hiểu mối liên hệ giữa tiếng Di ở Trung Quốc và tiếng Lô Lô ở Việt Nam có thể giúp chúng ta hiểu thêm mối liên hệ giữa dân tộc Di và dân tộc Lô Lô, làm phong phú thêm tư liệu để giúp cho việc nghiên cứu của những người quan tâm đến “Di học”, góp phần giữ gìn bản sắ c ngôn ngữ và văn hóa của dân tô ̣c xuyên biên giới Trung Việt này. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Dân tộc Di có nhiều nhóm địa phương khác nhau tùy theo đặc điểm về trang phục và địa điểm cư trú, như Di Trắng, Di Đen, Di Hoa Lưng, A Xi, A Trơ, Xa Ni, v.v . Ở Việt Nam tùy theo đặc điểm về trang phục, dân tộc Lô Lô cũng được chia làm ba nhóm là Lô Lô Đen, Lô Lô Trắng và Lô Lô Hoa. Trong luận văn này chúng tôi lựa chọn tiếp cận và mô tả hệ thống ngữ âm trên bình diện đồng đại một thổ ngữ tiếng Di ở thôn Thuyết Tử Ngọa thi ̣trấ n Trung Biǹ h huyê ̣n Lô ̣c Khuyế n thành phố Côn Minh tỉnh Vân Nam Trung Quố c và một thổ ngữ tiếng Lô Lô ở xã Sảng Pả A thị trấn Mèo Vạc tỉnh Hà Giang Việt Nam. 3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của đề tài là lựa chọn miêu tả hệ thống ngữ âm tiếng Di (thuộc vùng phương ngữ Đông Bộ) ở thị trấn Trung Bình tỉnh Vân Nam Trung Quốc; sau đó so sánh với ngữ âm tiếng Lô Lô ở xã Sảng Pả A thị trấn Mèo Vạc tỉnh Hà Giang Việt Nam . Phương pháp miêu tả là hệ thống những thủ pháp nghiên cứu được vận dụng để thể hiện đặc tính của các hiện tượng ngôn ngữ trong một giai đoạn phát triển của nó[10,tr.19]. Trong luận văn này chúng tôi đã sử dụng phương pháp miêu tả ngữ âm đồng đại để miêu tả, xác lập hệ thống ngữ âm và danh sách âm vị của tiếng Di và tiếng Lô Lô theo cách phân xuất các âm vị bằng bối cảnh ngữ âm đồng nhất. Như vậy, phương pháp chủ yếu của Luận văn là phương pháp miêu tả; là thủ pháp đối chiếu để so sánh ngữ âm tiếng Di với ngữ âm tiếng Lô Lô. Việc xử lý nội dung chủ yếu được thực hiện theo cách thức quy nạp, trước hết là thu thập tư liệu, phân tích và xử lý tư liệu, sau đó so sánh đối chiếu tư liệu, tìm ra những sự tương đồng cũng như những sự khác biệt giữa hai thổ ngữ tiếng Di và tiếng Lô Lô ở hai địa bàn đã nói ở trên rồi đưa ra nhận xét có tính kết luận. Phương pháp nghiên cứu thứ hai được sử dụng trong Luân văn là phương pháp điền dã. Do đối tượng nghiên cứu là một ngôn ngữ dân tộc thiểu số, cho nên sử dụng phương pháp nghiên cứu điền dã là một tất yếu. Nguồn tư liệu về tiếng Di chúng tôi lựa chọn thu thập tại địa bàn thị trấn Trung Bình huyện Lộc Khuyến tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Những người cung cấp tư liệu ở thị trấn Trung Bình là: a, Vương Chi Bản, Nam, 81 tuổi; b, Vương Đức Phương, Nam, 47 tuổi; c. Lý Bản Bình, Nữ, 28 tuổi; d. Vương Kế Hoa, Nam, 31 tuổi . Nguồn tư liệu về tiếng Lô Lô, vì bản thân tôi là một người nước ngoài đang học ở Việt Nam, cho nên khi thực hiện công việc nghiên cứu điền dã đã gặp rất nhiều khó khăn về mặt thủ tục hành chính, cũng như không thể tự do lựa chọn địa bàn tiến hành điền dã. Vì vậy nguồn từ liệu về tiếng Lô Lô được chúng tôi thu thập ở địa bàn xã Sảng Pả A thị trấn Mèo Vạc tỉnh Hà Giang Việt Nam. Khi thu thập tư liệu chúng tôi dùng phương pháp phỏng vấn quan sát trực tiếp bằng thính giác và ghi âm bằng máy ghi âm, sau đó ghi chép lại dưới dạng phiên âm quốc tế (IPA). Những người cung cấp tư liệu ở thị trấn Mèo Vạc là: a. Cam Thị Vân, Nữ, 18 tuổi; b, Lùng Thị Minh, Nữ, 41 tuổi; c, Lò Sì Páo, Nam, 52 tuổi; d. TS. Lò Giàng Páo, Nam, 53 tuổi . Bảng từ được dùng để nghiên cứu có khoảng hơn 2000 từ (do GS Trần Trí Dõi cung cấp, phục vụ cho việc nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số), chủ yếu là những từ vựng chỉ về hiện tượng tự nhiên, lao động sản xuất, tính chất trạng thái v.v… 4. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luân văn gồm có: Chương 1: Giới thiệu nguồn gốc dân tộc và tình hình nghiên cứu tiếng Di ở Trung Quốc Chương 2: Miêu tả ngữ âm tiếng Di ở thị trấn Trung Bình, thành phố Côn Minh, Vân Nam Trung Quốc Chương 3: Bước đầu nhận xét ngữ âm giữa tiếng Di thị trấn Trung Bình với tiếng Lô Lô ở thị trấn Mèo Vạc, Hà Giang Việt Nam. Chương 1: Giới thiệu nguồn gốc dân tộc và tình hình nghiên cứu tiếng tiếng Di ở Trung Quốc 1.1 Giới thiệu dân tộc Di ở tỉnh Vân Nam Trung Quốc Ở Trung Quốc dân tộc Di là một dân tộc thiểu số cư trú ở khu vực phía tây nam. “Di” là tộc danh thống nhất bằng tiếng Hán để chỉ người dân tộc Di đang cư trú ở nhiều khu vực khác nhau, mà trong thực tế những người Di cư trú ở những khu vực khác nhau thuộc những nhóm khác nhau đều có tên tự xưng riêng của mình. Theo một thống kê chưa hoàn toàn đầy đủ, dân tộc Di có hơn 50 tộc danh tự xưng hoặc là tha xưng, ví dụ: “nɔ su”, “no su”, “nɒ su”, “nie su pho”, “ɬɚ su”, “ne su”, “ȵe su”, “li pho”, “na so pho”, “lo lo pho”, “lo phɯ”, “phu pho”, “ko phu”, “ɑ lo pho”, “mu ndʑi”, “mi ʨhe pho” v.v... Trong hơn 50 tộc danh tự xưng hoặc tha xưng này, những nhóm người có tộc danh tự xưng “no su”, “nɒ su” và “ne su” chiếm khoảng 50% tổng dân số dân tộc Di. Những tộc danh tự xưng này có một số là do biến thể phương ngữ của cùng một từ, ví dụ: “nɔ su”, “no su”, “nɒ su” và “na so pho” v.v... Ở tỉnh Vân Nam hầu hết các tộc danh tự xưng hoặc tha xưng này đều thấy có xuất hiện [23, tr.30]. 