ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
PHẠM THỊ THU HOÀI
PHỤ NỮ VIỆT NAM LẤY CHỒNG ĐÀI LOAN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Châu Á học
Hà Nội – 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
PHẠM THỊ THU HOÀI
PHỤ NỮ VIỆT NAM LẤY CHỒNG ĐÀI LOAN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Châu Á học
Mã số: 07033029
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phùng Thị Huệ
Xác nhận của Chủ tịch Hội đồng
Hà Nội – 2011
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài: ........................................................................................................ 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: ......................................................................................... 4
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu:.................................................................................. 7
4. Phƣơng pháp nghiên cứu: ........................................................................................... 8
5. Cấu trúc của luận văn: ................................................................................................ 8
Chƣơng 1: BỐI CẢNH XUẤT HIỆN HIỆN TƢỢNG PHỤ NỮ VIỆT NAM LẤY
CHỒNG ĐÀI LOAN ....................................................................................................... 9
1.1. Về mặt kinh tế và hợp tác lao động.......................................................................... 9
1.1.1. Kinh tế .................................................................................................................... 9
1.1.1.1. Về phía Việt Nam ................................................................................................. 9
1.1.1.2. Về phía Đài Loan ............................................................................................... 11
1.1.2. Hợp tác lao động................................................................................................... 12
1.2. Về mặt pháp luật .................................................................................................... 13
1.2.1. Về phía Việt Nam .................................................................................................. 13
1.2.2. Về phía Đài Loan .................................................................................................. 15
1.3. Về mặt xã hội .......................................................................................................... 16
1.3.1. Về phía Việt Nam .................................................................................................. 16
1.3.2.Về phía Đài Loan ................................................................................................... 20
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHỤ NỮ VIỆT NAM LẤY CHỒNG ĐÀI LOAN .......... 24
2.1. Số lƣợng phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan từ năm 1995 đến nay................. 25
2.2. Những con đƣờng kết hôn giữa nữ Việt Nam và nam Đài Loan và chất lƣợng của
các cuộc hôn nhân dƣới mỗi hình thức ......................................................................... 28
2.2.1. Hôn nhân tự nguyện trên cơ sở tìm hiểu .............................................................. 28
2.2.2. Hôn nhân qua các trung tâm môi giới kết hôn ..................................................... 30
2.3. Đặc điểm cô dâu Việt Nam và chú rể Đài Loan .................................................... 38
2.3.1. Độ tuổi, trình độ học vấn, điều kiện sống cơ bản của cô dâu Việt Nam ............... 38
2.3.2. Độ tuổi, trình độ học vấn của chú rể Đài Loan .................................................... 41
2.3.3. Chênh lệch độ tuổi, trình độ học vấn của cô dâu Việt Nam và chú rể Đài Loan.. 42
Phạm Thị Thu Hoài
1
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
2.4. Hệ quả của vấn đề phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan .................................... 44
2.4.1. Về phía Đài Loan .................................................................................................. 44
2.4.2. Về phía Việt Nam .................................................................................................. 46
Chƣơng 3: CHÍNH SÁCH, PHƢƠNG HƢỚNG GIẢI QUYẾT VÀ CÁC KHUYẾN NGHỊ
ĐỐI VỚI CÁC CUỘC HÔN NHÂN GIỮA NỮ VIỆT NAM VÀ NAM ĐÀI LOAN ............ 50
3.1. Về mặt kinh tế, xã hội ............................................................................................. 50
3.1.1. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người phụ nữ ................................. 50
3.1.2. Hỗ trợ kịp thời cho trẻ em lai Đài Loan ................................................................ 53
3.2. Về mặt pháp luật .................................................................................................... 53
3.2.1. Đẩy mạnh điều tra nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hôn nhân có
yếu tố nước ngoài ........................................................................................................... 53
3.2..2. Kiên quyết đấu tranh chống lại tệ nạn buôn bán phụ nữ và môi giới hôn nhân bất
hợp pháp......................................................................................................................... 59
3.3. Những ý kiến riêng của bản thân tác giả......................................................... ........ 59
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 70
PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 76
Phạm Thị Thu Hoài
2
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong bối cảnh quốc tế hóa, toàn cầu hóa, Việt Nam không ngừng mở
rộng quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa với các quốc gia và các vùng lãnh thổ
trên thế giới. Cùng với việc mở rộng các mối quan hệ này, sự trao đổi, giao
lưu, qua lại giữa Việt Nam và các nước trên thế giới ngày càng được tăng
cường, quan hệ hôn nhân giữa người dân Việt Nam với các nước khác, trong
đó có Đài Loan cũng vì thế mà được tăng lên. Xu hướng chủ yếu trong hôn
nhân có yếu tố nước ngoài là các cô gái Việt Nam kết hôn với nam giới mang
quốc tịch các quốc gia khác, và trong luận văn này là vấn đề kết hôn của các
cô gái Việt Nam với nam giới Đài Loan. Trên thực tế, đây là một xu thế tất
yếu của thời đại, điều “bất bình thường” chính là ở chỗ rất nhiều các cặp vợ
chồng Việt – Đài này đi đến kết hôn không phải dựa trên những quy luật hôn
nhân thông thường – dựa trên cơ sở tình yêu và khoảng thời gian tìm hiểu cần
thiết. Và những hệ lụy mà những cuộc hôn nhân kiểu này mang lại cũng
không phải là nhỏ. Tại sao mảnh đất Đài Loan lại có sức hấp dẫn với các cô
gái Việt Nam như vậy? Liệu những cuộc hôn nhân của các cô gái Việt Nam
và những chàng trai Đài Loan có mang lại hạnh phúc thực sự cho những
người trong cuộc? Đó chính là lý do đầu tiên thu hút sự tò mò và quan tâm
của tôi đối với một đề tài mang tính chất xã hội này.
Các cuộc hôn nhân giữa nữ Việt Nam và nam Đài Loan không phải
bây giờ mới có mà đã xuất hiện cách đây hơn chục năm, nhưng cho đến nay
vẫn là một chủ đề thu hút được rất nhiều sự quan tâm của báo giới. Bên cạnh
những cuộc kết hôn của nữ giới Việt Nam với nam giới Hàn Quốc, vấn đề kết
hôn của các cô gái Việt Nam với nam giới Đài Loan đã được phản ánh rất
nhiều trên các trang báo, và đa phần đều là những cuộc hôn nhân bất hạnh.
Vậy thực chất của các cuộc hôn nhân này ra sao? Những gì được phản ánh
Phạm Thị Thu Hoài
3
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
qua báo chí có hoàn toàn là sự thật? Đó cũng là một vấn đề cần được sự quan
tâm và lý giải đầy đủ.
Trong quá khứ, người dân Việt Nam vẫn còn ít nhiều những dị ứng về
tình trạng hôn nhân dị tộc, dị chủng. Không ít sự khó chịu, chê bai, thậm chí
cả sự khinh bỉ khi những cô gái Việt Nam lấy chồng ngoại quốc, dù đó là một
nước châu Á, châu Âu hay Mỹ. Có thời những phụ nữ này được gọi là “me
Tây”, “me Mỹ”… Phần lớn những phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước
ngoài đã rời bỏ Việt Nam định cư ở nước ngoài. Tuy nhiên trong xã hội mở
cửa như ngày nay, cách nhìn của người dân về những cuộc hôn nhân với
người nước ngoài ngày càng thông thoáng, cởi mở hơn, đồng thời cũng có cái
nhìn đồng cảm, bênh vực đối với những người phụ nữ này. Vì vậy, khi mà
hình ảnh của những cô gái này bị xâm phạm, bị bôi nhọ thì nó đã trở thành
một vấn đề của quốc gia, của dân tộc chứ không chỉ đơn thuần là vấn đề của
cá nhân nữa. Từ sau khi trào lưu phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan diễn ra
rầm rộ, đã có không ít thông tin về việc tuyển các cô dâu thông qua các “chợ
vợ” cho người nước ngoài xem mặt, hay việc các cô dâu bị xâm phạm tình
dục, bị giết hại, bị bán vào các nhà chứa, bị chồng hành hạ, đánh đập… Chắc
chắn trong chúng ta ai đã từng biết qua các thông tin này đều không thể làm
ngơ. Và đó cũng là một trong những lý do thôi thúc tôi đi sâu tìm hiểu thực
trạng của những cuộc hôn nhân Việt – Đài này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Vấn đề phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan là vấn đề đã diễn ra sôi
nổi cách đây hàng chục năm, tuy nhiên những công trình nghiên cứu hệ thống
về nó lại chưa nhiều, đa phần chỉ dừng lại ở những bài báo, tạp chí chỉ phản
ánh được một phần thực trạng của vấn đề.
Đáng chú ý nhất là năm 2004 Sở Khoa học - công nghệ thành phố Hồ
Chí Minh thực hiện đề tài Nghiên cứu hôn nhân giữa người Việt Nam với
Phạm Thị Thu Hoài
4
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
người Đài Loan - Thực trạng, xu hướng và giải pháp, do GS. Phan An (Viện
Khoa học xã hội vùng Nam bộ) làm chủ nhiệm. Theo các tài liệu của ông,
hiện nay tại Đài Loan đã có khoảng 90 ngàn cô dâu Việt - chiếm 70% cô dâu
nước ngoài tại đây, trung bình cứ 80 gia đình Đài Loan thì có 1 cô dâu Việt
[36, tr. 5]. Số cô dâu Việt Nam phần lớn đến từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long, sống ở nông thôn, lao động nông nghiệp, trình độ học vấn không cao và
53,8% kết hôn với người Đài Loan thông qua hoạt động môi giới [26, tr. 8].
Đa phần trong số họ đều quyết định lấy chồng Đài Loan vì mục đích kinh tế,
mong muốn được “đổi đời”, trong khi bản thân lại thiếu những kiến thức cần
thiết để chuẩn bị cho việc lấy chồng nước ngoài. Và khi sang đến Đài Loan,
những cô dâu này đã gặp phải muôn vàn khó khăn từ những rào cản ngôn ngữ
bất đồng, định kiến xã hội đến vấn đề nhập quốc tịch, vấn đề hôn nhân không
hạnh phúc, nạn nhân của nạn bạo hành và nô lệ tình dục. Từ đó nhóm nghiên
cứu của ông đã đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục tình trạng
trên. Công trình nghiên cứu của GS. Phan An cùng đội ngũ nghiên cứu của
ông là một công trình nghiên cứu công phu, được tiến hành dựa trên cơ sở
khảo sát thực tế. Công trình này đã đưa ra được một cách toàn diện từ nguyên
nhân, thực trạng cho đến những giải pháp khắc phục hiện trạng phụ nữ Việt
Nam lấy chồng Đài Loan. Tuy nhiên cách nhìn của ông về vấn đề này
nghiêng hẳn về tính chất tiêu cực cũng như đa phần đều “đổ lỗi” cho các cô
gái, trong khi trách nhiệm của Nhà nước cũng có một phần không nhỏ. Bên
cạnh đó những hệ quả để lại cũng chỉ tập trung ở những mặt trái mà không có
những giá trị tích cực.
Bản tham luận của thạc sĩ xã hội học Trần Hồng Vân Vấn đề kết hôn
của nữ Việt Nam với nam Đài Loan: Thực trạng – Hệ quả - Giải pháp tại hội
thảo quốc tế Việt Nam học (14 đến 17/07/2004 tại thành phố Hồ Chí Minh)
đã được nhiều người quan tâm khi vấn đề này đang trở thành một hiện tượng
Phạm Thị Thu Hoài
5
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
xã hội nóng bỏng. Bà đã giải thích nguyên nhân làm cho số lượng các cuộc
hôn nhân Việt - Đài gia tăng một cách nhanh chóng là do chính sách phát
triển và mức đô thị hoá cao của Đài Loan đã khiến số thanh niên nông thôn
trở thành những người có thu nhập thấp về kinh tế. Mặt khác, ở Đài Loan, tỉ
lệ phụ nữ có trình độ học vấn từ cao đẳng trở lên nhiều hơn nam giới. Do ảnh
hưởng của tư tưởng truyền thống, con gái Đài Loan thường muốn chồng mình
phải có trình độ học vấn cao hơn hoặc ít nhất bằng mình. Ngược lại, con trai
Đài Loan cũng không muốn mình kém cỏi hơn vợ. Từ đặc điểm này đã tạo
“lực đẩy” nam Đài Loan lấy vợ nước ngoài, trong đó có Việt Nam. Ở Việt
Nam, một bộ phận phụ nữ, nhất là ở nông thôn, đa số tuổi còn trẻ, chưa có
việc làm ổn định, lại có kỳ vọng vào những cuộc hôn nhân với người nước
ngoài vì mục đích kinh tế… Một yếu tố khác không thể bỏ qua là tâm lý
hướng về nguồn cội của những phụ nữ Việt gốc Hoa (phụ nữ dân tộc Hoa lấy
chồng Đài Loan chiếm trên 40% tổng số phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài
Loan [22, tr. 3]). Đó là những “lực hút” người phụ nữ Việt Nam tìm chồng
Đài Loan. Hiện tượng này đã dẫn đến một loạt những hệ quả cho xã hội. Đầu
tiên phải kể đến là hệ quả đối với quá trình di cư quốc tế và di chuyển lao
động. Tiếp đó là hệ quả đối với việc ổn định và phát triển đời sống kinh tế văn hóa - xã hội của các cặp vợ chồng Việt - Đài và hệ quả xã hội xét trên
quan điểm giới và sự phát triển. Bản tham luận này đã khai thác vấn đề ở một
góc độ khác hơn, đặc biệt ở phần hệ quả đã khai thác vấn đề ở tầm cao hơn đó
chính là đặt nó trong quan điểm về giới và vấn đề lao động.
Báo cáo tham luận của thạc sĩ Trịnh Thị Bích (Sở Tư pháp thành phố
Hồ Chí Minh) ngày 6/06/2003 nêu rõ: năm 2000 có 32.000 cô dâu Việt Nam,
chiếm tỉ lệ 46,3% cô dâu nước ngoài ở Đài Loan, 85% cô dâu Việt Nam lấy
chồng qua “cò” [34, tr. 8].
Phạm Thị Thu Hoài
6
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
Bên cạnh đó là một loạt những bài báo nhận định về tình hình này:
Báo Phụ nữ Việt Nam ra ngày 24/07/2003 trong bài Ai bảo vệ những phụ nữ
lấy chồng nước ngoài đã trích dẫn những số liệu đáng chú ý, như số liệu
nghiên cứu của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Cần Thơ về vấn đề phụ nữ Cần Thơ
lấy chồng Đài Loan. Nguyên nhân đều bắt nguồn từ kinh tế: 78,94% do gia
đình gặp khó khăn, 66,5% do thất nghiệp, 62,56% do cần tiền để giải quyết
khó khăn trước mắt, 60,56% do trình độ hạn chế, thiếu hiểu biết và đáng lưu ý
là có 47,1% do tâm lý thích lấy chồng ngoại [39, tr. 9]. Còn những bài báo
phản ánh tình trạng của các cô dâu Việt Nam nơi đất khách quê người có số
lượng tương đối lớn: Thực trạng lấy chồng Đài Loan ở các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long trên Báo Phụ nữ ngày 25/09/2002, Chồng gần không lấy, lấy
chồng xa… trên báo Tuổi trẻ ngày 19/11/2003, Đài Loan: 90% cô dâu Việt
chưa được nhập quốc tịch trên báo Tiền phong ngày 25/05/2005, Một cô dâu
Việt Nam ở Đài Loan bị ngược đãi 6 năm liền trên báo Tiền phong ngày
29/09/2006, “Bến trong, bến đục” ở Đài Loan trên báo Sài Gòn giải phóng
ngày 14/11/2006… Có một số bài báo đã nêu ra một vài giải pháp nhằm giải
quyết thực trạng này, như bài của tác giả Diễm Chi đăng trên báo Phụ nữ chủ
nhật số 36, ngày 22/09/2002 đã nêu vấn đề thành lập các trung tâm tư vấn - hỗ
trợ kết hôn và “hy vọng sự ra đời của một trung tâm như vậy sẽ giải quyết
được những chuyện tiêu cực trong kết hôn giữa người Việt Nam và người
nước ngoài nói chung, giữa người Việt Nam và người Đài Loan nói riêng”
[10, tr. 7].
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là các cô gái Việt Nam lấy chồng Đài Loan. Đi
sâu vào từng vấn đề là bối cảnh diễn ra hiện tượng trên, thực trạng của các
cuộc hôn nhân này và giải pháp để khắc phục những khó khăn, bất cập của
nó.
Phạm Thị Thu Hoài
7
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
Phạm vi nghiên cứu là phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan từ năm
1995 đến nay, tuy nhiên tập trung nhiều vào giai đoạn 1995 đến 2004 vì đây
là những thời kỳ cao điểm của hiện tượng này. Sau đó hiện tượng phụ nữ Việt
Nam lấy chồng Đài Loan vẫn còn tiếp diễn nhưng có giảm do việc các cơ
quan chức năng thắt chặt kiểm tra, quản lý, đồng thời nhận thức của các cô
gái Việt Nam tại các vùng này về vấn đề lấy chồng nước ngoài cũng có sự
thay đổi.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu dựa trên phương pháp tổng hợp,
phân tích có đi kèm mô tả.
5. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, phần
nội dung của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Bối cảnh xuất hiện hiện tượng phụ nữ Việt Nam lấy
chồng Đài Loan.
Chương 2: Thực trạng phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan.
Chương 3: Chính sách, phương hướng giải quyết và các khuyến nghị
đối với các cuộc hôn nhân giữa nữ Việt Nam và nam Đài Loan.
Phạm Thị Thu Hoài
8
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
Chƣơng 1
BỐI CẢNH XUẤT HIỆN HIỆN TƢỢNG PHỤ NỮ
VIỆT NAM LẤY CHỒNG ĐÀI LOAN
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã có được một diện mạo mới
hoàn toàn khác biệt. Đời sống của người dân không ngừng được cải thiện,
kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Đặc biệt sau khi gia nhập WTO, Việt Nam
lại không ngừng bắt nhịp vào bước phát triển chung của toàn thế giới, tham
gia nhiều hơn nữa vào quá trình toàn cầu hóa, quốc tế hóa. Nhưng bên cạnh
những bước phát triển đó, đời sống xã hội của người dân cũng nảy sinh nhiều
vấn đề gây sự chú ý của dư luận, đồng thời cũng là những vấn đề cần có sự
quan tâm, nghiên cứu thấu đáo để tìm ra những giải pháp kịp thời giải quyết.
Một trong số đó chính là hiện tượng phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài
nói chung và lấy chồng Đài Loan nói riêng với vô vàn những bất cập. Những
cuộc hôn nhân này hình thành trong bối cảnh như thế nào? Có điểm gì khác
biệt so với các cuộc hôn nhân thông thường mà lại thu hút được rất nhiều sự
quan tâm của báo chí và dư luận. Ở luận văn này, bối cảnh xuất hiện hiện
tượng sẽ được đi vào tìm hiểu trên các phương diện.
1.1. Về mặt kinh tế và hợp tác lao động
1.1.1 Kinh tế
1.1.1.1. Về phía Việt Nam
Sau khi các thị trường chính của Việt Nam tại Liên Xô và Đông Âu bị
thu hẹp, Việt Nam rơi vào tình trạng mất đi nguồn hỗ trợ về kinh tế. Thêm
vào đó một loạt các dự án đầu tư cũng bị hủy bỏ và những nguồn tài trợ
không hoàn lại từ khối các nước thuộc phe Liên Xô cũng kết thúc. Việt Nam
không còn con đường nào khác ngoài việc phải tiến hành những cải cách cơ
cấu nền kinh tế, từ đó chuyển dần từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế định
Phạm Thị Thu Hoài
9
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
hướng thị trường. Ưu tiên trước tiên là việc tăng cường ngoại thương và thu
hút đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư nước ngoài ban hành vào năm 1987 và
không ngừng được sửa đổi, bổ sung với các mức độ khác nhau vào các năm
1990, 1992, 1996, 2000 trong giai đoạn này đã không ngừng phát huy vai trò
của nó. Pháp luật đầu tư nước ngoài và các văn bản pháp luật liên quan đến
đầu tư nước ngoài được ban hành đã tạo môi trường pháp lý đồng bộ cho các
hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Cùng với việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật, khung pháp lý song phương và đa phương liên quan đến đầu tư
nước ngoài cũng không ngừng được mở rộng và hoàn thiện với việc nước ta
đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước và vùng
lãnh thổ. Vì vậy, ngay trong điều kiện cơ chế thị trường của Việt Nam chưa
hoàn thiện, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn có thể tiến hành các hoạt động đầu
tư thuận lợi tại Việt Nam mà không có sự khác biệt đáng kể so với một số
nước có kinh tế thị trường truyền thống. Bên cạnh đó, các Bộ, ngành và Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh đã phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện nội dung
quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với
các Bộ, ngành liên quan tổ chức tập huấn, trao đổi nghiệp vụ và hỗ trợ các địa
phương từ việc tổ chức hội nghị, hội thảo vận động xúc tiến, xây dựng danh
mục dự án kêu gọi đầu tư, ban hành văn bản hướng dẫn về đầu tư nước ngoài
tại địa bàn… đưa hoạt động quản lý đầu tư nước ngoài ở các địa phương đi
vào nề nếp. Mô hình “một cửa, liên thông”, cách làm “trải thảm đỏ đón nhà
đầu tư” đã có tác động lan tỏa khắp trong cả nước, góp phần nâng cao hiệu
quả thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Dòng vốn nước
ngoài không ngừng đổ vào Việt Nam cũng đồng thời với việc mối quan hệ
của Việt Nam với nước ngoài không ngừng được mở rộng, trong đó có Đài
Loan. Những năm đầu thập kỷ 90, những lợi ích kinh tế của Việt Nam và Đài
Loan có nhiều điểm tương đồng khá lớn. Dường như Đài Loan có thể cung
Phạm Thị Thu Hoài
10
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
cấp cho Việt Nam tất cả những gì mà Việt Nam đang cần ở một đối tác đầu tư
nước ngoài: vốn đầu tư, các ngành sản xuất sử dụng nhiều nhân lực, kỹ năng
quản lý ở trình độ khá và việc thiết lập được các mối liên hệ với thị trường
nước ngoài. Được khuyến khích bởi các chính sách của giới cầm quyền Đài
Loan, một số lượng lớn các công ty Đài Loan đã bắt đầu tiến hành công việc
kinh doanh tại Việt Nam. Mặc dù Việt Nam không ngừng đa dạng hóa các
quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ, Đài Loan vẫn là một đối tác kinh tế
quan trọng. Thương mại hai chiều liên tục tăng dần trong những năm qua.
Năm 1991, thương mại song phương đạt khoảng 232 triệu USD, chiếm
khoảng 5,25% tổng thương mại của Việt Nam. Số liệu tương ứng của năm
2006 là 5,7 tỷ USD và 6,73%, trở thành một trong những đối tác thương mại
hàng đầu của Việt Nam [56]. Đài Loan là khu vực đầu tư lớn thứ ba vào Việt
Nam. Theo số liệu chính thức của Việt Nam, đến cuối năm 2007, Đài Loan đã
đầu tư khoảng 10,5 tỷ USD, chiếm khoảng 12,7% tổng vốn đầu tư nước ngoài
đăng ký tại Việt Nam [56], phần lớn tập trung ở các lĩnh vực sản xuất như xây
dựng, sản xuất thiết bị điện tử và dệt may. Mối quan hệ kinh tế giữa Đài Loan
và Việt Nam không ngừng phát triển cũng tạo điều kiện cho sự giao lưu, qua
lại giữa hai bên. Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho những cuộc hôn nhân với
người nước ngoài, trong đó có Đài Loan phát triển.
1.1.1.2. Về phía Đài Loan
Về phía Đài Loan, lo ngại về sự phụ thuộc quá lớn vào thương mại và
đầu tư ở Trung Quốc đại lục và nguy cơ về một “nền kinh tế bong bóng”,
chính quyền Đài Loan đã buộc phải có sự thay đổi về chính sách. Chính
quyền của ông Lý Đăng Huy đã đưa ra “Phương hướng tăng cường quan hệ
kinh tế và thương mại với Đông Nam Á” năm 1994, thường được biết đến
như là chính sách “hướng Nam”. Các nước Đông Nam Á, trong đó Việt Nam
Phạm Thị Thu Hoài
11
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
cũng là một trong những “điểm ngắm” của Đài Loan *. Trong con mắt của các
quan chức chính quyền và lãnh đạo doanh nghiệp Đài Loan, Việt Nam là một
thị trường rất gần gũi với họ, nhiều cảng biển, chỉ mất hơn 3 giờ bay và ngày
càng hấp dẫn đầu tư nước ngoài. Các ngành sản xuất cần sử dụng nhiều lao
động như giày dép và dệt may đã không còn duy trì được các điều kiện thuận
lợi tại Đài Loan, trong khi các ngành này nhận được sự khuyến khích lớn tại
một số nước ASEAN. Chính sách này đã khuyến khích được hàng ngàn công
ty Đài Loan vào đầu tư và làm ăn tại các nước ASEAN, làm cho thương mại
hai chiều tăng nhanh. Các hãng Đài Loan sớm đặt chân tại Việt Nam gồm
Công ty Tam Dương, tập đoàn Đài Vọng, công ty cable và điện lực Đại
Dương, tập đoàn Pou Chen, tập đoàn pin công nghiệp Kung Long… “Lực
lượng lao động chi phí thấp, chất lượng và cần cù là những nhân tố đầu tiên
hấp dẫn các công ty Đài Loan tới thị trường này”, Trần Phương Mỹ, phát
ngôn viên của tập đoàn sản xuất gia dày lớn nhất thế giới đã nhận xét như vậy.
Việc Đài Loan tăng cường đầu tư vào Việt Nam không chỉ làm thắt chặt thêm
mối quan hệ kinh tế giữa hai bên mà thêm vào đó còn làm tăng cường mối
quan hệ tình cảm. Sự hiểu biết giữa nhân dân hai bên chính là một trong
những yếu tố làm gia tăng số lượng các cuộc hôn nhân giữa Việt Nam và Đài
Loan.
1.1.2. Hợp tác lao động
Đài Loan là một địa điểm quan trọng cho lao động xuất khẩu của
Việt Nam, đặc biệt trong công nghiệp nặng và ngư nghiệp. Ngày 6/05/1999,
hai văn phòng kinh tế – văn hoá Hà Nội và Đài Bắc đã ký kết hiệp định về
việc gửi và tiếp nhận lao động Việt Nam sang làm việc tại Đài Loan. Quy mô
xuất khẩu lao động ngày một tăng nhanh: tính từ năm 1999 đến năm 2005 đã
có 167.800 người Việt Nam sang làm việc tại Đài Loan, đưa Việt Nam trở
*
Xem th êm ph ụ l ục t ran g 80.
Phạm Thị Thu Hoài
12
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
thành một trong những quốc gia có số lượng lao động lớn tại Đài Loan. Nếu
như năm 1999, lao động Việt Nam mới chỉ chiếm tỷ lệ 0,04% thị phần lao
động ở Đài Loan thì năm 2000 là 2,37%, năm 2001 là 4,24%, năm 2002 là
9,7% và năm 2003 là 19,2%. Chiếm hàng đầu trong các ngành mà người lao
động sang làm việc tại Đài Loan là thương mại và dịch vụ với 122.273 người,
chiếm 72,86%, trong đó phụ nữ chiếm tới 60% trong tổng số lao động ở Đài
Loan trong lĩnh vực này [11, tr. 61]. Ngoài ra, từ khi Hội đồng lao động của
Đài Loan cho phép thuê mướn người Việt Nam năm 1999, giúp việc người
Việt Nam bắt đầu chiếm tỷ lệ lớn của phụ nữ Việt Nam tại Đài Loan. Cuối
năm 2008, tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam gần như bế tắc do ảnh
hưởng của suy thoái kinh tế. Nhưng sau những khó khăn đó, “bức tranh” xuất
khẩu lao động đang sang dần trở lại. 8 tháng đầu năm 2009, cả nước đã đưa
gần 46.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Theo Cục quản lý lao động
ngoài nước (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội), thị trường tiếp nhận lao
động nhiều nhất vẫn là Đài Loan với 13.202 người [55]. Chính điều này cũng
là một trong những lý do làm gia tăng số lượng các cuộc hôn nhân Việt - Đài
khi những cô gái Việt Nam sang Đài Loan theo diện xuất khẩu lao động kết
hôn cùng những chàng trai bản xứ. Con số này tuy không nhiều nhưng cũng
là một hình thức tiến tới hôn nhân giữa nữ Việt Nam và nam Đài Loan.
Về mặt pháp luật
1.2.1. Về phía Việt Nam
Luật hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài của Việt Nam còn
nhiều sơ hở. Bên cạnh những cuộc hôn nhân thật sự xuất phát từ tình yêu lại
có nhiều người lợi dụng cái mác “hôn nhân” vì những mục tiêu trục lợi khác.
Quy định đối với những cuộc hôn nhân mang yếu tố nước ngoài còn tương
đối lỏng lẻo. Ngày 10 tháng 7 năm 2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và
Phạm Thị Thu Hoài
13
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Sau khi triển
khai thực hiện Nghị định, việc xác lập quan hệ hôn nhân và gia đình giữa
công dân Việt Nam và người nước ngoài đã có nhiều biến chuyển tích cực so
với trước đây, phù hợp với bối cảnh mở rộng quan hệ giữa nước ta và nước
ngoài. Tuy nhiên việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam và người nước ngoài vẫn
còn nhiều vấn đề tồn tại: ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
nhiều trường hợp kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài, đặc
biệt với người Đài Loan, đã được tiến hành một cách vội vã, không đảm bảo
nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; hoặc phụ nữ Việt Nam vượt biên trái
phép sang chung sống như vợ chồng với công dân nước lánh giềng mà không
đăng ký kết hôn. Đặc biệt từ khi Nghị định 158/2006/NĐ-CP của Chính phủ
về đăng ký và quản lý hộ tịch có hiệu lực thì kết hôn với người nước ngoài
còn hình thành dưới hình thức khác thông qua thủ tục ghi chú kết hôn (không
đăng ký kết hôn tại Việt Nam mà thực hiện việc đăng ký tại cơ quan có thẩm
quyền của nước ngoài, rồi đem giấy chứng nhận kết hôn đến Sở tư pháp thực
hiện việc ghi chú vào sổ hộ tịch). Thủ tục này rất đơn giản và thực hiện nhanh
chóng. Theo bà Lê Thị Hoàng Thanh (Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp),
những điểm bất cập của hệ thống pháp luật Việt Nam còn bao gồm cả việc
không cấm kết hôn khi tuổi tác quá chênh lệch, chưa có quy định về xác lập
thông tin tình hình sinh sống của công dân Việt Nam kết hôn với người nước
ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài. Ví dụ như chưa có quy định bảo hộ
cho phụ nữ Việt Nam sau khi kết hôn sang định cư tại Trung Quốc, Đài Loan,
Hàn Quốc nên khi họ bị bạo hành hay gặp hoàn cảnh khó khăn, việc giúp đỡ
cũng có nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân
có yếu tố nước ngoài có những điểm chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
Chẳng hạn quy định về việc công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định
của tòa án về việc ly hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài tại Bộ
Phạm Thị Thu Hoài
14
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
luật Dân sự Việt Nam còn khó khăn trong áp dụng. Hệ thống pháp luật còn
thiếu những thỏa thuận hợp tác, hiệp định tương trợ tư pháp với các nước để
tạo cơ chế hữu hiệu cho việc bảo hộ công dân Việt Nam kết hôn với người
nước ngoài và sinh sống tại nước ngoài. Việc ký kết này sẽ giải quyết những
vấn đề xung đột pháp luật và bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân sinh
sống ở nước khác. Tuy nhiên, những vấn đề này được thực hiện tại nước ta
còn chậm. Hiện vẫn chưa có văn bản hợp nhất cấp Nhà nước để có giải pháp
chung giải quyết những vấn đề xung đột pháp luật nên đã nảy sinh tình trạng
lách luật trong đăng ký kết hôn, quyền lợi của công dân Việt Nam ở nước
ngoài chưa được bảo hộ đúng mức.
1.2.2. Về phía Đài Loan
Đài Loan có Ủy ban đại lục và Bộ nội vụ đảm nhận nhiệm vụ quản lý
các cô gái đến từ Đại lục, trong khi đó lại thiếu sự quản chế đối với các công
ty môi giới hôn nhân cho các cô gái đến từ các quốc gia Đông Nam Á. Những
cô dâu Việt Nam khi đến Đài Loan chỉ cần liên tục cư trú hợp pháp tại Đài
Loan 5 năm kèm theo các giấy tờ được xác nhận tại phòng văn hoá kinh tế
Đài Bắc tại nước sở tại và xác nhận lại của Bộ ngoại giao thì có thể bắt đầu
xin phép nhập quốc tịch Đài Loan. Nhưng đối với các cô dâu Đại lục thì vấn
đề lại không đơn giản như vậy. Do trong những năm gần đây, sự gia tăng số
lượng kết hôn giữa những cư dân Đại lục và người Đài Loan đã tạo nên một
làn sóng di cư ồ ạt và gây nên nhiều vấn đề xã hội (việc làm, phúc lợi xã
hội…). Điều này đã khiến giới lãnh đạo Đài Loan lo ngại, chính vì vậy họ đã
đặt ra nhiều chính sách nhằm hạn chế số lượng người Đại lục đến Đài Loan.
Ngày 2/03/2004, Chính phủ Đảng dân tiến công bố những quy định về việc
định cư, cư trú lâu dài của các công dân Đại lục lập gia đình tại Đài Loan.
Những công dân ngoại quốc chỉ cần khoảng thời gian khoảng 4 năm để có
được các giấy tờ tùy thân như chứng minh thư tại Đài Loan, nhưng những
Phạm Thị Thu Hoài
15
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
công dân Đại lục phải chờ đợi trong khoảng thời gian là 11 năm. Như vậy, họ
sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn trong quá trình tìm việc làm và hưởng các đảm
bảo xã hội cần thiết. Họ phải chờ đợi một thời gian dài để có được quyền bảo
hộ lao động, nhưng sau đó họ lại bị khấu trừ 18% thuế thu nhập trong số
lương hàng tháng của mình [47]. Chính quyền còn ban hành những quy định
tương đối nghiêm ngặt khiến các đơn vị kinh doanh khi nhận những người lao
động đến từ Đại lục sẽ gặp nhiều khó khăn, phức tạp trong việc làm thủ tục.
Do vậy, những đơn vị này rất e ngại khi tuyển dụng những người lao động
này. Chính những khó khăn rất lớn từ phía chính quyền Đài Loan đã gây nên
nhiều áp lực, phiền phức trong cuộc sống gia đình có người hôn phối là người
Đại lục. Đây cũng là một trong những lý do khiến tỷ lệ hôn nhân giữa hai bờ
đang dần có xu hướng giảm trong những năm gần đây.
Tiêu chuẩn chấp nhận hôn nhân có yếu tố nước ngoài của Đài Loan dễ
dàng, thông thoáng hơn so với nhiều nước khác trên thế giới. Các cơ quan
đảm nhiệm việc làm thủ tục kết hôn của Đài Loan không đòi hỏi người hôn
phối nước ngoài phải đạt được một trình độ nhất định về ngôn ngữ, văn hóa
bản địa, thời gian tiến hành các thủ tục đăng ký kết hôn cũng tương đối chóng
vánh. Chính đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho hôn nhân
giữa người Đài Loan và người nước ngoài có nhiều thuận lợi về vấn đề thủ
tục và đàn ông Đài Loan tìm đến những phụ nữ nước ngoài để xây dựng cuộc
sống gia đình.
Về mặt xã hội
1.3.1. Về phía Việt Nam
Phần lớn các cô gái lấy chồng Đài Loan sống ở các vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đây là địa bàn có
tỷ lệ nghèo đói khá cao, đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn.
Cùng với việc cơ giới hóa, hiện đại hóa, nguồn lao động dư thừa ở nông thôn
Phạm Thị Thu Hoài
16
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
đang tăng lên đáng kể, làm cho khu vực này có sự chênh lệch lớn về mức
sống giữa nông thôn và thành thị. Bối cảnh này dẫn đến xu hướng dịch
chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị để kiếm việc làm, đảm bảo thu
nhập cho bản thân và gia đình. Đồng thời với hiện tượng di cư từ nông thôn ra
thành thị là sự dịch chuyển quan hệ xã hội mang tính đặc thù. Đó là xu hướng
kết hôn với người nước ngoài, nổi bật là việc phụ nữ đi làm dâu Đài Loan.
Việc kết hôn với người Đài Loan và người có quốc tịch khác là một trong
những biện pháp nhằm thoát khỏi tình trạng đói nghèo và nâng cao mức sống
của một bộ phận dân cư. Ở những vùng này, đời sống của người dân còn gặp
nhiều khó khăn. GDP/người của vùng (2007) xấp xỉ 9,47 triệu đồng [49], thấp
hơn mức trung bình của vùng trọng điểm phía Nam. Với người dân làm nông
nghiệp thì mức này còn thấp hơn nữa. Thu nhập của một hộ nông dân trung
bình là 2,6 triệu một năm, thấp hơn ngưỡng nghèo. Những vùng có nhiều cô
gái đi lấy chồng Đài Loan như Tây Ninh, Vĩnh Long, Sóc Trăng hầu hết là
những vùng thuần nông chuyên canh lúa, nhưng diện tích đất trồng lúa của
các gia đình này rất ít không đủ để canh tác. Ngoài vốn thu nhập ít ỏi này ra
họ phải tìm đủ mọi cách để trang trải cho cuộc sống. Nhiều gia đình cho con
em ra thành phố, thị xã để làm thuê như bán cà phê, bán xổ số, đánh giầy…
Những gia đình các cô gái này không chỉ khó khăn mà còn đông anh chị em.
Theo kết quả điều tra trong cuốn Hiện tượng phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài
Loan của Phan An, Phan Quang Thịnh, Nguyễn Quới thì gia đình có 3 con
chiếm 12,8%, có 4 con chiếm 20,7%, có 5 con chiếm 22,7% và những gia
đình có trên 5 con chiếm 35% [4, tr. 41]. Do đó, họ coi hôn nhân như là một
cứu cánh nhằm đổi đời, thoát khỏi cuộc sống nghèo khổ. “Đi lao động Đài
Loan thì phải tốn tiền môi giới, mà hợp đồng lao động lại có hạn, chỉ phù hợp
với những phụ nữ đã có gia đình. Nếu các cô lấy chồng, tờ hôn thú sẽ đảm
bảo cho các cô ở lại Đài Loan làm việc tới già. Thu nhập của các cô là niềm
Phạm Thị Thu Hoài
17
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: Thực trạng và giải pháp
mong đợi của cả gia đình ở quê nhà. Đó là những cuộc hôn nhân “2 trong 1”,
vừa có chồng, vừa có việc làm. Số tiền các cô vay mượn bỏ ra mua chồng,
sang đến Đài Loan, đi làm vài tháng là dư trả” [32, tr. 2]. Nhiều cô gái trẻ vẫn
nghĩ rằng cuộc sống ở Đài Loan là thiên đường, “đến nơi chỉ để kiếm tiền gửi
về giúp cha mẹ thôi” [26, tr. 8]. Vì vậy, hôn nhân với người nước ngoài lại trở
thành một “cứu cánh” giúp họ giải quyết được rất nhiều vấn đề.
Ta có thể lấy một ví dụ điển hình như tỉnh Tây Ninh, tính từ năm 1995
đến 2004, toàn tỉnh Tây Ninh đã có 10.100 trường hợp kết hôn với người
nước ngoài, trong đó lấy chồng Đài Loan chiếm hơn 80% [46]. Ban đầu tình
trạng này chỉ diễn ra ở các thị trấn, sau đã lan ra các xã vùng sâu của tỉnh Tây
Ninh như Long Giang, Long Phước, huyện Bến Cầu… Tại xã An Thạnh,
huyện Bến Cầu năm 2004 có tới 200 phụ nữ lấy chồng Đài Loan. “Cơn sốt”
lấy chồng Đài Loan ở Tây Ninh thực tế thường tập trung ở những địa bàn mà
một bộ phận người dân chưa thoát khỏi cảnh nghèo đói, lam lũ, gia đình đông
con… Những gia đình có con cái kết hôn với người Đài Loan đa phần là
những người có trình độ học vấn thấp, không có trình độ chuyên môn, chủ
yếu làm nghề nông, thiếu đất, phải đi làm thuê. Một số gia đình làm dịch vụ,
buôn bán nhỏ nhưng cuộc sống vẫn bấp bênh. Vì thu nhập thấp, hoặc gia đình
gặp sự cố nào đó nên lâm vào hoàn cảnh khó khăn mà họ kỳ vọng vào việc
lấy chồng Đài Loan của con gái để hy vọng có thể thay đổi được tình hình.
Họ chỉ suy nghĩ nông cạn rằng gia đình họ sẽ được đổi đời bằng cách cho con
lấy chồng ngoại. Những trường hợp này, cô gái tự nguyện “hy sinh” vì gia
đình. Tuy nhiên, có trường hợp cha mẹ thúc ép con cái lấy chồng ngoại để có
cuộc sống giàu sang hơn. Có trường hợp những cô gái này đua đòi theo bạn
bè, hoặc thiếu hiểu biết nghe lời xúi giục của bọn cò mồi…
Cùng với sự nghèo đói về vật chất là sự nghèo nàn và thiếu thốn trong
đời sống tinh thần, những thông tin đại chúng về những diễn biến hàng ngày.
Phạm Thị Thu Hoài
18
Cao học 2007 - 2010, Châu Á học
- Xem thêm -