A, PHẦN MỞ ĐẦU
Chính sách công đang ngày càng trở thành một công cụ quản lý của nhà
nước ngày càng quan trọng đối với mọi quốc gia trên thế giới. Thông qua một hệ
thống chính sách công, các nhà nước điều tiết những vấn đề nảy sinh trong đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước theo những mục tiêu mong muốn, tạo ra môi
trường thuận lợi cho sự phát triển bền vững.
Ở Việt Nam, Nhà nước ta đã ban hành và thực thi có hiệu quả nhiều chính
sách công. Thời gian qua, việc hoạch định chính sách công ở nước ta đã cho ra đời
nhiều chính sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện cụ thể
là đã góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta trong hơn 30 thực
hiện công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, phân tích vận động chính
sách công với tư cách là một khoa học, nhất là sự cần thiết và vai trò của nó chưa
được đề cập nhiều. Vì vậy, việc nghiên cứu vận động chính sách công dưới góc độ
lý luận là một yêu cầu quan trọng đặt ra đối với yêu cầu phát triển khoa học hành
chính ở nước ta hiện nay.
B, PHẦN NỘI DUNG
1.
Những vấn đề chung về vận động chính sách công
1.1 Chính sách
Thuật ngữ “chính sách” được sử dụng phổ biến trong các tài liệu và trên các
phương tiện truyền thông, tuy nhiên nó khó thể đưa ra định nghĩa một cách rõ ràng.
Theo Từ điển tiếng Anh Oxford (Oxford English Dictionary) định nghĩa như sau:
chính sách là một đường lối hành động được thông qua và theo đuổi bởi chính
quyền, đảng, nhà cai trị, chính sách… Theo sự giải thích này, chính sách không chỉ
đơn thuần là một quyết định, mà đó là một đường lối, một phương hướng hành
động. Cách hiểu này rất gần với quan điểm về chính sách của David Easton “một
chính sách… bao gồm một chuỗi các quyết định và các hành động mà phân phối…
các giá trị” [3 tr.7].
Hugh Heclo (năm 1972) định nghĩa về chính sách như sau: Một chính sách
có thể được xem như là một đường lối hành động hoặc không hành động thay vì
những quyết định của các hành động cụ thể.
Còn Smith (năm 1976) quan niệm rằng “khái niệm chính sách bao hàm… sự
lựa chọn có chủ định hành động hoặc không hành động, thay vì những lực lượng
có tác động quan hệ với nhau”. Ông còn nhấn mạnh “không hành động” cũng như
“hành động” và khẳng định “sự quan tâm sẽ không chỉ tập trung vào các quyết
định mà tạo ra sự thay đổi, mà còn phải thận trọng với những quyết định chống lại
sự thay đổi và khó quan sát bởi vì chúng không được tuyên bố trong quá trình
hoạch định chính sách” [4, tr.7].
Như vậy, khó có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng và cụ thể về chính sách.
Các chính sách đôi khi có thể được nhận thấy dưới hình thức các quyết định đơn
lẻ, nhưng thông thường nó bao gồm một tập hợp các quyết định hoặc như được
nhìn nhận như là một sự định hướng. Việc các tác giả nỗ lực đưa ra một định nghĩa
cũng cho thấy rằng khó có thể xác định những thời điểm cụ thể mà chính sách
được ban hành. Chính sách thường sẽ được tiến hóa trong giai đoạn thực hiện, chứ
không phải trong giai đoạn hoạch định của chu trình chính sách.
1.2 Chính sách công
Thuật ngữ “chính sách” khi đi với từ “công” thành “chính sách công” không
chỉ đơn giản là một từ, mà có sự thay đổi đáng kể về nghĩa bởi vì có sự khác biệt
về chủ thể ban hành chính sách, mục đích chính sách, vấn đề chính sách hướng tới
giải quyết. Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chính sách công.
Thomas Dye (năm 1972) đưa ra định nghĩa về chính sách công như sau
“chính sách công là bất kỳ những gì nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm” [5,
tr.4]. Đây là một định nghĩa khá đơn giản về chính sách công. Nó chưa đưa ra được
một sự phân định những hoạt động nào là của nhà nước được gọi là chính sách và
những hoạt động nào không được gọi là chính tranh trong các hoạt động của nhà
nước. Tuy nhiên, định nghĩa này đem lại cho chúng ta những hiểu biết nhất định về
chính sách công như sau:
Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước
Trong xã hội, chỉ có nhà nước mới được quyền ban hành chính sách công.
Còn các quyết định kinh doanh của tư nhân, các quyết định của các tổ chức chính
trị - xã hội khác, của cá nhân, lợi ích không phải chính sách công. Cho dù trong
thực tế, các hoạt động của họ có thể ảnh hưởng đến những gì nhà nước làm, nhưng
bản thân những quyết định hoặc những hoạt động của chủ thể đó không tạo nên
chính sách công. Chính sách công là công cụ, biện pháp nhà nước thực hiện trên
thực tế.
Thứ hai, chính sách công bao gồm sự lựa chọn cơ bản cho nhà nước về việc
làm hoặc không làm gì. Quyết định này được cán bộ, công chức nhà nước và các
cơ quan nhà nước ban hành.
Nói một cách đơn giản nhất, chính sách công là một sự lựa chọn của nhà
nước để thực hiện một đường lối hành động.
Khái niệm “không làm gì” có nghĩa là nhà nước quyết định không tạo ra một
chương trình mới hay đơn giản chỉ là duy trì tình trạng hiện tại. Tuy nhiên, đây là
quyết định có tính suy tính, ví dụ nhà nước quyết định không tăng thuế để tạo ra
các quỹ bổ sung dùng cho các hoạt động mở rộng sản xuất hoặc tăng sức tiêu dùng
của xã hội.
B.Guy Peter định nghĩa (1990) “chính sách công là toàn bộ các hoạt động
của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của mọi người
dân” [6, tr.41].
Với quan điểm này, tác giả muốn nhấn mạnh đến sự tác động của chính sách
công đến đời sống của nhân dân hay cộng đồng xã hội, thay vì tác động lên một cá
nhân, một tổ chức cụ thể. Nói cách khác, chính sách công hướng đến giải quyết
vấn đề công và việc giải quyết vấn đề này sẽ ảnh hưởng đến một hoặc nhiều nhóm
dân số trong xã hội. Điều này cũng đưa ra gợi ý về tiêu chuẩn đánh giá chính sách
công là đánh giá tác động của nó đến xã hội.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam “chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để
thực hiện để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một
thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và
phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hóa” [6, tr.475]. Hay theo Nguyễn Hữu Hải “Chính sách
công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời
sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức cá nhân, được thể hiện bằng
nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển” [2, tr.14].
Với các cách hiểu trên, mục đích chính sách công là thúc đẩy xã hội phát
triển theo định hướng chứ không đơn giản chỉ là dừng lại ở việc giải quyết vấn đề
công.
Nói cách khác, chính sách công là công cụ để thực hiện mục tiêu chính trị
của nhà nước. Ở Việt Nam, chính sách công là công cụ để thực hiện các đường lối,
chủ trương của Đảng nhằm xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [1, tr.70]. Trong quá trình xây
dựng Chủ nghĩa xã hội, xuất hiện nhiều vấn đề mà Nhà nước cần phải giải quyết
bằng chính sách. Tuy nhiên, các chính sách công được ban hành phải đảm bảo phù
hợp với định hướng chính trị đã được Đảng xác định.
Như vậy, cho dù nhiều quan điểm khác nhau về chính sách công, nhưng
chúng ta có thể rút ra những quan điểm cơ bản về chính sách công như sau:
Thứ nhất, chính sách công bắt nguồn từ các quyết định do nhà nước ban
hành và bao hàm các quyết định của nhà nước.
Thứ hai, chính sách công bao gồm một tập hợp các quyết định diễn ra qua
một giai đoạn dài và kéo dài vượt ngoài quá trình hoạch định chính sách ban đầu.
Ở cấp hoạch định, chính sách công luôn không được thể hiện một cách rõ ràng
trong một quyết đinh đơn lẻ, mà có xu hướng được xác định dưới dạng một chuỗi
các quyết định gắn liền với nhau, giúp chúng ta nhận thức được chính sách là gì.
Thứ ba, chính sách công hướng tới giải quyết vấn đề công và việc giải quyết
vấn đề này sẽ làm ảnh hưởng đến một hoặc nhiều nhóm dân số trong xã hội.
Thứ tư, chính sách công hướng đến việc thay đổi hành vi của đối tượng và
thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng.
Thứ năm, chính sách công bao gồm hai bộ phận cấu thành là mục tiêu và
giải pháp chính sách.
Thứ sáu, các chính sách công luôn thay đổi theo thời gian, vì những quyết
định sau có thể có những điều chỉnh tăng dần so với các quyết định trước đó, hoặc
do có những thay đổi trong định hướng trong định hướng chính sách ban đầu.
Đồng thời kinh nghiệm thực thi chính sách công có thể được phản hồi vào quá
trình ra quyết định. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các chính sách công luôn
thay đổi, mà do quá trình chính sách năng động chứ không cố định và định nghĩa
về các vấn đề chính sách cũng thay đổi theo thời gian.
Thứ bảy, về cơ bản, chính sách công được xem là đầu ra của quá trình quản
lý nhà nước, là sản phẩm trí tuệ của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, thậm chí
của cả xã hội.
Từ phân tích những quan niệm về chính sách công nêu trên và những đặc
trưng của chính sách công, có thể đưa ra một khái niệm về chính sách công như
sau:
Chính sách công là một tập hợp các quyết định liên quan với nhau, do nhà
nước ban hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết một vấn đề công
nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng nhất định.
Trên thực tế, có nhiều loại chính sách công khác nhau đang tồn tại. Mỗi loại
chính sách đều có những tính năng, tác dụng nhất định phù hợp với mục đích yêu
cầu sử dụng của chủ thể.
Tùy theo mục đích, yêu cầu của chủ thể quản lý để lựa chọn cách phân loại
độc lập hay kết hợp giữa các cách phân loại sau đây:
Theo lĩnh vực hoạt động (kinh tế, xã hội, y tế, quốc phòng, đối ngoại, dân
tộc…)
Theo thời gian phát huy tác dụng (dài hạn, trung hạn, ngắn hạn)
Như vậy, các chính sách công được ban hành và thực thi đều có ảnh hưởng
tới xã hội, mọi người và cuộc sống của chúng ta.
1.3 Vận động chính sách công
Vận động là hành động (nói, hay viết) để ủng hộ một vấn đề nào đó. Như
vậy, một “người vận động” là người có hành động như nói hay viết để ủng hộ một
việc nào đó.
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông, vận động là việc tuyên truyền, giải
thích, động viên làm cho người khác tự nguyện làm một việc gì đó, thông thường
là theo một phong trào. Chẳng hạn, vận động toàn dân tham gia thực hiện quy ước
văn minh trong tang, lễ, cưới hỏi ; vận động thanh niên tham gia phong trào thanh
niên tình nguyện ; vận động toàn dân thực hiện sinh đẻ có kế hoạch… Như vậy, khi
nói đến vận động, thông thường, chủ thể của việc vận động là Nhà nước, các tổ
chức chính trị, chính trị – xã hội…Còn đối tượng của việc vận động là các tầng lớp
nhân dân.
Từ khái niệm về vận động nêu trên, có thể nêu, vận động chính sách công là
việc tuyên truyền, giải thích, động viên những người nghiên cứu, soạn thảo và ban
hành các chính sách tự nguyện xây dựng các chính sách theo nguyện vọng chính
đáng của người vận động. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, khái niệm nêu trên
bao hàm trong nó một quy trình ngược. Bởi lẽ, xây dựng, ban hành các chính sách
là quyền của cơ quan Nhà nước các cấp, thể hiện ý chí của người quản lý đối với
người bị quản lý. Vì vậy, sẽ khó có thể xẩy ra việc người bị quản lý lại tuyên
truyền, giải thích, động viên những người có chức năng, quyền hạn trong quản lý
làm theo nguyện vọng của mình mặc dù đó là những nguyện vọng chính đáng, hợp
pháp.
Vận động chính sách công được hiểu là quá trình tác động vào những nhà
hoạch định chính sách, những người ra quyết định để tạo ra một chính sách phù
hợp hơn, minh bạch và hiệu quả hơn.
Thông qua việc thực thi các chính sách đã ban hành trong thực tế, nếu có
những ý kiến và cần thiết phải thay đổi chính sách hiện hành để tạo nên những tác
động tích cực cho cộng đồng và thực hiện công bằng xã hội tốt hơn thì chúng ta
cần phải tham gia vào quá trình vận động chính sách.
Thông qua vận động chính sách, chúng ta có cơ hội đóng góp ý kiến với các
nhà hoạch định chính sách để thay đổi các chính sách hiện hành đáp ứng được yêu
cầu của các bên liên quan. Nếu chúng ta đứng bên lề cuộc sống, thì mọi việc sẽ
không thay đổi được.
2.
Sự cần thiết của vận động chính sách công
2.1 Vận động chính sách công là tất yếu, khách quan
Vận động chính sách là những nỗ lực có tính hệ thống nhằm tác động đến
những người ra quyết định nhằm tạo ra những chính sách phù hợp hơn với điều
kiện thực tiễn.
Vận động chính sách có vai trò bổ sung, tác động mạnh mẽ tới các bước của
quá trình ra quyết định.
Vận động chính sách được coi là chiến lược nhằm kết nối tích cực giữa các
bên liên quan.
Kết quả của Vận động chính sách là mong muốn đat được mục tiêu vì công
bằng, dân chủ và phát triển của xã hội.
Như vậy, vận động chính sách ngày càng trở thành công cụ trong tiến trình
dân chủ hóa, từng bước tiếp cận với những người ra quyết định và cải thiện quá
trình ra quyết định.
Khi vận động chính sách cần lưu ý các vấn đề sau:
Vận động luôn là quá trình gây ảnh hưởng đến các nhà hoạch định chính
sách.
Vận động là các hành động được tính toán kỹ lưỡng. Có nghĩa người đi
vận động luôn phải hiểu mình muốn thay đổi chính sách nào và cần tác động đến
những ai.
Người ra quyết định chính sách có nhiều cấp độ và loại hình khác nhau.
Vận động chính sách liên quan đến các vấn đề xã hội nhằm mang lại sự
thay đổi, cải thiện cuộc sống của con người, nhất là những người bị thiệt thòi trong
xã hội.
Trong nền hành chính nhà nước, chính sách công là bộ phận nền tảng trọng
yếu của thể chế hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành khác của nền
hành chính như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - công chức; tài chính công.
Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì chính sách công là công cụ tiền đề,
không thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như pháp luật, kế hoạch,
phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì sao trong những năm gần đây Đảng
và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao vai trò của chính sách
công như là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói
riêng và đẩy mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi mới nói chung.
2.2 Những vấn đề đặt ra trong quá trình vận động chính sách công
Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định chính sách công đã đạt được một
số kết quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực trọng yếu,
cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã hội, quân sự,
ngoại giao…). Một số chính sách công quan trọng đã được luận chứng khoa học
hơn, bám sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo lập
và hoàn thiện được một hệ thống chính sách công khá phù hợp, đáp ứng được yêu
cầu ngày càng cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới được ban hành đã đáp ứng
được về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường,
đặc biệt, có tính ứng phó khá tốt với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu như: chính sách kích cầu, chính sách điều chỉnh tiền lương cơ bản, chính sách
hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, lãi suất tối đa cho tiền gửi bằng đồng Việt
Nam, chính sách mang ngoại tệ, tiền Việt Nam của cá nhân khi xuất nhập cảnh,
chính sách điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân, chính sách miễn giảm thuế sử dụng
đất nông nghiệp… Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy được tác dụng trong
kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độ tăng trưởng của
nền kinh tế trong điều kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như những
phản ứng kịp thời của nhà nước trước những biến động lớn của kinh tế toàn cầu và
khu vực.
Bên cạnh đó, việc tổ chức thực thi chính sách công cũng đạt được những yêu
cầu cơ bản như: kịp thời, đồng bộ, hiệu quả trong phạm vi cả nước cũng như từng
địa phương, ngành. Một số địa phương đã chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong
triển khai thực thi chính sách cho phù hợp với đặc điểm của mình, có tính đến đặc
điểm của đối tượng thụ hưởng chính sách. Công tác tổng kết thực tiễn thi hành
chính sách cũng đã bắt đầu được chú ý hơn; một số chính sách được sơ kết, tổng
kết khá công phu, có quy trình khoa học và có giá trị tham khảo lớn. Nhìn tổng thể,
việc thực thi chính sách đã đi vào nề nếp, nghiêm minh với không ít kinh nghiệm
bổ ích đã được đúc rút từ thực tiễn.
Hoạt động phân tích, đánh giá chính sách công đã bắt đầu được quan tâm
với tư cách là một trong những công đoạn quan trọng của quy trình chính sách
công. Tuy chưa nhiều và chưa thật sự phát huy hết hiệu quả nhưng một số cơ quan
nhà nước, viện nghiên cứu và cá nhân có những sản phẩm phân tích, đánh giá
chính sách công rất tốt, giúp cho việc ban hành, sửa đổi nhằm hoàn thiện hệ thống
chính sách hiện hành theo hướng khả thi, hiệu quả, mang lại lợi ích cho xã hội. Đặc
biệt, vai trò của một số tổ chức phi nhà nước trong việc phân tích, đánh giá chính
sách công được dư luận xã hội thừa nhận về chất lượng, về chính kiến và ảnh
hưởng của chúng như: Viện nghiên cứu, tư vấn chính sách, pháp luật và phát triển
thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam… Nhờ đó, từ chỗ là công
việc khá lạ lẫm trong quy trình chính sách, thì đến nay hoạt động phân tích, đánh
giá chính sách công đã bắt đầu được quan tâm nhiều hơn không chỉ từ phía các cơ
quan nhà nước mà còn là của xã hội.
Mặc dù vậy, khi đánh giá về hạn chế, khuyết điểm trong 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội X, Đảng ta nhận định: Năng lực xây dựng thể chế, quản lý,
điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu… Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn yếu. Có thể thấy những hạn chế, bất
cập đó trên các khía cạnh chủ yếu sau đây:
Lý luận về mô hình phát triển chung còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng
tỏ đã và đang tác động không nhỏ tới lý luận và thực tiễn của nhiều lĩnh vực vĩ mô
như: về mối quan hệ giữa cải cách hệ thống chính trị với đổi mới kinh tế, về thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về tăng trưởng đi đôi với thực
hiện công bằng xã hội trong từng bước và trong cả quá trình phát triển, về bảo vệ
môi trường trong phát triển bền vững… Trong đó, còn nhiều vấn đề đặt ra rất bức
xúc nhưng chưa được kiến giải thấu đáo ở phương diện lý luận hay nói cách khác,
lý luận còn bất lực trước nhiều vấn đề thực tế mà cội rễ của nó là tư duy chưa thật
sự bắt kịp được yêu cầu ngày càng cao, phức hợp của công cuộc đổi mới.
Thực tiễn của Việt Nam, của từng địa phương, từng ngành vẫn chưa thật sự
được quan tâm như là một tiền đề, điều kiện tối quan trọng để xây dựng, ban hành,
tổ chức thực hiện chính sách. Vì thế, vẫn còn không ít những chính sách xa với
thực tế, gây khó khăn khi tổ chức thực hiện và không được dư luận thật sự đồng
tình. Đặc biệt, những căn bệnh chủ quan, duy ý chí, chạy theo thành tích, thích
“đánh bóng hình ảnh”, lợi ích cục bộ của từng bộ, ngành hoặc lợi ích của một số
nhóm trong xã hội vẫn tồn tại dai dẳng đã gây những hậu quả không nhỏ cho xã
hội, cho từng ngành và địa phương từ hoạt động hoạch định cho tới tổ chức thực
thi chính sách công.
Quy trình hoạch định chính sách công tuy đã được nghiên cứu cải tiến theo
hướng hiện đại, tiện lợi, dân chủ nhưng vẫn còn những bất cập chủ yếu như:
Có quá nhiều chính sách của các bộ, ngành trong khi chúng được xây dựng
phân tán; thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành một cách hợp lý và có cơ quan chủ
trì, chịu trách nhiệm đích thực nên chất lượng không cao. Trong khi đó, hầu hết các
chiến lược hay chính sách đều thể hiện sự liệt kê mục tiêu, quan điểm định hướng,
yêu cầu mà thiếu hẳn những kế hoạch hành động cụ thể hay các biện pháp cần có.
Chưa hình thành được những kênh thông tin chính thống cần thiết giữa nhà
nước với xã hội trong việc xây dựng, ban hành, thực thi chính sách công để phúc
đáp những lợi ích cơ bản của đôi bên.
Vai trò của các cơ quan thẩm định, phê duyệt chính sách chưa được phát huy
nên đã tạo những kẽ hở đáng kể cho việc ra đời một số chính sách có chất lượng
chưa cao, thậm chí xã hội không đồng tình.
Hiện tượng “vận động chính sách” (lobby) tuy chưa được chính thức thừa
nhận ở phương diện luật pháp nhưng đã xuất hiện dưới nhiều hình thức với những
biểu hiện tiêu cực khác nhau làm ảnh hưởng đến tính công bằng của chính sách,
gây những nguy hại nhất định cho xã hội lại chưa được quan tâm nghiên cứu để có
phương hướng và biện pháp xử lý có hiệu lực, hiệu quả.
Trong lĩnh vực tổ chức thực thi chính sách công bộc lộ những hạn chế, bất
cập chủ yếu về tính kịp thời, đồng bộ, nhất quán trong tổ chức thực hiện, nhất là ở
một số chính sách về kinh tế - xã hội và môi trường trong thời gian gần đây. Hoạt
động tuyên truyền, phổ biến, thuyết phục, vận động nhằm định hướng dư luận
trong quá trình thực hiện chính sách chậm được đổi mới về hình thức, phương
pháp, nội dung; còn nhiều biểu hiện hình thức, “làm cho có”… nên kém hiệu quả.
Công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra chưa kịp thời, thường xuyên và thiếu
thực chất. Việc xử lý khiếu nại, tố cáo các vi phạm pháp luật trong quá trình thực
hiện còn chậm, nhiều trường hợp thiếu công bằng, nghiêm minh đã ảnh hưởng xấu
đến thực hiện chính sách công.
Công tác tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm cho hoạch định và thực thi
chính sách chưa được coi trọng, chưa làm thường xuyên, kịp thời. Trong một thời
gian dài, hoạt động này chưa thật sự được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quan tâm, coi trọng do sự bất cập trong tư duy làm chính sách. Điều này không chỉ
đúng với quy trình chính sách của chính quyền địa phương mà còn của Chính phủ,
các bộ, ngành.
Trong những năm gần đây, thực tiễn cho thấy xã hội đã bắt đầu ý thức rõ
hơn về vai trò quan trọng của hoạt động này trong tổng thể quy trình chính sách.
Tuy vậy, xét về tổng thể, hoạt động phân tích, đánh giá chính sách công còn ở
trong tình trạng lẻ tẻ, rời rạc, hình thức; không có nhiều những sản phẩm nghiên
cứu có tầm cỡ về nội dung, chất lượng và quy mô để có thể tạo ra được những đột
phá về chính sách trong từng lĩnh vực.
Vì những lý do rất khác nhau mà những kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh
giá chính sách công được ứng dụng vào thực tế một cách hữu ích chưa nhiều, gây
lãng phí, thiệt thòi cho toàn bộ quy trình chính sách công hoặc từng công đoạn
trong đó. Việc tiếp thu các kết quả phân tích, đánh giá chính sách công từ phía các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn rất dè dặt, cứng nhắc; thậm chí có những
trường hợp tỏ thái độ phân biệt, phê phán, “chụp mũ”… Số lượng các cơ quan
hoặc cá nhân nghiên cứu về chính sách công chưa đủ để đáp ứng nhu cầu thực tế
của lĩnh vực này, trong đó bản thân họ cũng gặp những khó khăn nhất định về
khung pháp lý và phản ứng của một số cơ quan nhà nước.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt động hoạch định và thực thi
chính sách công ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo, cần
đặt trọng tâm vào các vấn đề sau:
Tiếp tục nâng cao nhận thức để trên cơ sở đó mở rộng sự tham dự một cách
có hiệu quả của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhất là của cá nhân người
lãnh đạo, quản lý vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách công. Nói cách
khác, làm cho chính sách công từ chỗ chỉ là chức năng đặc quyền của các cơ quan
nhà nước thành mối quan tâm chung và trách nhiệm của toàn xã hội.
Đổi mới quy trình hoạch định chính sách công theo hướng dân chủ, huy
động sự tham gia đắc lực của toàn xã hội, nhất là của đội ngũ chuyên gia vào xây
dựng chính sách. Từng bước tạo lập một quy trình làm chính sách gọn, tiện lợi
nhưng khoa học, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn
thiện cơ chế thẩm định và phê duyệt chính sách, nhất là với những chính sách lớn,
quan trọng, có tác động trực tiếp và lâu dài tới lợi ích chung của toàn xã hội.
Chấn chỉnh để nâng cao tính kịp thời, đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả của quá
trình tổ chức thực thi chính sách cônh. Đặc biệt, coi trọng tính tiên phong của các
khâu tuyên truyền, vận động, định hướng dư luận xã hội trong quy trình thực hiện
chính sách. Tăng cường công tác đôn đốc, kiểm tra, giám sát về tiến độ, hiệu quả
thực hiện chính sách công. Phát hiện và xử lý kịp thời, công bằng, minh bạch các
khiếu kiện, vi phạm pháp luật nảy sinh.
Coi trọng hoạt động tổng kết thực tiễn về hoạch định, thực thi chính sách
công theo hướng thường xuyên, thiết thực; tránh phô trương, hình thức, lãng phí để
rút kinh nghiệm cần thiết, bổ ích cho các hoạt động đó.
Đề cao vai trò của hoạt động phân tích, đánh giá chính sách công như là một
điều kiện tối quan trọng để từng bước cải thiện chất lượng của quy trình hoạch
định và thực thi chính sách. Có cơ chế ràng buộc các cơ quan nhà nước trong việc
phản hồi ý kiến, tiếp nhận các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá chính sách
công.
3. Vai trò của vận động chính sách công
3.1 Vị trí trong vận động chính sách công
Vận động chính sách công hoạt động như một công cụ để làm cầu nối, đề đạt
tâm tư nguyện vọng của người dân tới các nhà hoạch định chính sách. Do vậy có
thể có bốn vị trí để vận động chính sách công:
Vị trí 1: Cá nhân, tổ chức vận động chính sách công đứng hoàn toàn về phía
Nhà nước.
Với vị trí này, vận động chính sách công không thể hiện vai trò cầu nối, hoạt
động theo định hướng từ trên xuống.
Vị trí 2: Cá nhân, tổ chức vận động chính sách công đứng hoàn toàn về phía
người dân.
Với vị trí này, chính sách công không thể hiện vai trò cầu nối, hoạt động như
một công cụ của người dân với các nhà hoạch định chính sách (Vị trí các tổ chức
cộng đồng).
Vị trí 3: Cá nhân, tổ chức vận động chính sách đứng ở giữa.
Đây là vị trí là cầu nối, tích cực truyền tải bức thông điệp của người dân tới
các nhà hoạch định chính sách một các thuyết phục nhất (Vị trí của các tổ chức phi
chính phủ).
Vị trí 4: Cá nhân/tổ chức vận động chính sách đứng ở giữa (cầu nối độc lập).
Đây cũng là vị trí cầu nối, nhưng giữ vai trò độc lập hơn và thể hiện vai trò
là người đàm phán với cả hai bên (Vị trí của các nhà vận động hành lang).
Sự tham gia của tổ chức xã hội vào quá trình xây dựng chính sách công là
một cách thể hiện và phát huy vai trò của dân chủ. Mức độ tham gia vào quá trình
ra quyết định dựa vào:
Cách thức điều hành của chính quyền (Nhà nước)
Tính chất đặc thù của vấn đề
Thời điểm xây dựng chính sách
Sự tham gia của tổ chức xã hội vào xây dựng chính sách theo cách điều hành
của chính quyền có thể diễn ra theo các hình thức sau đây:
Kiểu cực đoan độc đoán (đối với những vấn đề quan trọng, phạm vi hẹp)
Kiểu cực đoan sáng suốt (thông qua các nghiên cứu)
Kiểu hỏi ý kiến (mở rộng hơn sự đóng góp ý kiến)
Kiểu có sự tham gia (đối thoại)
Kiểu tản quyền (đồng ra quyết định)
Kiểu hợp tác (người dân trở thành đối tác trong quá trình ra chính sách)
Kiểu tạo điều kiện (người dân trở thành những người khởi xướng của quá
trình ra chính sách)
Đặc trưng vận động chính sách ở Việt Nam
Đó chính là việc đưa ra những ý kiến đề xuất, góp ý, phản biện cho các
chính sách kinh tế và xã hội để những nhà hoạch định chính sách đưa ra những
chính sách phù hợp, minh bạch và hiệu quả hơn.
Chủ thể của việc vận động phải là những nhà hoạch định chính sách theo
một quy trình nhất định.
Đối tượng của việc vận động là các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh
nghiệp, các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp… Việc đưa ra những ý kiến đề
xuất, góp ý, phản biện cũng phải tuân thủ pháp luật và theo những quy định, quy
trình nhất định
3.2 Ý nghĩa, vai trò của việc vận động chính sách
Ý nghĩa của việc vận động chính sách
Nâng cao nhận thức về vai trò của người dân đối với sự nghiệp xây dựng,
phát triển đất nước.
Tăng cường tính công khai minh bạch, khả năng tiếp cận thông tin về các CS
của nhà nước.
Tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình xây dựng và thực
hiện luật pháp.
Tạo ra khả năng ‘dân biết’, ‘dân bàn’, ‘dân làm’, ‘dân kiểm tra’ trong quá
trình ra các quyết định của nhà nước.
Góp phần xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa Nhà nước - Doanh nghiệp Xã hội dân sinh.
Vai trò của vận động chính sách
Trong quá trình quản lý, nhà nước sử dụng chính sách công để làm công cụ
chủ yếu giải quyết những vấn đề chung nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo
hướng nhất định. Vai trò của chính sách công được thể hiện ở những khía cạnh sau
đây:
Thứ nhất, vai trò định hướng
Một trong những vai trò quan trọng của chính sách công là định hướng cho
các hoạt động của các thực thể kinh tế - xã hội. Mục tiêu chính sách công thể hiện
thái độ ứng xử của nhà nước trước vấn đề công, nên nó thể hiện rõ xu hướng tác
động của nhà nước lên các thực thể xã hội để chúng vận động phù hợp với những
giá trị tương lai mà nhà nước theo đuổi.
Các giá trị này phản ánh ý chí của nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản
của đời sống xã hội. Nếu các thực thể xã hội tiến hành những hoạt động phù hợp
với mục tiêu chính sách thì cũng có nghĩa đạt được mục tiêu phát triển chung và sẽ
nhận được những sự trợ giúp của nhà nước. Hơn nữa, bản thân các giải pháp chính
sách cũng có vai trò định hướng cho các thực thể kinh tế - xã hội trong việc đề ra
các biện pháp.
Thứ hai, vai trò khuyến khích và hỗ trợ
Để đạt được mục tiêu chính sách công, nhà nước ban hành nhiều giải pháp,
trong đó có giải pháp mang tính khuyến khích và hỗ trợ về tài chính như miễn,
giảm thuế, hỗ trợ lãi suất, về trợ giá, trợ cấp… và các biện pháp kỹ thuật như đơn
giản hóa thủ tục hành chính, hỗ trợ kỹ thuật để tạo thuận lợi cho các thực thể xã hội
tham gia.
Cần lưu ý rằng, các biện pháp này không mang tính bắt buộc, nó tạo ra cơ
chế khuyến khích sự tham gia tự nguyện các thực thể kinh tế - xã hội tiến hành
những hoạt động mà nhà nước mong muốn. Ví dụ chính sách khuyến khích đầu tư
trong nước, chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhà nước ban hành
nhiều biện pháp nhằm khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn xây dựng, đầu tư nhà
máy để tiến hành các hoạt động kinh doanh như miễn, giảm tiền thuê đất, đơn giản
hóa thủ tục hành chính, hỗ trợ giải phóng mặt bằng…
Hay như trong chính sách tam nông, nhà nước ban hành giải pháp khuyến
nông như hỗ trợ về giống, hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân, thu mua lương thực
với giá bảo đảm cho người nông dân có một mức lợi nhuận nhất định, cho vay vốn
lãi suất thấp…
Vai trò tạo lập
Thông qua các chính sách công, nhà nước đưa ra những điều kiện cần thiết
nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho các thực thể kinh tế - xã hội tiến hành các
hoạt động.
Ví dụ, chính sách phát triển thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường
khoa học – công nghệ, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường
dịch vụ…
Để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển một cách ổn định, nhà nước ban hành
nhiều chính sách bảo đảm các cân đối vĩ mô chính yếu như: cân đối giữa cung –
cầu, tiền – hàng, xuất – nhập khẩu, đầu tư – tiêu dụng, tiết kiệm – tiêu dụng…
Vai trò điều tiết
Nhà nước cũng sử dụng các chính sách công để điều tiết thu nhập giữa các
cá nhân và doanh nghiệp trong xã hội, điều tiết các thị trường lao động, vốn… như
thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, quy định giá cả một số hàng
hóa thiết yếu, bình ổn giá trên thị trường, chính sách tiền lương, lãi suất, chính sách
tỉ giá…
Nhà nước dùng các chính sách công để đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa
các vùng, miền, thông qua việc phân bổ và tái phân bổ các nguồn lực xã hội.
Vai trò hiệu chỉnh những khuyết điểm của nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường được hiểu là một thể chế kinh tế với sự không tập trung
(phân tán) về kế hoạch hoá và sự điều khiển quá tŕnh kinh tế được tiến hành theo
sự điều phối của cơ chế giá cả. Trong nền kinh tế thị trường, phạm vi nhiệm vụ của
Nhà nước ít nhất là phải tạo ra các điều kiện khung để khuyến khích đầy đủ được
chức năng điều phối từ sự cạnh tranh, thi đua cũng như khuyến khích việc sẵn sàng
cung cấp các loại hàng hoá công cộng không sinh lợi của kinh tế tư nhân. Đồng
thời mỗi một đề án về các chính sách kinh tế như chính sách thời vận, chính sách
cơ cấu và chính sách xă hội cần bổ sung thêm nhiệm vụ làm hạn chế tính tự trị của
kế hoạch hoá cá nhân.
Kinh tế thị trường còn được hiểu là một hệ thống kinh tế mà trong đó các kế
hoạch và tổ chức sản xuất kinh doanh của từng đối tượng kinh tế đều hoạt động
dựa trên nền tảng của việc tự do tạo lập giá cả và được điều tiết theo giá cả. Đó là
một nền kinh tế hàng hoá trao đổi và tự do cạnh tranh, thi đua là thực sự cần thiết.
Sự cạnh tranh đầy đủ trong nền kinh tế thị trường không chỉ điều tiết nền kinh tế cả
theo chiều dọc và chiều ngang mà c nc thường xuyên điều chỉnh các diễn biến kinh
tế và kích thích tính hiệu quả của nền kinh tế. Hiệu quả hoạt động của nền kinh tế
thị trường được thể hiện ở động cơ sản xuất và năng xuất, ở mức thu nhập quốc
dân và mức sống xă hội cao cũng như các khả năng cung ứng tốt các hàng hoá và
dịch vụ.
Các chức năng trật tự, điều hành và điều phối cân bằng cần phải được đảm
bảo nhằm chế ngự được tính độc quyền của sản xuất hàng hoá nhưng đồng thời
cũng phải mang lại khả năng thịnh vượng chung cho toàn xă hội.
Khái niệm về kinh tế thị trường đến nay đă trải qua nhiều giai đoạn phát
triển với nhiều góc độ nhh n nhận khác nhau. Nhưng dù sao khi thiết lập các nguyên
tắc hoạt động trong luật kinh tế, nhà nước cũng phải đảm bảo được tác động thực
sự của sự cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời, cũng đề cập đến những định mức
chuẩn như thu hẹp tính độc quyền cá nhân, uốn nắn những lệch lạc, sai phạm hoặc
ngăn cản sự cạnh tranh.
Bên cạnh đó, nhà nước với chính sách kinh tế cũng điều tiết và định hướng
cho sự phát triển của hệ thống kinh tế thị trường. Tuy nhiên, các nguyên tắc này
cũng không bảo hành cho các mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân
như đầy đủ việc làm, ổn định giá cả… Mặc dù nguyên tắc tự điều chỉnh nền kinh tế
thông qua cạnh tranh là điều kiện rất cần thiết nhưng cũng cần phải được bổ sung
trong lĩnh vực kinh tế vĩ mô thông qua các biện pháp điều chỉnh tổng thể của nhà
nước.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau, điều
đó phụ thuộc vào sự thích ứng của từng nước đối với điều kiện, hoàn cảnh tự
nhiên, kinh tế xă hội cũng như tập quán dân tộc mà lựa chọn một mô hình kinh tế
thích hợp. Sẽ không bao giờ có một mô hình kinh tế thị trường khuôn mẫu thích
hợp cho tất cả các nước hoặc dù chỉ điển hình cho một nhóm nước cùng thực hiện.
ở đây phải kể ra một số mô hình kinh tế thị trường tiêu biểu như: kinh tế thị trường
xă hội của Cộng hòa liên bang Đức, kinh tế thị trường tự do tương đối của Mỹ, mô
hình của nhà nước thịnh vượng trong nền kinh tế thị trường của Thụy Điển, kinh tế
thị trường xă hội xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc, kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước ở Việt Nam…
Điều cần xem xét chung là khi tiến hành nền kinh tế thị trường người ta phải
biết chấp nhận cả những bất lợi do hậu quả của nền kinh tế thị trường mang lại cho
xă hội và ở mỗi nước khác nhau đều có cách nhh n nhận và giải quyết vấn đề này
một cách khác nhau. Cụ thể là vấn đề thời vận kinh tế nhất là lúc suy thoái, nạn
lạm phát và nạn thất nghiệp. Điều đó có nghĩa là không có sự bảo hành trên con
đường tiến hành kinh tế thị trường. Do vậy, phải có các biện pháp mang tính bị
động nhằm ngăn chặn hoặc hạn chế những hậu quả xấu xẩy ra đối với xă hội cũng
như đối với các tầng lớp dân cư “yếu” hơn trong xă hội. Và điều này được nhh n
nhận một cách đơn giản là những công cụ nhằm mục đích bảo đảm xă hội, ổn định
xã hội trong mọi tình huống – đây là một trong những nhiệm vụ chính của chính
sách xă hội.
Chúng ta có thể minh hoạ thêm về khái niệm kinh tế thị trường thông qua
nền kinh tế thị trường xă hội của Cộng hòa liên bang Đức và nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước ở Việt Nam để hiểu rõ
thêm về bản chất nền kinh tế thị trường.
Tư tưởng xây dựng nền kinh tế thị trường xă hội được hình thành ở cộng hòa
liên bang Đức từ những năm 50 trên cơ sở lựa chọn, khắc phục nhược điểm của
nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không thể kiểm tra được với nền kinh tế
hành chính tập trung quan liêu. Nền kinh tế thị trường xă hội là khả năng của sự
hòa hợp giữa sự tự do về kinh tế với tư tưởng Nhà nước xă hội, tương tự như sự
bảo đảm xã hội và sự bình đẳng cần đạt được.
Trong nền kinh tế thị trường, người ta luôn đặt ra mối quan hệ giữa thị
trường và những người chịu trách nhiệm tích cực, các ông chủ doanh nghiệp và
người lao động làm thuê, sự bảo đảm xă hội cũng như vai trò, trách nhiệm của Nhà
nước. Điều đó được thể hiện ở chỗ: sự tự do trên thị trường (cho các ông chủ
doanh nghiệp) nối liền với sự bảo đảm xă hội xác định được (cho người lao động)
trong đó nhiệm vụ của Nhà nước là xây dựng và thực hiện pháp luật theo hướng
các chính sách tổng thể và chính sách quá trình. Quá tŕnh hoạt động kinh tế trong
nền kinh tế thị trường xă hội được đặt dưới sự cân nhắc về mặt xă hội. Diễn giải về
từ “xã hội” thu hoạch được từ hệ thống “kinh tế thị trường xă hội” này là tất yếu
với nó thực hiện trước hết cho sự phát triển kinh tế thông qua các khả năng, hiệu
quả của nền kinh tế thị trường cạnh tranh có tổ chức, “sự thịnh vượng cho tất cả” là
có thể được và thứ hai là sự tự do kinh tế cho tất cả được tôn trọng. Con người
trong hệ thống này một mặt là một cá nhân, sự tự do và đặc tính cá thể của nó được
bảo vệ và khuyến khích. Mặt khác, về góc độ bản chất xã hội, con người được nối
liền với nghĩa vụ và những ràng buộc của tự do trong xã hội.
Nguyên tắc cao nhất của nền kinh tế thị trường xă hội là sự nối liền tự do
trên thị trường với đ ci hỏi cân bằng xă hội theo phương thức: Sự quyết định tự do
của các chủ thể kinh tế (ngân sách của cá nhân hoặc ngân sách doanh nghiệp) về
thị trường được bảo đảm đảm mà ở đó sự cố gắng đạt được một cách đồng đều về
bảo đảm xã hội và sự thịnh vượng chung toàn xã hội.
Ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều
tiết của nhà nước đã thể hiện rõ sự phát triển của nền kinh tế thị trường nhằm mục
tiêu dân giàu, nước mạnh gắn liền sự phát triển của một xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Điều đó có nghĩa là sự tôn trọng, khuyến khích và sử dụng tối đa các đặc
tính ưu việt của nền kinh tế thị trường có tổ chức, của các tổ chức kinh tế nhằm đáp
ứng cho sự phát triển nhanh và mạnh nền kinh tế quốc dân. Và nhịp độ phát triển
kinh tế này luôn được gắn chặt với sự phát triển con người và xã hội. Vì vậy, vai
trò của nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường mang đặc trưng riêng
ở nước ta giữ vai trò hết sức quan trọng.
Đặc điểm chung là nền kinh tế thị trường của nước ta được chuyển biến từ
một nền kinh tế kế hoạch hóa hành chính tập trung. Trải qua ba mưoi năm chuyển
đổi, với sự điều chỉnh từng bước của Nhà nước đã không gây nên những biến động
làm ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội cũng như đời sống của đại bộ phận
người lao động và dân cư trong toàn xã hội. Trái lại, sự thành công của công cuộc
chuyển đổi kinh tế đã mang lại bộ mặt mới cho đời sống xã hội cả nước. Thành
công đó là do một mặt chúng ta từng bước áp dụng các yếu tố kinh tế thị trường
vào từng ngành, từng khu vực; từng bước đa dạng hoá các thành phần kinh tế, tăng
cường năng lực cạnh tranh và bình đẳng của các thành phần kinh tế; chuyển đổi cơ
cấu kinh tế; tạo ra các hành lang pháp lý cần thiết cho hoạt động thị trường đi đúng
hướng, mặt khác nhà nước ta rất coi trọng công cụ điều tiết xã hội, sử dụng toàn
diện các công cụ của chính sách xă hội như: xoá đói giảm nghèo, cho vay vốn ưu
đãi để sản xuất kinh doanh; khuyến khích người lao động tự tạo việc làm và tăng
thêm thu nhập; nâng cao chất lượng cung cấp cho các đối tượng hưởng ưu đãi xã
hội; từng bước quan tâm đến vấn đề nhà ở cho mọi người dân…nhằm từng bước
phấn đấu mang lại sự công bằng, bình đẳng cả về mặt chính trị, tinh thần lẫn đời
sống kinh tế cho từng thành viên hay nhóm thành viên trong xă hội.
Để hạn chế sự xuất hiện của các rủi ro xã hội cũng như điều tiết cân bằng
hậu hoạ của các rủi ro. Các chính sách sẽ can thiệp vào quá trình kinh tế theo
phương thức đa dạng. Tất nhiên các tác động của chính sách đến nền kinh tế thị
trường luôn dẫn đến các mâu thuẫn và tranh chấp cơ bản về sự can thiệp của các
chính sách xă hội một mặt được coi như là nguyên tắc chống đối lại cơ chế thị
trường và theo cách tính toán lợi nhuận của các chủ doanh nghiệp thì đó là các chi
phí ngọai lai làm giảm bớt lợi nhuận. Nhưng mặt khác nó lại là các điều kiện cần
thiết cho sự ổn định về kinh tế – xã hội và đồng thời đảm bảo cho các khả năng
phát triển của toàn bộ hệ thống kinh tế.
Sự can thiệp của chính sách vào quá trình kinh tế được thể hiện đầy đủ ở các
mặt sau:
Thông qua các quy định của luật pháp, nhất là các quy định về thị trường lao
động và quan hệ lao động nhằm khuyến khích phát triển các hoạt động sản xuất
kinh doanh nhưng trong phạm vi xă hội kiểm soát được, đồng thời ngăn ngừa hoặc
làm giảm bớt các hậu quả xấu của việc sản xuất kinh doanh gắn liền với quy mô
của từng đơn vị kinh tế riêng (ví dụ như: điều kiện làm việc, tiền lương, lợi nhuận
cho phép…).
Thông qua việc chi trả bằng tiền nhằm điều tiết bổ sung cho việc phân phối
lại thu nhập từ những đối tác tham gia vào thị trường cũng như hiệu quả của thị
trường nhằm loại trừ sự nghèo đói, giúp đỡ vượt qua những rủi ro làm mất mát thu
nhập trong quá trình làm việc cũng như xem xét đến việc bảo đảm những nhu cầu
thiết yếu.
Thông qua các nguồn phúc lợi bằng hiện vật hoặc bằng tiền trong lĩnh vực
sức khoẻ nói riêng và và lĩnh vực xã hội nói chung mà đảm bảo đáp ứng đầy đủ các
nhu cầu sống tối thiểu cho các thành viên trong xã hội và họ không phải chi trả cho
những phúc lợi đó.
Tổ chức tài chính cho các hoạt động của chính sách xă hội, đây được coi là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước. Các nguồn thu từ thuế và từ
đóng góp nghĩa vụ căn cứ vào thu nhập trong quá trình hoạt động kinh tế.
- Xem thêm -