1.1.1 Dân số và đi ̣a bàn cư trú Dân tô ̣c Di ở Trung Quố c có dân số hơn 8,7 triê ̣u người, trong đó tỉnh Vân Nam có hơn 5 triệu người (theo kế t quả tổ ng điề u tra dân số lầ n thứ 6 năm 2010 ở Trung Quố c). Đây là dân tộc thiểu số có dân số nhiều nhất trong số 25 dân tộc thiểu số đang cư trú ở tỉnh Vân Nam. Ở Trung Quốc, dân tô ̣c Di tâ ̣p trung cư trú ở ba tin̉ h Qúy Châu , Tứ Xuyên, Vân Nam và Khu t ự trị Dân tộc Choang (Zhuang) Quảng Tây, đều thuô ̣c vi ̣trí phía tây nam Trung Quố c. Trong số đó, tỉnh Vân Nam là tỉnh có người Di cư trú nhiề u nhấ t. Hình thái cư trú của người Di ở Trung Quốc là “đa ̣i phân tán tiể u tâ ̣p trung”. Nói đại phân tán là vì nhìn khái quát địa bàn cư trú của người Di phân bố rải rác ở khu vực bốn tỉnh khác nhau; nói tiểu tập trung là vì trong các tin̉ h la ̣i có những khu vực ch ỉ riêng có người Di tâ ̣p trung sinh số ng , ví dụ như khu vực Đa ̣i, Tiể u Lương Sơn thuô ̣c tin ̉ h Tứ Xuyên và khu vực Sở Hùng thuô ̣c tin̉ h Vân Nam. Nơi đây là những khu vực có người Di tâ ̣p trung sinh số ng [21, tr.1]. Sau khi Cô ̣ng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, ở những khu vực có người Di tâ ̣p trung cư trú đã đư ợc thiết lâ ̣p các khu tự tri ̣ , huyê ̣n tự tri ̣hoă ̣c thi ̣ trấ n tự trị dân tô ̣c Di . Ở tỉnh Vân Nam có Châu tự tri ̣dân tô ̣c D i Sở Hùng và Châu tự tri ̣dân tô ̣c Hà Nhì & dân tô ̣c Di Hồ ng Hà . Đây là hai khu vực có người Di tâ ̣p trung sinh số ng nhiề u nhấ t ở tỉnh Vân Nam. Ngoài ra còn có các huyện tự trị dân tộc Di như huyện Tự trị Dân tộc Di Nga Sơn, huyện Tự trị Dân tộc Di Ninh Lang, huyện Tự trị Dân tộc Di & Dân tộc Hmông Lộc Khuyến v.v. Nói chung ở đa số huyện và xã của tỉnh Vân Nam đều có người dân tộc Di cư trú. Ở những nơi này, họ cư trú xen kẽ với các dân tô ̣c anh em khác. Về mặt địa lý, dân tộc Di chủ yếu cư trú ở cao nguyên Vân Qúy và vùng ven đông nam của cao nguyên Thanh Tạng; ở đây có nhiều dãy núi cao và con sông lớn chạy qua, ví dụ dãy núi Đại Lương, dãy núi Ô Mông, dãy núi Ai Lao, sông Kim Sa, sông Nguyên Giang, sông Lan Thương… Do ảnh hưởng của điạ lý, khu vực người Di cư trú phầ n lớn đề u là khu vực miề n núi cao , so với mặt nước biển là khoảng 2000 – 2500 mét; họ sinh sống ở các lưng chừng núi hoặc mô ̣t số thung lũng tương đố i rô ̣ng raĩ giữa các ngọn núi. 1.1.2 Nguồ n gốc và lịch sử người Di Dân tô ̣c Di là mô ̣t trong những dân tô ̣c thiể u số có lich ̣ sử lâu đời ở Tr ung Quố c, nhưng vẫn chưa có một bộ sách lịch sử nào đã đề cập một cách hệ thống và đầy đủ đến nguồn gốc lịch sử của tộc n gười này . Vì thế cho đế n nay các ý kiế n về nguồ n gố c lich ̣ sử của người Di vẫn chưa đươ ̣c thố ng nhấ t. Chủ yếu gồm những ý kiế n sau đây: Mô ̣t là, thuyế t từ phía đông đế n . Có người cho rằng người Di trước đây là người thuô ̣c nước Sở, cư trú ta ̣i lưu vu ̣c hồ Đô ̣ng Đình. Sau khi liên minh hai bô ̣ lạc La (罗) và Lò (卢) đánh ba ̣i quân nước Sở, người Di đ ã vào Vân Nam theo tướng Trang Kiề u của nước Sở. Về sau, dầ n dầ n di cư đế n những khu vực phía tây nam như hiê ̣n nay. Trải qua những thăng trầ m lich ̣ sử , dầ n dầ n đã hình thành người Di bây giờ . Căn cứ của giải thuyết này là: Trước khi nước Cô ̣ng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời người Di đươ ̣c go ̣i là “luo luo” , ngữ âm của tộc danh “luo luo” gầ n với tộc danh liên minh của hai bộ “La Lò (罗卢(luo lu)”. [21, tr.9] Hai là , thuyế t từ tây đế n . Có người cho rằng , người Di đế n từ Tây Ta ̣ng , hoă ̣c đế n từ k hu vực biên giới giữa Tây Tạng và Myanmar, bởi vì ngôn ngữ và thể chấ t của người Di gần giố ng những ng ười cư trú ở khu vực này . Vậy đây cũng là căn cứ đề chứng minh dân tô ̣c Di có quan hê ̣ mâ ̣t thiế t với dân tô ̣c T ạng [21, tr.9]. Ba là, thuyế t từ nam đế n . Có người cho rằ ng tổ tiên của người Di là người Viê ̣t cổ (khối Bách Việt) hoă ̣c người Liêu cổ . Người đưa ra giải thuyế t này đã tổ ng hơ ̣p những phong tu ̣c tâ ̣p quán của người Liêu đươ ̣c ghi trong tâ ̣ p “Bắ c Sử – Liêu Truyề n” theo 18 mục và cho rằng trong 18 mục này có rất nhiều giống hoặc gần giống với phong tục tâ ̣p quán của người Di [21, tr.10]. Bố n là, thuyế t từ bắ c đế n . Thuyết này cho rằ ng ở thời kỳ cổ đa ̣i , tổ tiên của người Di cư trú ở “Mao Ngưu Khiế u Ngoa ̣i” (Tây Bắc, Tứ Xuyên), sau đó di cư đến “Cùng Chi Lỗ” (vùng chân núi Đại Tuyết Sơn) và dần dần di cư đến phiá bắc và nam của Kim Sa Giang . Tức người Khương cổ là tiên tô ̣c của người dân tô ̣c Di [21, tr.10]. Căn cứ của giải thuyết này là về mặt văn hóa theo các sách sử ghi lại có một số phong tục lễ cưới của người Khương gần giống phong tục của người Di [21, tr. 14]. Về mặt ngôn ngữ, tiếng Di thuộc họ ngôn ngữ Hán Tạng, nhánh ngôn ngữ Tạng Miến, tiếng Di có quan hệ họ hàng với tiếng Tạng, trong đó dân tộc Tạng và Khương đều là những dân tộc cư trú ở vùng phía tây bắc Trung Quốc [21, tr.16]. Hiện nay có không ít người theo học thuyết này, nhưng trong các văn hiến Di ngữ hoặc Hán ngữ chúng ta vẫn chưa tìm thấy được một căn cứ nào đó chứng minh cho giải thuyết này [25, tr.5]. Năm là, thuyế t thổ dân Vân N am. Giả thuyết này cho rằ ng từ xưa đế n nay Vân Nam là điạ bàn cư trú gố c của người dân tô ̣c Di . Những người Di cư trú ở Tứ Xuyên , Qúy Châu , Quảng tây hiện nay đều là di cư từ Vân Nam đến [21,tr.10]. Hiện nay có rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu và nhiều tác phẩm nghiên cứu tán đồng quan điểm của giải thuyết này, đặc biệt là những nhà nghiên cứu là người bản ngữ. Căn cứ của giải thuyết này là trong nhiều văn hiến tiếng Di đã phản ánh nguồn gốc của người dân tộc Di là ở vùng lãnh thổ phía tây nam Trung Quốc này. Ví dụ: “Kinh Chỉ Lộ Dân Tộc Di” là một bộ kinh thư được cho rằng là bản đồ đường di cư của người dân tộc Di. Theo “Tập Dịch Kinh Chỉ Lộ Di Ngữ” (NXB Học viện Dân tộc Trung Ương, năm 1993) khi có người chết những người dân tộc Di cư trú ở dãy núi Ai Lao sẽ theo “Kinh Chỉ Lộ” chỉ đường và đưa hồn người chết về khu vực gần hồ Điền Trì (ở Thanh phố Côn Minh tỉnh Vân Nam bây giờ). Những người dân tộc Di cư trú ở Lương Sơn tỉnh Tứ Xuyên chỉ đường và đưa hồn người chết về khu vực Chiêu Thông tỉnh Vân Nam. Theo “Kinh Chỉ Lộ” người Di cư trú ở khu vực Oai Ninh tỉnh Qúy Châu chỉ đường và đưa hồn người chết về đến khu vực Chiêu Thông và Khúc Tịnh tỉnh Vân Nam bây giờ. Bản thân người dân tộc Di cũng cho rằng tổ tiên của dân tộc Di cư trú ở khu vực phía đông bắc hồ Điền Trì, sau khi chia nhóm rồi mới dần dần di cư đến những khu vực khác [25, tr.7] Về mặt tín ngưỡng tôn giáo nguyên thủy, người Di cư trú ở các nơi đều cúng phần dưới của cây tre coi như tổ tiên của mình và đưa nó vào núi sâu rừng già. Trong bộ sách “Hoa Dương Quốc Chí – Nam Trung Chí” có ghi: Hữu trúc vương giả, hưng vu Độn Thủy” túc là “có những người lấy cây trúc làm vương, những người này ở khu vực Độn Thủy (Bắc Bàn Giang)”. Vì vậy chúng ta có thể thấy rằng giải thuyết dân tộc Di là thổ dân Vân Nam có nhiều căn cứ từ văn hóa nội bộ của người Di [25, tr.8]. Ngoài những giải thuyết đã nói ở trên ra , còn có những giải thuyết khác như người Di đến từ Châu Âu v.v… Nhưng hiê ̣n nay theo các kế t quả điề u tra và nghiên cứu tại khu vưc người Di cư trú , đa số ho ̣c giả chủ yếu theo hai học thuyết “từ phía bắc đến” và “thổ dân Vân Nam”. Những người theo giải thuyết “từ phía bắc đến” cho rằ ng dân tô ̣c Di là từ phiá tây bắ c “Mao Ngưu Khiế u Ngoại” di cư vào phía tây n am, và đã dung hò a vào những dân tô ̣c cư trú ở phiá tây nam rồi dầ n dầ n hì nh thành dân tô ̣c Di bây gi ờ [21, tr.11]. Còn những người theo học thuyết “thổ dân Vân Nam” cho rằng tổ tiên của người dân tộc Di cư trú ở phía đông bắc hồ Điền Trì, sau đó dần dần di cư ra những nơi khác và đã dung hòa với các dân tộc khác trong con đường di cư. Theo các truyện cổ dân gian, dân tộc học và lịch sử học, chúng tôi cũng như một số học giả khác cho rằng chủ thể của dân tộc Di là thổ dân Vân Nam, và đã tiếp xúc dung hòa với người Khương đến từ phía bắc, người nước Sở đến từ phía đông, đồng thời đồng hóa những dân tộc ít người cư trú ở cùng khu vực và dần dần hình thành cộng đồng người dân tộc Di [25, tr.8]. 1.2 Giới thiệu tiếng Di ở tỉnh Vân Nam Trung Quốc 1.2.1 Nguồ n gố c của tiế ng Di Xét về mặt nguồn gốc tiếng Di được coi là một ngôn ngữ thuộc họ Hán Tạng, nhánh ngôn ngữ Tạng Miế n, nhóm ngôn ngữ Di . Nó có quan hệ họ hàng với các ngôn ngữ cùng ho ̣ và cùng nhóm với nó , chủ yế u đươ ̣c thể hiê ̣n qua tiń h tương đồ ng giữa phầ n tử vựng và các thành phần ngữ pháp [11, tr.3]. 1.2.2 Đặc điểm phương ngữ tiế ng Di ở tỉnh Vân Nam Theo hai báo cáo của đô ̣i công tác ngôn ngữ dân tô ̣c thiể u số thứ tư năm 1956, tiế ng Di đươ ̣c chia ra thành 6 phương ngữ lớn. Đó là phương ngữ Bắ c bộ, phương ngữ Đông bộ , phương ngữ Nam bộ , phương ngữ Tây bộ, phương ngữ Đông Nam bộ và phương ngữ Trung bộ. Do ảnh hưởng của điạ lý và khu vực cư trú tương đ ối rô ṇ g raĩ , ngôn ngữ của người dân tô ̣c Di cư trú ở những khu vực khác nhau khác tồn tại nhiều sự khác biệt, thậm chí trong cùng mô ̣t phương ngữ còn tồn tại rấ t nhiề u thổ ngữ khác nhau . Giữa các phương ngữ người Di không thể giao lưu với nhau , có khi thậm chí chỉ cần đi qua một ngòn núi hoặc là một dòng sông ta sẽ nghe được những tiế ng nói khác nhau. Sáu phương ngữ lớn của tiếng Di đều có phân bố ở tỉnh Vân Nam. Theo sách “Di Ngữ Giản Chí”, ở tỉnh Vân Nam phương ngữ Bắc bộ chủ yếu phân bố ở 3 huyện Hoa Bình, Vĩnh Thắng và Ninh Lan thuộc thành phố Lệ Giang, ở huyện Trung Điện của châu tự trị dân tộc Tạng Địch Khánh, huyện Lan Bình của châu tự trị dân tộc Li Su Nộ Giang, huyện Kiếm Xuyên của châu tự trị dân tộc Bạch Đại Lý, huyện Xảo Gia và huyện Vĩnh Thiện ở khu vực Chiêu Thông, huyện Vĩnh Nhân và Nguyên Mưu của châu tự trị dân tộc Di Sở Hùng và một bộ phận của huyện tự trị dân tộc Di & dân Tộc Hmông Lộc Khuyến. Phần lớn người dân tộc Di nói phương ngữ Bắc bộ này đều tự xưng mình là nɔ˧ su˧ (gồm cách gọi biến thể như nɔ˧ su̱˧, ne˧ su˧…). Đây là phương ngữ có số người nói đông nhất [11, tr.172]. Phương ngữ Đông bộ chủ yếu phân bố ở hai tỉnh Qúy Châu và Vân Nam, biên giới của phương ngữ này phía bắc đến khu vực Vĩnh Thiện, Xảo Gia và Chiêu Thông tỉnh Vân Nam, phía nam đến khu vực Sư Tôn Tỉnh Vân Nam, phía đông đến Kiềm Tây, Quan Lĩnh thuộc tỉnh Qúy Châu và Long Linh của tỉnh Quảng Tây. Phía tây đến khu vực An Ninh và Nguyên Mưu của tỉnh Vân Nam. Ở tỉnh Vân Nam nó chủ yếu phân bố ở các huyện như huyện Đại Quan, huyện Diêm Tân, huyện Trấn Hùng, huyện Di Lương, huyện Vĩnh Thiện và huyện Xảo Gia ở khu vực Chiêu Thông, huyện Phú Nguyên, huyện Lục Lương, thành phố Tuyên Uy, huyện La Bình, huyện Mã Long, huyện Sư Tôn và huyện Hội Trạch khu vực Khúc Tịnh, ở huyện Vũ Định của Châu tự trị dân tộc Di Sở Hùng và huyện Phú Minh, thành phố An Ninh và một bộ phần huyện Lộc Khuyến thuộc thành phố Côn Minh. Phần lớn người Di nói phương ngữ này tự xưng là no˥ su˥, na˧ su˧ pho˥, na˧ so˧ pho˥, nɑ˥ pho˥, ko˧ pho˥…[11, tr.179]. Phương ngữ Tây bộ chủ yếu phân bố ở phía tây tỉnh Vân Nam, ranh giới của phương ngữ này là: phía bắc đến Vĩnh Thắng (thuộc Lệ Giang) và Hạc Khánh (thuộc Đại Lý), phía nam đến Cảnh Cốc (thuộc Phổ Nhĩ) và Lang Thương, phía đông đến Di Độ (thuộc Đại Lý) và Cảnh Đông (thuộc Phổ Nhĩ), phía tây đến huyện Đằng Xung và Long Lăng (thuộc Bảo Sơn). Phần lớn người Di nói phương ngữ này tự xưng là lalo˧ pa, misapav.v…[11, tr.195] Phương ngữ Nam bộ chủ yếu phân bố ở phía nam tỉnh Vân Nam, ranh giới của phương ngữ này là: phía bắc đến thành phố Côn Minh, phía Nam đến Giang Thành và Kim Bình, phía đông đến Khai Viễn và Mông Tự, phía tây đến Song Bá, Phổ Nhĩ. Phần lớn người Di nói phương ngữ này tự xưng là na̱˧ su˥, na̱˧ su˥phov. v…[11, tr.189] Phương ngữ Đông Nam bộ chủ yếu phấn bố ở phía đông nam của tỉnh Vân Nam, ranh giới của vùng phương ngữ này là: phía bắc đến Sư Tôn, Côn Minh, phía nam đến Mã Quan, Ma Li Po, phía đông đến Quảng Nam, Phú Ninh, phía tây đến Di Lặc, Khai Viễn và Mông Tự. Phần lớn người Di nói phương ngữ này tự xưng là: nɪ, ɑɕi˥ ɑ˩ dʐɛ, a˧ tʂa, pho˥ lɔ˥ v.v…[11, tr.202] Phương ngữ Trung bộ chủ yếu phân bố ở trung bộ của tỉnh Vân Nam, ranh giới của vùng phương ngữ này là: phía bắc đến Vĩnh Nhân, Tân Xuyên, phía nam đến Song Bá, Trấn Nguyên, phía đông đến Nguyên Mưu, Lộc Phong, phía tây đến Tượng Vân, Nguy Sơn. Phần lớn người Di nói phương ngữ này tự xưng là: lo̱lo˧ pho, lo̱lu̱˧ v.v…[11, tr.211] 1.3 Giới thiệu người Di và tiếng Di ở Thị Trấn Trung Bình 1.3.1 Địa bản cư trú và dân số Thị trấn Trung Bình nằm ở vị trí trung bộ của huyện tự trị dân tộc Di & dân tộc Hmông Lộc Khuyến, phía bắc của thành phố Côn Minh, cách huyện Lộc Khuyến (nơi trụ sở ủy ban nhân dân huyện) 57 km, cách thành phố Côn Minh 129 km. Thị trấn thuộc khu vực miền núi, trong khu vực có nhiều núi cao, có hai con sông chạy qua, chỗ cao nhất trong khu vực cao hơn mặt nước biển khoảng 2753m, chỗ thấp nhất cao hơn mặt nước biển 1220m [17, tr.35]. Dân tộc Di ở đây chủ yếu cư trú ở các lưng chừng núi và một số thũng lũng, cư trú xen kẽ với các dân tộc anh em khác, hình thái cư trú của người Di ở đây cũng như hình thái cư trú của người Di ở toàn quốc là “đại phân tán, tiểu tập trung”, nói đại phân tán là vì người Di ở đây cư trú rải rác ở 13 xã khác nhau, nhưng trong sự phân tán vẫn có sự tập trung, ở các làng trong xã người dân tộc Di thường cư trú ở một làng. Ví dụ ở làng Truyết Tử Ngọa (nơi chúng tôi thực hiện công việc thu thập tư liệu) thuộc xã An Đông Khang, cả làng có 30 hộ dân, trong đó chỉ có 1 hộ dân tộc Hán, và cả hộ dân tộc Hán này đều biết nói tiếng Di, bình thường giao tiếp với người trong làng đều dùng tiếng Di. Thị trấn Trung Bình có 13 xã, có dân số khoảng 19341 người (theo kết quả thống kê cuối năm 2009), và có 8 dân tộc thiểu số như dân tộc Di, Hmông, Li Su, Choang… đang cư trú và sinh sống tại thị trấn này, trong đó dân tộc Di với dân số khoảng 7177 người là dân tộc thiểu số có dân số nhiều nhất, chiếm khoảng 37% tổng dân số của cả thị trấn. Ở đây hầu hết các xã đều có người dân tộc Di cư trú, ở nhiều xã các dân tộc cư trú xen kẽ nhau [17, tr.35]. 1.3.2 Đặc điểm văn hóa lễ hội của người Di ở thị trấn Trung Bình Trong mô ̣t năm dân tô ̣c Di có rấ t nhiề u ngày lễ ngày tế t , ví dụ: ngày Tết to, Tế t nhỏ , tế t Thanh Minh, tế t Đoan Ngo ̣, tế t Đuố c, tế t 14 tháng 7, tế t Trung Thu . Trong những ngày tế t này Tế t to và tế t Đuố c là hai cái tế t quan tro ̣ng nhấ t đối với người Di và được tổ chức to nhất trong năm. Tết Đuốc th ường được tổ chức vào ngày 24 đến 26 tháng 6 âm lich ̣ hàng năm, đây là mô ̣t ngày tế t truyề n thố ng của người Di . Về nguồn gốc của phong tục này, có nhiều cách giải thích khác nhau . Theo ông Vương Chi Bản (người già nhấ t ở làng Thuyế t Tử Ngo ̣a huyê ̣n Lô ̣c Khuyế n , Vân Nam) kể rằ ng: trong lịch sử vì chiến tranh (có thể là các cuộc nổi dậy của người Di chống triều đình phong kiến), người Di đã bi ̣đánh ba ̣i , buộc phải chạy khỏi vùng đất cư trú của mình vào tố i ngày 24 tháng 6 âm lich. ̣ Trước khi phân cư đi các nơi, người Di đã tâ ̣p trung t ế lễ rồ i bàn ba ̣c , thống nhất với nhau l ấy ngày 24 tháng 6 âm lịch là ngày Tết chung của người Di ở khắp mọi nơi. Do vậy, mỗi năm cứ đến ngày 24 tháng 6 người dân tô ̣c Di la ̣i tổ chức mô ̣t ngày lễ . Đế n ngày Tế t đuố c , mọi người dù ở đâu, làm gì đề u phải về nhà để sum ho ̣p với gia đình . Tế t đuố c đươ ̣c tổ chức theo các tâ ̣p tu ̣c như sau: Vào tối ngày 24, sau khi ăn cơm tối xong, mỗi người sẽ cầ m mô ̣t cái đuố c ,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan