Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ So sánh đặc điểm phong cách ngôn ngữ của nguyễn công hoan và nam cao...

Tài liệu So sánh đặc điểm phong cách ngôn ngữ của nguyễn công hoan và nam cao

.PDF
166
2498
56

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ........................................... NGUYỄN THỊ HUỆ SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM PHONG CÁCH NGÔN NGỮ CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN VÀ NAM CAO (QUA 2 TUYỂN TẬP TRUYỆN NGẮN) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội, 5/ 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ........................................... NGUYỄN THỊ HUỆ SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM PHONG CÁCH NGÔN NGỮ CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN VÀ NAM CAO (QUA 2 TUYỂN TẬP TRUYỆN NGẮN) Chuyên ngành: Ngôn ngữ Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hữu Đạt Hà Nội, 5/2013 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4 NỘI DUNG..................................................................................................... 11 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN .................................................................. 11 1.1. Vài nét tóm tắt về nhà văn Nguyễn Công Hoan và Nam Cao ........ 11 1.1.1. Hoàn cảnh xuất thân của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao .......... 11 1.1.2. Các tác phẩm trƣớc cách mạng ...................................................... 12 1.1.2.1. Các tác phẩm trƣớc cách mạng của Nguyễn Công Hoan............ 12 1.1.2.2. Các tác phẩm trƣớc cách mạng của Nam Cao ............................ 13 1.2. Khái niệm về phong cách và phong cách nghệ thuật...................... 14 1.2.1. Khái niệm về phong cách và phong cách học ................................ 14 1.2.2. Phong cách chức năng ngôn ngữ và phong cách nghệ thuật ............. 15 1.2.2.1. Cơ sở phân chia phong cách chức năng ..................................... 15 1.2.2.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật ............................................... 17 1.3. Khái niệm ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật ..................... 22 1.3.1. Khái niệm về ngƣời trần thuật và ngôi trần thuật ........................... 22 1.3.2. Điểm nhìn trần thuật ....................................................................... 25 1.4. Ngôn ngữ trần thuật và giọng điệu trần thuật ................................. 30 1.4.1. Ngôn ngữ trần thuật........................................................................ 30 1.4.2. Giọng điệu trần thuật ...................................................................... 35 1.5. Các kiểu câu giàu sắc thái .................................................................. 37 1.5.1. Câu đặc biệt .................................................................................... 37 1.5.2. Câu tỉnh lƣợc .................................................................................. 40 1.5.3. Câu dƣới bậc................................................................................... 42 Chƣơng 2: So Sánh đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trần thuật của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao ............................................................................... 49 2.1. Ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật ....................................... 49 2.1.1. Ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan ................................................................................................ 49 1 2.1.1.1. Ngƣời trần thuật ngôi thứ 3 với điểm nhìn bên ngoài ............. 49 2.1.1.2. Ngƣời trần thuật ngôi thứ 3 với điểm nhìn bên trong .............. 51 2.1.1.3. Ngƣời trần thuật ngôi thứ nhất................................................. 52 2.1.2. Ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao...... 53 2.1.2.1. Ngƣời trần thuật ngôi thứ 3 với điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên trong và phức hợp nhiều điểm nhìn ................................................... 53 2.1.2.2. Truyện ngắn Nam Cao với chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất ... 61 2.1.3. So sánh đặc điểm ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Nam cao.......................................... 63 2.2. Ngôn ngữ trần thuật ........................................................................... 66 2.2.1. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan ......... 66 2.2.2. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao .......................... 73 2.2.3. So sánh đặc điểm ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Nam cao ........................................................................... 77 Chƣơng 3: So Sánh đặc điểm sử dụng giọng điệu trần thuật và cách sử dụng một số kiểu câu giàu sắc thái của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao...... 80 3.1. Giọng điệu trần thuật ......................................................................... 80 3.1.1. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan ....... 80 3.1.1.1. Giọng khách quan, lạnh lùng ................................................... 80 3.1.1.2. Giọng châm biếm, đả kích sâu cay .......................................... 83 3.1.1.3. Giọng bông lơn, suồng sã pha chút hóm hỉnh ......................... 86 3.1.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao ........................ 89 3.1.2.1. Truyện ngắn Nam Cao với giọng văn tự sự triết lý, suy ngẫm, phẩm bình ................................................................................................. 89 3.1.2.2. Truyện ngắn Nam Cao với giọng văn tự sự lạnh lùng, dửng dƣng ... 91 3.1.2.3. Truyện ngắn Nam Cao với giọng văn giễu nhại, châm biếm, hài hƣớc..... 93 3.1.3. So sánh giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Nam Cao .................................................................................... 97 3.2. Đặc điểm sử dụng một số kiểu câu (câu đặc biệt, câu tỉnh lƣợc, câu tách biệt) ... 100 2 3.2.1. Đặc điểm sử dụng một số kiểu câu của Nguyễn Công Hoan ....... 100 3.2.1.1. Đặc điểm sử dụng câu đặc biệt .............................................. 100 3.2.1.2. Đặc điểm sử dụng câu tỉnh lƣợc ............................................ 102 3.2.1.3. Đặc điểm sử dụng câu tách biệt (câu dƣới bậc) ..................... 105 3.2.2. Đặc điểm sử dụng một số kiểu câu của Nam Cao ...................... 107 3.2.2.1. Đặc điểm sử dụng câu đặc biệt .............................................. 107 3.2.2.2. Đặc điểm sử dụng kiểu câu tỉnh lƣợc .................................... 108 3.2.2.3. Đặc điểm sử dụng kiểu câu tách biệt (câu dƣới bậc) ............. 111 3.2.3. Nhận xét đặc điểm sử dụng một số kiểu câu của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao .................................................................................. 112 KẾT LUẬN .................................................................................................. 114 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 117 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 124 3 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trong dòng văn học Hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, Nam Cao và Nguyễn Công Hoan là hai gƣơng mặt tiêu biểu, hai đại diện ƣu tú. Giữa lúc làng thơ văn Việt Nam đang đua nhau chạy theo thị hiếu tầm thƣờng của độc giả, đắm chìm trong những câu chuyện tình lãng mạn thì Nguyễn Công Hoan và Nam Cao cũng nhƣ một số cây bút khác đã chọn cho mình một hƣớng đi riêng, đem đến cho văn chƣơng đƣơng thời một tiếng nói mới mẻ, mạnh mẽ về hiện thực đời thƣờng nhƣ nó vốn có mà không hề tô vẽ. Có thể nói, Nguyễn Công Hoan là một trong những gƣơng mặt mở đầu và cũng là nhà văn ƣu tú của trào lƣu văn học Hiện thực phê phán. Nói đến Nguyễn Công Hoan là nói đến một cây bút có sức sáng tạo dồi dào, dẻo dai, một tài năng xuất chúng. Hơn nửa thế kỉ cầm bút, ông đã để lại một khối lƣợng tác phẩm đồ sộ, đa dạng về thể loại, độc đáo về nội dung tƣ tƣởng trong đó truyện ngắn đƣợc coi là lĩnh vực nổi bật nhất, đặc biệt là truyện ngắn trào phúng. Có thể so sánh Nguyễn Công Hoan với những nhà văn viết truyện ngắn trào phúng bậc thầy nhƣ Guy-dơ Môpatxăng và A.Sêkhôp. Những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có sức hấp dẫn đặc biệt với nhiều thế hệ và nó vẫn là những “vỉa vàng” đang đƣợc tiếp tục khai phá. Trong trào lƣu văn học Hiện thực phê phán, Nam Cao là ngƣời đến khá muộn khi mà Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng... đã tạo dựng đƣợc vị trí, chỗ đứng vững chắc với những tác phẩm xuất sắc. Tuy nhiên, Nam Cao không bị mờ nhạt bởi những bóng dáng lớn mà ông vẫn khẳng định đƣợc vị trí của mình, góp phần đƣa trào lƣu văn học Hiện thực phê phán phát triển tới đỉnh cao. Với 15 năm cầm bút, Nam Cao đã để lại một số lƣợng tác phẩm lớn mà đặc sắc là truyện ngắn. Truyện ngắn của Nam Cao 4 giàu có về tƣ tƣởng, sâu sắc về nghệ thuật và đƣợc độc giả bao đời yêu mến. Đƣơng thời, ngƣời ta không chú ý nhiều đến tác phẩm của ông nhƣng từ sau khi Nam Cao hi sinh, những giá trị tác phẩm của ông mới đƣợc quan tâm, nghiên cứu một cách sâu sắc. 1.2. Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao đã đƣợc đƣa vào chƣơng trình giảng dạy trong nhà trƣờng từ bậc phổ thông đến đại học. Khảo sát ở bậc học phổ thông, cụ thể là THCS và THPT, chúng tôi thấy có các tác phẩm nhƣ sau: truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan gồm Tinh thần thể dục – Ngữ văn 11; truyện ngắn của Nam Cao gồm Lão Hạc – Ngữ văn 8; Chí Phèo – Ngữ văn 11. Khi giảng dạy văn bản văn học cho học sinh, việc làm rõ đặc điểm về phong cách ngôn ngữ tác giả là một yêu cầu rất cần đƣợc chú ý vì nó liên quan đến việc phân tích giá trị nghệ thuật của tác phẩm và sự đóng góp của nhà văn đối với việc hiện đại hóa văn học. 1.3. Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan và Nam Cao ở các phƣơng diện khác nhau song vẫn chƣa có công trình nghiên cứu toàn diện, hệ thống về cả hai nhà văn trong cái nhìn tƣơng quan so sánh về đặc điểm phong cách ngôn ngữ. Đây cũng là ý nghĩa mới mẻ mà đề tài của chúng tôi mong muốn thực hiện. Là một giáo viên THPT giảng dạy bộ môn Ngữ văn, chúng tôi muốn thực hiện đề tài “So sánh đặc điểm phong cách ngôn ngữ của nhà văn Nguyễn Công Hoan và Nam Cao” nhằm phục vụ trực tiếp cho công tác giảng dạy tác giả và tác phẩm văn học trong nhà trƣờng. 2. Lịch sử vấn đề Có thể nói, Nguyễn Công Hoan và Nam Cao là những nhà văn của thế kỉ XX đƣợc nhiều ngƣời nghiên cứu nhất. 5 2.1. Vấn đề nghiên cứu Nguyễn Công Hoan Ngay sau khi những truyện ngắn đầu tiên ra đời, Nguyễn Công Hoan đã đƣợc giới nghiên cứu phê bình chú ý. Có rất nhiều bài nhận xét, đánh giá về văn chƣơng của Nguyễn Công Hoan. Có thể kể đến những tác giả sau: Các công trình nghiên cứu đầu tiên về Nguyễn Công Hoan phải kể đến Trúc Hà với bài Một ngòi bút mới: ông Nguyễn Công Hoan đăng trên báo Nam Phong năm 1932. Trúc Hà đã tỏ ra khá tinh tế khi nhận ra giọng văn mới mẻ pha chất hài hƣớc của Nguyễn Công Hoan. Ngay sau đó, Hải Triều đã sắc sảo phát hiện ra ý nghĩa và tác dụng xã hội của tiếng cƣời trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cũng cho rằng Nguyễn Công Hoan sở trƣờng về truyện ngắn hơn truyện dài. Còn Nguyễn Đăng Mạnh đã ra nhận định chính xác và sâu sắc về tiếng cƣời Nguyễn Công Hoan trong truyện ngắn trào phúng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung trong lời giới thiệu truyện ngắn Việt Nam 1930 - 1945, tập 1, NXB Giáo dục, H., 1990 khẳng định: Nguyễn Công Hoan là một bậc thầy trong truyện ngắn trƣớc hết là truyện ngắn trào phúng. Nói về phong cách ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, có thể kể đến Lê Trí Dũng – Trần Đình Hựu trong Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930; Lê Minh – con gái của nhà văn – với bài “Sức trẻ một cây bút”. Nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan nhiều nhất phải kể đến Lê Thị Đức Hạnh. Bà có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết sâu sắc về Nguyễn Công Hoan với những khám phá ở khía cạnh nghệ thuật cũng nhƣ phong cách ngôn ngữ truyện ngắn. 6 2.2. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao Nam Cao là một tài năng lớn của văn học Việt Nam hiện đại, vì thế, số lƣợng tài liệu nghiên cứu về Nam Cao là rất lớn (theo thống kê của các nhà nghiên cứu thì có khoảng hơn 200 tài liệu khác nhau). Trƣớc cách mạng tháng 8 – 1945, Nam Cao chƣa đƣợc chú ý trong giới nghiên cứu phê bình. Nhƣng sau cách mạng, Nam Cao trở thành một hiện tƣợng của giới phê bình văn học. Ngƣời đầu tiên chú ý đến sự sắc sảo trong văn phong của Nam Cao là Nguyễn Đình Thi trong bài Nam Cao viết vào những năm 50. Bƣớc sang những năm 60, nhiều công trình có giá trị về Nam Cao ra đời. Có thể kể đến Đọc truyện ngắn Nam Cao, soi lại bước đường đi lên của một nhà văn hiện thực; Con người và cuộc sống trong tác phẩm của Nam Cao của Huệ Chi – Phong Lê; Phan Cự Đệ trong Văn học Việt Nam 1936 – 1945 Sau đó là Hà Minh Đức trong Nam Cao, nhà văn hiện thực xuất sắc. Bƣớc sang những năm 70, nhiều công trình về Nam Cao ra đời nhƣ giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945 của Nguyễn Hoành Khung, trong đó có một chƣơng viết về Nam Cao; Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của Phan Cự Đệ. Những cuốn nổi bật có thể kể Nam Cao đời văn và tác phẩm (Hà Minh Đức, 1977); Nam Cao, phác thảo sự nghiệp và chân dung (Phong Lê, 1997); Nam Cao, người kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực (Phong Lê, 2001)... Những năm gần đây, có khá nhiều công trình nghiên cứu, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về Nam Cao. Bên cạnh đó hàng loạt các hội thảo về Nam Cao đƣợc tổ chức. Có thể kể những cuộc hội thảo khoa học tiêu biểu nhân 40 năm ngày mất của Nam Cao 1951 – 1991 (tháng 11/ 1991) và nhân 7 80 năm ngày sinh của Nam Cao 1917 – 1997 (tháng 10/ 1997)…Những buổi hội thảo khoa học tôn vinh nhà văn Nam Cao càng chứng tỏ vị trí và vai trò của ông trong làng văn học Việt Nam hiện đại và trong lòng tất cả những ngƣời yêu mến tác phẩm của ông. 2.3. Cho đến ngày nay, số lƣợng các công trình, các bài nghiên cứu về tác phẩm của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao quả là không nhỏ. Tuy nhiên, các công trình, bài nghiên cứu thƣờng tập trung vào vấn đề phê bình tác phẩm văn học. Chƣa có nhiều bài viết về đặc điểm phong cách của hai tác giả và đặc biệt là chƣa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ đặc điểm phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao trong tƣơng quan đối chiếu. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm tìm hiểu một cách đầy đủ về những điểm tƣơng đồng và khác biệt trong đặc điểm phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao. 3. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài này, ngƣời viết nhằm: - Làm rõ những đặc điểm nổi bật về phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao trên các phƣơng diện: ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật, cách sử dụng một số kiểu câu giàu phong cách. Đây là các phƣơng diện có liên quan trực tiếp đến phong cách ngôn ngữ của nhà văn. - So sánh để rút ra những đặc điểm giống và khác nhau về phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao cũng nhƣ làm rõ những đóng góp của hai nhà văn đối với sự hiện đại hóa nền văn học. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ mục đích nghiên cứu nhƣ trên, ngƣời viết xác định nhiệm vụ cho luận văn nhƣ sau: 8 - Trình bày một số luận điểm cơ bản về phong cách nghệ thuật, ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật, cách sử dụng một số kiểu câu (câu đặc biệt, câu tỉnh lƣợc, câu tách biệt). - Phân tích đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trần thuật (ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ trần thuật), giọng điệu trần thuật và cách sử dụng một số kiểu câu (câu đặc biệt, câu tỉnh lƣợc và câu tách biệt) trong một số truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao. - Rút ra những kết luận về đặc điểm phong cách ngôn ngữ tác giả của hai nhà văn này. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao trƣớc cách mạng tháng 8 – 1945. Trong đó, chúng tôi tập trung làm rõ những đặc điểm thể hiện phong cách ngôn ngữ của hai tác giả. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn gồm các truyện ngắn in trong Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (NXB thời đại, 2010), tuyển tập truyện ngắn Nam Cao ( Nxb Văn học, năm 2000) 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, ngƣời viết sử dụng các phƣơng pháp sau: - Phƣơng pháp miêu tả - Phƣơng pháp phân tích phong cách học - Phƣơng pháp so sánh - Phƣơng pháp cải biến 9 7. Ý nghĩa khoa học của đề tài 7.1. Ý nghĩa lý luận: Đề tài này thực hiện thành công sẽ góp phần tích cực vào lí luận nghiên cứu phong cách nhà văn Hiện thực phê phán nói chung và phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao nói riêng dƣới cách nhìn của ngôn ngữ học. 7.2. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ trực tiếp góp phần nâng cao chất lƣợng giảng dạy về hai tác giả Nguyễn Công Hoan và Nam Cao đồng thời góp phẩn đổi mới phƣơng pháp giảng dạy môn văn học trong nhà trƣờng phổ thông. 8. Bố cục của luận văn Luận văn gồm ba phần: + Phần mở đầu. + Phần nội dung. + Phần kết luận. Trong đó phần nội dung chia thành 03 chƣơng. + Chƣơng 1: Cơ sở lí luận . + Chƣơng 2: So sánh đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trần thuật của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao. + Chƣơng 3: So sánh đặc điểm sử dụng giọng điệu trần thuật và một số kiểu câu của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao. 10 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Vài nét tóm tắt về nhà văn Nguyễn Công Hoan và Nam Cao 1.1.1. Hoàn cảnh xuất thân của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 tại làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc tỉnh Hƣng Yên) trong một gia đình quan lại sa sút và bất mãn với chế độ thực dân. Gia đình Nguyễn Công Hoan có nhiều đời học hành, đỗ đạt và làm quan. Nhƣng đến thời cụ thân sinh của ông, mặc dù thi đỗ nhƣng chỉ đƣợc làm chức quan nhỏ do không biết tiếng Pháp, không có những mánh khóe giao thiệp kiểu mới. Đó là bi kịch của những quan “nhà nho” lỗi thời với nhiều bi kịch và tâm sự khó nói. Sinh ra và lớn lên ở nhà quan nên ngay từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã nghe và thấy đủ mọi chuyện của chốn quan trƣờng. Đó là những chuyện ăn hối lộ của quan lại, thủ đoạn nịnh nọt, bỉ ổi để tiến thân... Tất cả những điều đó sau này Nguyễn Công Hoan đã phản ánh sinh động trong các truyện ngắn của mình. Tốt nghiệp trƣờng Sƣ phạm, Nguyễn Công Hoan đi dạy học và viết văn. Ông bị chuyển hết nơi này đến nơi khác nhƣ Hải Dƣơng, Lào Cai, Nam Định... Chính vì đi nhiều nên Nguyễn Công Hoan có điều kiện thực tế nghe đƣợc nhiều chuyện đời, chuyện ngƣời. Điều này cũng rất hữu ích đối với nghề viết văn của ông. Khác với Nguyễn Công Hoan, Nam Cao (tên thật là Trần Hữu Tri), sinh ngày 29 – 10 – 1915 trong một gia đình trung nông đông anh em tại làng Đại Hoàng thuộc tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Bút danh Nam Cao là do ghép hai chữ đầu tên huyện và tổng mà thành. Làng Đại Hoàng của Nam Cao 11 vốn là nơi có nhiều vấn đề mâu thuẫn, tranh chức tranh quyền của bọn cƣờng hào địa chủ ác bá, nhiều ngƣời dân không thể sống đƣợc đã phải bỏ đi tha phƣơng cầu thực. Điều này đã đƣợc Nam Cao phản ánh chân thực trong một số tác phẩm đặc biệt là trong Chí Phèo. Nhƣ vậy, Nguyễn Công Hoan và Nam Cao sinh trƣởng trong hai gia đình có hoàn cảnh khác nhau. Nếu Nguyễn Công Hoan xuất thân trong gia đình có truyền thống quan lại, từ nhỏ đã hiểu chuyện quan trƣờng thì Nam Cao lại xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo với cuộc sống thuần túy ở nông thôn. Tuy nhiên, cả hai nhà văn lớn đều sinh ra trong hoàn cảnh xã hội giao thời Tây – Tàu nhố nhăng, nhiều vấn đề phức tạp. Với cái nhìn sâu sắc và cảm quan nhạy bén, cả hai đã dùng văn chƣơng để phanh phui hiện thực xã hội đƣơng thời. 1.1.2. Các tác phẩm trƣớc cách mạng 1.1.2.1. Các tác phẩm trƣớc cách mạng của Nguyễn Công Hoan Có thể nói, Nguyễn Công Hoan là một trong những ngƣời đi tiên phong đặt nền móng cho văn học Hiện thực phê phán. Nguyễn Công Hoan bắt đầu viết truyện ngắn từ rất sớm khi mà văn xuôi quốc ngữ còn chập chững ở cái buổi bình minh. Ông bắt đầu viết vào năm 1923 với tập truyện Kiếp hồng nhan có tính chất thử bút. Đến năm 1929, Nguyễn Công Hoan thực sự viết, ông có nhiều truyện ngắn đăng trên An Nam tạp chí do Tản Đà chủ biên. Cho đến năm 1935, ông đã cho ra mắt bạn đọc khoảng 80 truyện ngắn và đặc biệt, tập truyện Kép Tư Bền xuất bản đã gây đƣợc tiếng vang lớn, đƣa tên tuổi Nguyễn Công Hoan vang khắp Bắc, Trung, Nam. Nguyễn Công Hoan đã nhìn thẳng vào hiện thực và bằng tiếng cƣời trào phúng phơi ra mặt trái của xã hội với đầy bất công thối nát. Với Kép Tư Bền, Nguyễn Công Hoan vừa là một trong những ngƣời mở màn vừa là ngƣời cầm ngọn cờ chiến thắng cho khuynh hƣớng văn học hiện thực phê phán Việt Nam thời kỳ 1930 – 1945. 12 Nguyễn Công Hoan xứng đáng là một nhà văn lớn, nhà văn tiêu biểu của nền văn học Hiện thực phê phán Việt Nam. Cho đến nay, gần một thế kỉ trôi qua nhƣng những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan vẫn giữ đƣợc vị trí quan trọng trong nền văn học dân tộc, đƣợc bạn đọc bao thế hệ yêu thích. Không những thế, tác phẩm của ông còn đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng nƣớc ngoài nhƣ Liên Xô, Bungari, Hunggari, Anbani, Cộng hòa dân chủ Đức, Cuba, Ba Lan, Ấn Độ... 1.1.2.2. Các tác phẩm trƣớc cách mạng của Nam Cao Từ năm 1936, Nam Cao bắt đầu sáng tác. Ông viết văn, làm thơ, viết kịch với các bút danh Thúy Rƣ, Xuân Du, Nhiêu Khê. Năm 1938, Nam Cao bị ốm nặng, ông ra Bắc tự học và thi đỗ Thành chung. Sau đó ông dạy học tƣ và viết nhiều truyện ngắn đặc sắc nhƣ: Đôi lứa xứng đôi (Chí Phèo), Dì Hảo, Nửa đêm, Cái mặt không chơi được, Trẻ con không được ăn thịt chó, Trăng sáng... Cách mạng tháng 8, Nam Cao tham gia cƣớp chính quyền rồi tham gia đoàn quân Nam tiến với tƣ cách là phóng viên. Sau đó, Nam Cao trở ra Bắc tiếp tục hoạt động cách mạng và sáng tác nhiều tác phẩm ở các thể loại khác nhau. Ngày 30 – 11- 1951, trên đƣờng vào công tác vùng địch hậu Liên khu Ba, Nam Cao đã anh dũng hi sinh ở Ninh Bình do bị địch phục kích. Nam Cao bƣớc chân vào con đƣờng văn chƣơng khi trên văn đàn đặc biệt là trong dòng văn học Hiện thực phê phán đã xuất hiện nhiều cây đại thụ nhƣ Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng... Thế nhƣng trên mảnh đất đã đƣợc cày xới kỹ càng đó, Nam Cao không bị chìm lấp trong những lối mòn mà ông vẫn tìm đƣợc cho mình một hƣớng đi riêng không lẫn với bất cứ ai. Những tác phẩm của Nam Cao đã phản ánh chân thật cuộc sống ngột ngạt, đen tối của xã hội Việt Nam những năm trƣớc cách mạng và dựng lên cuộc sống đau khổ, bế tắc của những ngƣời nông dân, trí 13 thức nghèo. Trong truyện ngắn Nam Cao, nổi lên hai đề tài chính là đề tài ngƣời nông dân và ngƣời trí thức nghèo. Nam Cao hƣớng ngòi bút của mình vào miêu tả cuộc sống khốn khổ, bi kịch không chỉ đói nghèo mà còn bị tha hóa về lƣơng tâm của ngƣời nông dân đồng thời dựng lên những bi kịch về đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời trí thức tiểu tƣ sản. Nhƣ vậy, nếu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan tập trung xây dựng những bức chân dung biếm họa về tầng lớp quan lại, địa chủ, cƣờng hào xấu xa, độc ác... thì Nam Cao lại hƣớng ngòi bút của mình để tìm hiểu bi kịch bị tha hóa cả thể xác và tâm hồn của ngƣời nông dân cũng nhƣ ngƣời trí thức nghèo. Nam Cao là một trong những nhà văn góp phần hiện đại hóa văn xuôi quốc ngữ trên tiến trình văn học. Và cũng giống nhƣ Shêkhôp (Nga), Nam Cao là đại diện cuối cùng, ngƣời khép lại dòng văn học Hiện thực phê phán Việt Nam và là ngƣời mở đƣờng mới cho sự phát triển của nó. Cũng nhƣ Nguyễn Công Hoan, các sáng tác của Nam Cao không chỉ có giá trị ở trong nƣớc mà còn vƣợt qua biên giới lãnh thổ để đến với bạn đọc quốc tế. 1.2. Khái niệm về phong cách và phong cách nghệ thuật 1.2.1. Khái niệm về phong cách và phong cách học Thuật ngữ phong cách bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, lúc đầu có tên là “stylos” – chỉ cái que có một đầu vót nhọn và một đầu tù dùng để viết, vẽ lên tấm bảng. Về sau, nó đƣợc dùng để chỉ cách sử dụng ngôn ngữ và ngày nay, thuật ngữ phong cách đƣợc sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu nhiều ngành khác nhau. Phong cách không hoàn toàn là thuật ngữ của phong cách học. Trong đời sống hàng ngày, phong cách là cách nói, cách sinh hoạt, làm việc, ứng xử... tạo nên cái riêng của mỗi ngƣời hay mỗi loại ngƣời nhƣ phong cách ăn mặc, phong cách nói, phong cách viết... Trong lí luận văn học, thuật ngữ 14 phong cách đƣợc dùng để chỉ đặc điểm sáng tác riêng biệt, nổi trội của mỗi nhà văn hay tác phẩm... Trong văn hóa, phong cách đƣợc dùng để chỉ những đặc điểm văn hóa mang tính dân tộc, thời đại nhƣ phong cách truyền thống, phong cách dân tộc... Nhƣ vậy, thuật ngữ phong cách học “thực chất là phong cách học ngôn ngữ. Đó là bộ môn khoa học nghiên cứu những đặc điểm và phong cách sử dụng ngôn ngữ trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.” [16, tr.33]. Trong những nét chung nhất, “phong cách học được hiểu là khoa học nghiên cứu sự vận dụng ngôn ngữ, nói khác đi đó là khoa học về các quy luật nói và viết có hiệu lực cao.” [16, tr.7]. Phong cách học quan tâm đến giá trị biểu đạt, biểu cảm – cảm xúc, cái giá trị phong cách của các phƣơng tiện ngôn ngữ trong những hoàn cảnh giao tiếp tiêu biểu với những điều kiện giao tiếp nhất định. 1.2.2. Phong cách chức năng ngôn ngữ và phong cách nghệ thuật 1.2.2.1. Cơ sở phân chia phong cách chức năng Phong cách ngôn ngữ đƣợc hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Phong cách ứng với mỗi chức năng xã hội của ngôn ngữ gọi là phong cách chức năng. Mỗi cá nhân khi nói, khi viết đều theo một phong cách chức năng nhất định. Có nhiều khuynh hƣớng bàn về cách phân chia phong cách chức năng song chủ yếu dựa vào các cơ sở chung nhƣ sau: a. Dựa trên chức năng giao tiếp Một số tác giả nƣớc ngoài và trong nƣớc đã dựa vào chức năng giao tiếp của ngôn ngữ để phân chia các phong cách chức năng: - Phong cách khẩu ngữ tự do: thông báo những nội dung thông thƣờng thuộc phạm vi sinh hoạt hàng ngày. 15 - Phong cách nghệ thuật: thông báo về sự vật, hiện tƣợng dƣới dạng hình tƣợng nghệ thuật. b. Dựa trên hình thức thể hiện Dựa trên hình thức thể hiện khác nhau để diễn đạt nội dung tƣ tƣởng, tình cảm (hình thức nói hoặc viết), các nhà nghiên cứu phân chia phong cách chức năng thành hai loại là phong cách khẩu ngữ và phong cách gọt giũa. c. Dựa vào phạm vi giao tiếp Dựa vào phạm vi giao tiếp khác nhau, một số tác giả chia tách thành phạm vi giao tiếp gia đình và phạm vi giao tiếp mang tính chất xã hội. Nhƣ vậy, có điểm chung trong các cách phân chia trên đó là phân chia theo bậc, từ bậc lớn lại tách thành các bậc nhỏ hơn. Có thể phân loại các phong cách chức năng trong tiếng Việt thành 2 loại lớn: phong cách ngôn ngữ nói và phong cách ngôn ngữ viết. Trong đó: - Phong cách ngôn ngữ nói bao gồm: phong cách khẩu ngữ tự nhiên, phong cách hội thảo, phong cách diễn xuất sân khấu, điện ảnh. - Phong cách ngôn ngữ viết bao gồm: Phong cách hành chính – công vụ, phong cách khoa học, phong cách chính luận, phong cách báo chí, phong cách văn học nghệ thuật. Nhắc tới khái niệm phong cách là nhắc tới những nét đặc trƣng, riêng biệt, tiêu biểu nhất. Phong cách ngôn ngữ là “một phong cách chức năng cụ thể trong đó cách sử dụng ngôn ngữ đã được định hình về mặt thời gian và mặt xã hội. Thực chất nó đã trải qua một quá trình tự điều chỉnh của bản thân hệ thống và có sự can thiệp ở một mức độ nhất định của những thiết chế xã hội.” [16, tr.41]. Có thể coi phong cách ngôn ngữ là sự lặp đi lặp lại một số kiểu lời nói để tạo thành các khuôn mẫu nhất định trong từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. 16 1.2.2.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật Trong các phong cách chức năng của ngôn ngữ thì đây là phong cách có nhiều tên gọi nhất: phong cách ngôn ngữ văn chƣơng, phong cách ngôn ngữ văn học, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách văn học nghệ thuật. Đối với một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ thì phong cách ngôn ngữ nghệ thuật không đƣợc xếp vào hệ thống các phong cách chức năng. Tuy nhiên, theo Hữu Đạt: “các tác phẩm văn học nghệ thuật là hình thức bảo lưu tương đối đầy đủ nhất diện mạo ngôn ngữ ở mỗi thời đại. Không ai có thể phủ nhận đó là hình thức tồn tại có thực của hoạt động giao tiếp. Vậy đương nhiên, nó phải tồn tại với tư cách là một kiểu phong cách riêng hoặc thuộc vào loại phong cách chức năng nhất định” [16, tr.276]. Nhƣ vậy, có thể khẳng định phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là một loại phong cách chức năng của ngôn ngữ và đƣợc định nghĩa nhƣ sau: “Phong cách nghệ thuật là một phong cách chức năng được dùng để sáng tạo hình tượng nghệ thuật và tác phẩm nghệ thuật nhằm phục vụ cho nhu cầu về đời sống tinh thần của con người” [16, tr.276]. So với các phong cách chức năng khác, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật có những đặc trƣng riêng biệt. Trƣớc hết, các đơn vị ngôn ngữ trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật có chức năng tác động hình tƣợng tức là có khả năng đem lại cho ngƣời đọc những tình cảm, những rung động về cảm xúc nhƣ vui – buồn , yêu thƣơng – căm ghét, hạnh phúc – đau khổ... Với các phong cách khác nhƣ phong cách báo chí hay phong cách chính luận, chức năng tác động đến tình cảm ngƣời đọc chỉ là hệ quả thứ hai của quá trình còn trong phong cách nghệ thuật, chức năng này giữ vai trò đầu tiên. Ví dụ: Trong Chinh Phụ ngâm khúc nguyên tác Đặng Trần Côn – bản dịch của Đoàn Thị Điểm – câu thơ: “Cảnh buồn ngƣời thiết tha lòng Cành cây sƣơng đƣợm tiếng trùng mƣa phun” 17 gợi cho ngƣời đọc nỗi buồn về tình cảnh cô đơn, lẻ loi của ngƣời chinh phụ có chồng đi chinh chiến đồng thời cũng gợi lên trong lòng độc giả sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa – nguyên nhân dẫn đến sự chia lìa của đôi vợ chồng trẻ. Hay khi đọc những câu thơ Nguyễn Du tả cảnh thiên nhiên mùa xuân tƣơi đẹp trong Truyện Kiều: “Cỏ non xanh rợn chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh Gần xa nô nức yến anh Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân” ngƣời đọc lại rung lên tình yêu đối với vẻ đẹp của đất trời, thấy trong lòng rộn ràng, náo nức nhƣ đƣợc sống trong không khí của ngày xuân. Chính nhờ khả năng tác động mạnh mẽ tới tình cảm của độc giả mà phong cách ngôn ngữ nghệ thuật có sắc thái riêng, độc đáo so với các phong cách chức năng khác. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật còn khác các phong cách chức năng khác ở chỗ nó có khả năng tác động đến ngƣời đọc qua hệ thống các đơn vị mang tính hình tƣợng. Những đơn vị ngôn ngữ khi sử dụng trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật không chỉ có chức năng thông tin thuần túy mà nó còn có khả năng gợi những liên tƣởng sâu xa trong lòng ngƣời đọc. Đó là điểm gặp gỡ giữa nhà văn và độc giả. Trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ tác động đến ngƣời đọc qua một hệ thống các đơn vị ngôn ngữ mang tính hình tƣợng. Theo Hữu Đạt “khi các đơn vị ngôn ngữ tham gia với tư cách là các tham tố tạo nên hình tượng nghệ thuật, tự nó đã làm mờ nhạt đi tính bản thể của tín hiệu ngôn ngữ để tạo 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan