ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------PHẠM THUỲ CHI
SỰ HOẠT ĐỘNG CỦA NHỮNG YẾU TỐ THỂ HIỆN
LỊCH SỰ TRONG CÂU CẦU KHIẾN TIẾNG VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 60 22 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HIỆP
HÀ NỘI - 2006
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ý định chọn đề tài này xuất phát từ thực tế nghiên cứu ngôn ngữ học
trong những năm gần đây. Như mọi người đều biết, ngôn ngữ học truyền
thống với thiên hướng đề cao vai trò của yếu tố hình thức nên ít quan tâm đến
vấn đề ngôn ngữ được sử dụng như thế nào trong giao tiếp. Trong khi đó, để
thực hiện một mục đích phát ngôn, người ta thường sử dụng một cấu trúc ngữ
pháp đặc trưng với những phương tiện ngôn ngữ riêng biệt như: tiểu từ, phụ
từ, phụ tố, trật tự từ, ngữ điệu, áp dụng tỉnh lược khi cần thiết... Nghĩa là có
một mối tương quan khá đều đặn giữa hình thức của câu và mục đích sử dụng
của nó. “Nói năng là một hoạt động giao tiếp. Khi nói ra một câu ta thực hiện
một hành động có mục đích giao tiếp nào đó. Đó là một hành động ngôn
trung.” [9,183].
Từ khi lí thuyết hành vi ngôn ngữ ra đời mở đường cho sự phát triển
mạnh mẽ của các công trình nghiên cứu ngữ nghĩa – ngữ dụng trên thế giới và
trong nước, cách nhìn của các nhà nghiên cứu đối với loại câu chia theo mục
đích nói, một cách phân loại có tính phổ quát trong ngôn ngữ học truyền
thống hầu như hoàn toàn thay đổi. Thành tựu của ngôn ngữ học hiện đại cho
thấy quan niệm cho rằng trong cuộc sống hàng ngày, con người chỉ có thể nói
để kể, hỏi hoặc cầu khiến... thì chưa thật sự đầy đủ. Những hành động mà ta
thực hiện bằng lời nói vô cùng phong phú, đa dạng chứ không chỉ bao gồm
mấy loại vừa kể trên. Có một sự phân biệt giữa một kiểu câu (một kiến trúc
ngôn ngữ có những dấu hiệu hình thức ổn định) và hành động ngôn trung thật
sự có thể được thực hiện bởi câu đó trong một tình huống giao tiếp cụ thể.
Một câu nói có hình thức bề mặt là hỏi nhưng giá trị ngôn trung của nó lại có
thể là cầu khiến, cảm thán. Cũng như vậy, một câu trần thuật có thể biểu hiện
nhiều đích ngôn trung khác nhau trong đó có cầu khiến. Chính vì vậy, vấn đề
1
nghiên cứu câu chia theo mục đích nói nói chung và câu cầu khiến nói riêng
dựa trên lí thuyết ngữ dụng phải được nhìn nhận lại. Mặt khác, nhìn từ góc độ
sử dụng, ta thấy câu cầu khiến là loại câu có vai trò vô cùng quan trọng trong
hoạt động giao tiếp. Trong các hành vi ngôn ngữ, nhóm cầu khiến là nhóm
hành vi rất đặc biệt, bởi vì khi thực hiện một hành vi cầu khiến là người nói
đã làm ảnh hưởng đến thể diện của người nghe. Nói cách khác, những phát
ngôn cầu khiến luôn tiềm tàng nguy cơ làm mất thể diện của người đối thoại.
Muốn đạt hiệu quả giao tiếp cao khi cầu khiến, người nói phải có nghệ thuật
trong việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ để chuyển tải nội dung yêu cầu
của mình. Xã hội càng phát triển, các mối quan hệ giữa con người với con
người ngày càng đa dạng, hành vi ngôn ngữ cầu khiến càng cần đến nhiều
hơn. Vì vậy bên cạnh việc nghiên cứu cấu trúc thì việc nghiên cứu ngữ nghĩa
và vấn đề sử dụng câu cầu khiến cũng thật sự là cần thiết.
Thế nhưng, trong Việt ngữ học, mảng nghiên cứu về vấn đề sử dụng
câu cầu khiến vẫn còn thiếu những công trình nghiên cứu sâu sắc và hệ thống.
Xem xét các công trình của các tác giả đi trước chúng tôi nhận thấy các tác
giả chỉ chú trọng nghiên cứu câu cầu khiến trên bình diện ngữ pháp, tìm ra
các dấu hiệu ngữ pháp để nhận diện, phân biệt câu cầu khiến với các kiểu loại
câu khác. Các giáo trình, các bài báo và các luận văn khác có đề cập đến vấn
đề dụng học của câu cầu khiến thì vẫn chưa tạo ra được cái nhìn toàn diện và
khái quát cần thiết. Tình hình đã có nhiều thay đổi, khi gần đây người ta thấy
xuất hiện một số công trình nghiên cứu có giá trị về các mặt cụ thể của câu
cầu khiến: về bình diện phương tiện biểu hiện hành động thỉnh cầu so sánh
giữa tiếng Anh và tiếng Việt (Nguyễn Văn Độ, [11], [12]); về sự hoạt động
của các phương tiện từ vựng và ngữ pháp trong việc biểu thị ý nghĩa cầu
khiến (Nguyễn Thị Hoàng Chi, [7]); về tính lịch sự trong câu cầu khiến tiếng
Việt (Vũ Thị Thanh Hương, [20], [23], [24]).
2
Những kết quả nghiên cứu này cho thấy hướng nghiên cứu câu cầu
khiến từ góc độ ngữ pháp chức năng, ngữ dụng học hoặc kết hợp ngữ dụng
học và ngôn ngữ học xã hội là hướng nghiên cứu cho nhiều kết quả khoa học,
lí thú. Tuy nhiên, những kết quả cụ thể này vẫn còn chưa thật toàn diện. Đó là
lí do thôi thúc chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu một cách sâu sắc và quy mô
hơn về một vấn đề cụ thể của câu cầu khiến tiếng Việt: sự thể hiện của các
yếu tố lịch sự.
2. Mục đích, ý nghĩa của luận văn
Mục đích của luận văn là từ cái nhìn khái quát, tiếp tục phương hướng
nghiên cứu của ngữ pháp chức năng xem xét một mặt cụ thể của câu cầu
khiến: tính lịch sự một cách toàn diện và hệ thống. Luận văn sẽ đề cập đến
các vấn đề sau:
Thứ nhất, xác định khái niệm cầu khiến.
Thứ hai, phân tích các đặc điểm về phép lịch sự và các yếu tố thể hiện
tính lịch sự trong câu cầu khiến tiếng Việt.
Chúng tôi tin tưởng rằng công trình của chúng tôi sẽ có ý nghĩa lí luận
và thực tiễn.
Về lí luận: luận văn làm rõ mức độ phổ quát của các lí thuyết ngữ dụng,
cụ thể là lí thuyết hành vi ngôn ngữ, lí thuyết tình thái, lí thuyết lịch sự, lí
thuyết quan yếu; góp phần hoàn thiện các kết quả nghiên cứu về một loại câu
cụ thể trong tiếng Việt: câu cầu khiến theo quan điểm mới của ngôn ngữ học
hiện đại.
Về thực tiễn: những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần
giải quyết nhiều vấn đề về sử dụng tiếng Việt. Thêm nữa, trong xu thế đổi
mới và hội nhập hiện nay, việc biên soạn sách giáo khoa cho người nước
ngoài đang cần có những nghiên cứu về những vấn đề cụ thể để giúp cho
người nước ngoài có thể nắm bắt được một cách dễ dàng hơn những đặc điểm
3
của tiếng Việt. Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là cơ sở để biên
soạn nội dung và xác định phương pháp dạy tiếng Việt cho người Việt và cho
người nước ngoài.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Trong điều kiện hiện tại, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu loại câu cầu
khiến đích thực trong tiếng Việt, có ngôn trung là cầu khiến, tức là trường hợp
kiểu câu (câu cầu khiến) có sự tương hợp thật sự với kiểu ngôn trung (hành vi
ngôn ngữ thuộc nhóm cầu khiến). Trong quá trình làm việc, luận văn cũng
đồng thời sử dụng những câu có hình thức là cầu khiến nhưng ngôn trung
không phải là cầu khiến, so sánh đối chiếu chúng với những câu cầu khiến
đích thực nhằm làm nổi bật những vấn đề luận văn đề cập và quan tâm.
Để tìm ra các đặc điểm thể hiện tính lịch sự của câu cầu khiến, loại câu
thường xuất hiện trong giao tiếp trực tiếp, chúng tôi đã tiến hành thống kê các
văn bản văn học (truyện, kịch) được xuất bản từ năm 1954 đến nay trong đó
ghi lại các cuộc thoại có hành vi cầu khiến được thể hiện qua các câu cầu
khiến đã được văn bản hóa.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu của mình, luận văn sẽ được tiến hành nghiên
cứu trên quan điểm ngữ pháp chức năng, nghiên cứu câu trong hoạt động
hành chức, đặt câu trong mối quan hệ với người nói, người nghe và hoàn cảnh
giao tiếp cụ thể. Phương pháp nghiên cứu của chúng tôi là đi từ cái trừu
tượng, cái khái quát đến cái cụ thể, chi tiết, từ tổng hợp đến phân tích và kết
hợp giữa tổng hợp và phân tích, đi từ nội dung đến hình thức, từ mục đích đến
phương tiện, từ ý nghĩa đến cấu trúc để tìm ra những đặc điểm về ngữ dụng
cũng như mối quan hệ giữa ý nghĩa và yếu tố hình thức của câu cầu khiến.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn có phối hợp sử dụng các phương
pháp cụ thể sau:
4
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân loại.
- Phương pháp so sánh,đối chiếu.
- Phương pháp thay thế.
_Phương pháp cải biến cú pháp.
Các phương pháp này được sử dụng linh hoạt nhằm làm bộc lộ bản chất
của các hiện tượng ngôn ngữ được nghiên cứu.
5. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn sẽ được kết cấu thành 3
chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương 1: Những cơ sở lý thuyết có liên quan
Nhiệm vụ của chương này là đưa ra những cơ sở lý thuyết có liên quan
đến đề tài. Đây là chương có tính chất lý luận và định hướng quan trọng làm
tiền đề cho những khảo sát cụ thể ở những chương sau.
Chương 2: Tiêu chí nhận diện câu cầu khiến tiếng Việt.
Nội dung của chương này là lí giải khái niệm câu cầu khiến, xác định
các tiêu chí nhận diện câu cầu khiến sau khi thảo luận về các quan điểm
nghiên cứu câu cầu khiến trong ngôn ngữ học truyền thống và hiện đại.
Chương 3: Sự hoạt động của những yếu tố thể hiện lịch sự trong câu
cầu khiến tiếng Việt.
Chương này dành để phân tích các đặc điểm riêng của tính lịch sự, các
yếu tố ảnh hưởng đến tính lịch sự khi cầu khiến và chỉ ra các phương thức để
đảm bảo tính lịch sự trong cầu khiến tiếng Việt.
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I
NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN
1. Lý thuyết hành động ngôn từ với việc phân biệt câu và phát ngôn
Khái niệm lực ngôn trung gắn liền với lý thuyết hành động ngôn từ hay
nói một cách khác, lý thuyết hành động ngôn từ nghiên cứu lực ngôn trung
của câu nói.
Năm 1955 tại trường tổng hợp Havard (Mỹ), J.L.Austin, một nhà triết
học người Anh đã trình bày 12 chuyên đề. Những chuyên đề này, năm 1962,
hai năm sau ngày ông mất được chính các học trò của ông tập hợp lại xuất
bản thành sách với nhan đề “How to do things with words” (Nói là hành
động).
Austin nhận thấy rằng, cho đến thời gian đó, các nhà ngữ nghĩa học chỉ
quan tâm tới nghĩa miêu tả của câu, xem chúng là đối tượng nghiên cứu cơ
bản. Nghĩa miêu tả của câu là nghĩa có thể được đánh giá theo tiêu chuẩn
đúng – sai logic.
Ví dụ: a.Nó cao.
b.Cô ấy đẹp.
Mục tiêu chính của Austin là xem xét lại điều mà ông nhìn nhận như là
ngụy thuyết miêu tả: quan điểm cho rằng cái chức năng của ngôn ngữ được quan
tâm duy nhất về mặt triết học là chức năng xây dựng những phán đoán đúng hay
sai. Ông đã phê phán cái thuyết cho rằng câu chỉ có nghĩa khi chúng biểu thị
những mệnh đề có thể kiểm tra được tính đúng hay sai bằng các ví dụ sau:
6
a.Cannibalism is wrong (Tục ăn thịt người là sai lầm).
b.Monet is a better painter than Manet (Monet là họa sĩ tài năng hơn
Manet).
Austin đã chỉ ra rằng, các câu trên không thể dùng để biểu thị các phán
đoán mang tính miêu tả mà chỉ có thể được dùng để biểu cảm, tức biểu thị
những xúc cảm của con người hoặc có thể cho rằng mặc dù những câu như
vậy có thể được dùng để biểu thị các phán đoán đúng – sai thì cái mà người
nói biểu thị, khi nói những câu đó, là những thái độ riêng (chúng tôi nhấn
mạnh – PTC) của họ hoặc của ai đó hơn là hiện thực khách quan. [64, 248].
Austin cho rằng, có những phát ngôn được thực hiện không nhằm miêu
tả các sự vật, sự việc; chúng không phải là những báo cáo về hiện thực mà là
nhằm làm một việc gì đó và những phát ngôn như vậy không thể đánh giá nội
dung theo tiêu chuẩn đúng – sai logic. Austin đã gọi những câu như vậy là
những phát ngôn ngôn hành. Austin đã lần đầu tiên nêu ra sự phân biệt giữa
phát ngôn tường thuật và phát ngôn ngôn hành. Theo định nghĩa, phát ngôn
tường thuật là phát ngôn nêu nhận định. Phát ngôn ngôn hành, trái lại, là phát
ngôn mà khi nói ra chúng, người nói hay người viết ra đã làm một điều gì đấy
hơn là nói một điều gì đấy [64, 249].
Ví dụ: a.Cháu mời chú uống nước.
b.Tôi xin lỗi anh.
Nội dung những câu như trên không thể có giá trị chân lí, nghĩa là
người ta không thể nói rằng nó đúng sự thật hay sai sự thật, như khi nói về
phát ngôn trần thuật bình thường.
Tuy nhiên, ở bước phát triển tiếp theo trong lý thuyết của mình, Austin
cho rằng, tất cả các phát ngôn đều là phát ngôn ngôn hành. Tất cả các phát
ngôn đều thể hiện những hành động bằng lời nào đó. Những phát ngôn như:
Anh ăn cơm chưa?; Ai ngủ?; Bao giờ chị về?... đều được dùng để thực hiện
7
hành động hỏi. Đến đây, Austin đã nêu ra sự phân biệt giữa phát ngôn ngôn
hành tường minh và phát ngôn ngôn hành nguyên cấp.
Phát ngôn ngôn ngôn hành tường minh trước hết là các phát ngôn có
chứa những động từ gọi là động từ ngôn hành (hứa, mời, xin lỗi, khuyên, đề
nghị. yêu cầu,...), ở hiện tại và chủ thể của động từ ngôn hành là người nói.
Còn phát ngôn ngôn hành nguyên cấp là phát ngôn không chứa động từ ngôn
hành. Đồng thời, Austin cũng phân biệt ba loại hành động ngôn ngữ trong
một phát ngôn: 1)Hành động tạo lời (sử dụng các yếu tố ngôn ngữ (ngữ âm,
từ vựng...) để tạo ra một phát ngôn có nội dung và hình thức nào đấy);
2)Hành động tại lời (hành động người nói thực hiện ngay khi nói năng);
3)Hành động mượn lời (thông qua câu nói mà tác động vào tâm lí của người
nghe làm vui mừng, xúc động, yên tâm...).
Cái mà Austin gọi là hành động tạo lời chính là việc tạo ra một phát
ngôn (tức phát – ngôn – thành – phẩm) với một dạng thức cụ thể và một ý
nghĩa ít nhiều xác định. Người ta có thể phát ngôn ra cùng một câu mà không
nhất thiết phải nói cùng một nội dung cũng như họ có thể nói cùng một nội
dung mà không nhất thiết phải phát ngôn ra cùng một câu. Người ta có thể
xác nhận cùng một mệnh đề bằng cách nói ra những câu khác nhau.
Ví dụ: Mẹ mắng tôi.
Tôi bị mẹ mắng.
Ngược lại, người ta có thể xác nhận những mệnh đề khác nhau bằng
cách nói ra cùng một câu trong những ngữ cảnh khác nhau và bằng cách gán
những giá trị khác nhau cho các biểu thức quy chiếu trong câu đó [64, 253].
Ví dụ câu: Bạn tôi đang đợi tôi.
có thể biểu thị vô số những mệnh đề khác nhau tùy thuộc vào giá trị
được gán cho “bạn tôi”, “tôi” và cái thời gian được quy chiếu bởi thời của
động từ. Và như vậy, đến đây chúng ta thấy rằng có một sự phân biệt quan
8
trọng giữa việc phát ngôn ra câu và việc xác nhận mệnh đề hay là sự phân biệt
giữa phát ngôn (hành vi) và câu (kiểu câu).
Ngữ pháp truyền thống đã lầm lẫn giữa hai khái niệm này. Câu là thuộc
bình diện ngữ pháp còn phát ngôn là thuộc bình diện ngữ dụng. “Câu không
phải là một sự kiện vật chất, cũng không phải là một đối tượng vật chất. Hiểu
một cách trừu tượng, nó là một chuỗi các từ đặt cạnh nhau theo một quy tắc
ngữ pháp của mỗi một ngôn ngữ” [2, 18]. Còn phát ngôn “là một chuỗi lời nói
bất kì do một người nói ra, trước và sau nó có một khoảng im lặng về phía
người nói” [2, 17]. Như vậy, phát ngôn là một sự kiện vật chất, nó chóng lụi
tàn, tắt theo luồng hơi thở. Một câu nói với tư cách là đơn vị giao tiếp, được
hiện thực hóa trong một thời gian cụ thể, không gian cụ thể thì được gọi là
một phát ngôn. Một câu nói có thể giống nhau ở nhiều người nhưng cũng phải
được coi là những phát ngôn khác nhau. Phát ngôn phụ thuộc rất nhiều vào
ngữ cảnh, một phát ngôn có thể giống hoàn toàn về mặt từ ngữ, trật tự từ so
với phát ngôn trước đó nhưng ý định phát ngôn đã có thể khác đi. Câu thì
không lệ thuộc vào ngôn cảnh. Có thể nói rằng câu là một chuỗi các từ kết
hợp theo các quy luật ngữ pháp ẩn mình đằng sau các dạng hiện thực hóa
khác nhau là phát ngôn. “Nói chung, phát ngôn được xây dựng trên câu.
Không có câu thì không có phát ngôn” [Dẫn theo Đỗ Hữu Châu].
Sự phân biệt ở đây là phát ngôn với tư cách là đơn vị lời nói, có những
thuộc tính phi ngôn ngữ học như thời gian và địa điểm phát ngôn, ý định của
người nói. Về dụng học, một phát ngôn gắn với thời điểm phát ngôn, một
mệnh đề P đúng trong một thời điểm này nhưng lại không đúng trong một
thời điểm khác. “Nêu ra một nhận định hay một sự xác nhận thì không phải
thực hiện một hành động tạo lời kiểu này chứ không phải tạo lời kiểu nọ; đó
là sự thực hiện một hành động tạo lời mà sản phẩm của nó, tức một hiện dạng
– phát ngôn mang một lực ngôn trung khác” [64, 248].
9
Chúng ta sử dụng ngôn ngữ để hỏi, để yêu cầu, để đe dọa và cả để thực
hiện các hành động ngôn hành, nghĩa là có nhiều chức năng khác nhau mà
ngôn ngữ có thể thực hiện và tương ứng là có nhiều lực ngôn trung khác nhau.
Nhưng số lượng lực ngôn trung trong ngôn ngữ nói chung là bao nhiêu thì
cho đến nay, người ta vẫn chưa thể thống kê hết được. Lực ngôn trung phụ
thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh. Lực ngôn trung hay hiệu lực tại lời của phát
ngôn bị quy định bởi 3 nhân tố:
+ Dạng thức ngôn ngữ của phát ngôn.
+ Ý định của người nói.
+ Khả năng hiểu của người nghe.
Ví dụ: a.Tôi không nói.
b.Tôi nói sao được.
c.Nào tôi có nói.
Cả ba câu trên đều phản ánh sự tình “tôi không nói” nhưng cách dùng
khác nhau. Câu b) để từ chối, câu c) để thanh minh, còn câu a) có tiềm năng
cho cả hai cách dùng. Để từ chối lời đề nghị “Cô nói với anh ấy việc này giúp
tôi”, có thể dùng a) hoặc b) nhưng không thể dùng c). Đứng trước lời trách
móc “Sao cô lại nói việc này với anh ấy”, có thể thanh minh bằng a) hoặc c)
nhưng không thể dùng b) để thanh minh.
Trở lại với đối tượng nghiên cứu của luận văn, đối với việc tìm hiểu các
yếu tố lịch sự trong câu cầu khiến tiếng Việt, chúng tôi thực hiện nghiên cứu
của mình trên cơ sở tư liệu là câu cầu khiến được sử dụng trong giao tiếp với tư
cách là các phát ngôn có lực ngôn trung (hiệu lực tại lời) đích thực là cầu khiến.
2. Vấn đề tình thái trong ngôn ngữ học
Vấn đề tình thái đã được nghiên cứu từ lâu trong logic học và trong ngữ
pháp truyền thống. Trong những năm gần đây, vấn đề này nổi lên như là trung
10
tâm chú ý và được đi sâu nghiên cứu trong ngôn ngữ học. Tuy nhiên , khái
niệm tình thái được các tác giả hiểu không giống nhau. V.Z.Panfilov đã từng
nhận xét “không có phạm trù nào mà bản chất ngôn ngữ học và thành phần
các ý nghĩa bộ phận lại gây ra nhiều ý kiến khác biệt và đối lập nhau như
phạm trù tình thái” [40, 215].
Ch. Bally, nhà ngôn ngữ học Pháp là một trong ngững người đi tiên
phong trong việc nghiên cứu về tình thái. Theo ông, cấu trúc ngữ nghĩa của
câu được chia ra làm hai phần cơ bản Modus và Dictum. Trong đó Dictum là
bộ phận biểu thị một nội dung sự tình ở dạng tiềm năng nào đó, nó gắn với
chức năng thông tin, chức năng miêu tả của ngôn ngữ. Modus là bộ phận tình
thái, gắn với bình diện tâm lí, thể hiện những nhân tố thuộc phạm vi cảm xúc,
thái độ của người nói đối với sự tình, với người đối thoại và đối với hoàn cảnh
giao tiếp. Modus tham gia vào quá trình thực tại hóa, biến nội dung sự tình
còn ở dạng tiềm năng thuộc phát ngôn hiện thực.
Sau Ch. Bally, có không ít tác giả và các trường phái ngữ pháp khác
nhau (như ngữ pháp cách của Fillmore, ngữ pháp cải biến tạo sinh của N.
Chomsky hay ngữ pháp chức năng) nhấn mạnh đến vai trò của tính tình thái
như là một thành tố nội dung quan trọng của câu nói. Trước hết, cần phân biệt
tình thái khách quan và tình thái chủ quan. Logic học quan tâm đến tính chân
ngụy (tính đúng sai) của mệnh đề và chú trọng rất nhiều đến tình thái khách
quan với các phạm trù là tính tất yếu, tính khả năng và tính hiện thực của nội
dung mệnh đề. Tình thái khách quan đã loại trừ vai trò của người nói. Trong
khi đó, ngôn ngữ học lại chủ yếu quan tâm đến tình thái chủ quan và xác định
tình thái là một bộ phận thuộc nội dung ngữ nghĩa của câu. Tuy nhiên, phạm vi ý
nghĩa tình thái được các tác giả hình dung một cách khác nhau. Hầu như các nhà
ngữ học, ở các mức độ khác nhau, đều bộc lộ quan điểm dụng học của mình khi
đề cập đến yếu tố con người trong các định nghĩa khác nhau về tình thái:
11
“Tình thái là thái độ của người nói đối với nội dung mệnh đề mà câu
biểu thị hay cái sự tình mà mệnh đề đó miêu tả” [J.Lyons, 1977,425].
“Tình thái là thông tin ngữ nghĩa của câu thể hiện thái độ hoặc ý kiến
của người nói đối với điều được nói đến trong câu” [Palmer 1986, 14] và chủ
trương phân biệt “tình thái và nội dung mệnh đề”.
Bybee lại hiểu tình thái theo một nghĩa rộng hơn, như là tất cả những gì
mà người nói thực hiện cùng với toàn bộ nội dung mệnh đề.
Theo cách hiểu hiện đại nhất, tính tình thái trong ngôn ngữ học được
xem là phạm trù ngữ nghĩa – ngữ pháp gắn liền với chủ thể nói năng, với các
nhân tố ngữ dụng học. Tình thái của câu nói được mở rộng, không chỉ bao
gồm thái độ, cách đánh giá của con người đối với điều được nói ra mà còn cả
mục đích, các hiệu lực tại lời và mượn lời cũng như những tiền giả định của
người nói với trạng thái hiểu biết, cảm xúc của người nghe và các nhân tố
khác của tình huống giao tiếp. Cấu trúc ngữ nghĩa của câu (S) được hiểu là sự
kết hợp của khung tình thái (M) và mệnh đề (P).
S=M+P
Ở Việt Nam gần đây cũng có một số tác giả như Hoàng Trọng Phiến
với “Ngữ pháp tiếng Việt (câu)”, Đinh Văn Đức “Ngữ pháp tiếng Việt – từ
loại” hay Cao Xuân Hạo “Tiếng Việt – sơ thảo ngữ pháp chức năng” đã
nghiên cứu về tình thái. Ngoài ra, còn một số bài viết từ những năm 80 đến
nay của các tác giả: Hoàng Phê, Hoàng Tuệ, Đỗ Hữu Châu, Phan Mạnh Hùng,
Phạm Hùng Việt, Phạm Thị Ly, Nguyễn Văn Hiệp...
Hoàng Trọng Phiến trong khi khẳng định tính tình thái như một thuộc
tính cố hữu của câu, cũng hàm ý một góc độ tri nhận của người nói với việc
biểu diễn thế giới, thể hiện ở việc biến đổi môi trường tri nhận ở người nghe:
12
“Tình thái là phạm trù ngữ pháp của câu ở dạng tiềm năng, nó có mặt
trong tất cả các kiểu câu. Điều này thể hiện ở chỗ các câu có giá trị thời sự, nó
có tác dụng thông báo một điều mới mẻ. Qua đó, người nghe hiểu rằng người
nói có thái độ thế nào đối với hiện thực”.
Từ góc độ dụng học, Đỗ Hữu Châu đã nhấn mạnh tính chất động của
thành phần ngữ nghĩa này với nhận định:
“Tình thái bao gồm toàn bộ những ý nghĩa thuộc phạm vi dụng học và
hợp lại thành thông điệp bộc lộ kèm lõi P của câu”.
Cũng với tinh thần trên, Hoàng Tuệ đã nhận định cụ thể hơn về thành
phần thông tin liên nhân này.
“Tình thái là một khái niệm trong sự phân tích theo cách nhìn tìm đến
thái độ của người nói trong hoạt động phát ngôn, tức cũng là tìm đến tác động
ngữ dụng, tác động mà người nói muốn tạo ra ở người nghe trong thực tiễn
hoạt động ngôn ngữ”.
Đặc biệt đáng chú ý nhất là công trình “Tiếng Việt – sơ thảo ngữ pháp
chức năng” của tác giả Cao Xuân Hạo. Ông đã xuất phát từ góc độ ngữ nghĩa
chức năng, xác định tình thái của câu được biểu thị trong cú pháp cơ bản (cấu
trúc Đề – Thuyết) gồm có:
- Nhận định của người nói về giá trị chân ngụy của điều định nói ra
trong câu (khẳng định, phủ định, ngờ vực, nêu rõ phạm vi giới hạn và điều
kiện của tính chân lí).
- Về tính khả năng hay tính tất yếu của điều đó (có thể hay không thể, tất
nhiên hay không tất nhiên, mức độ cao hay thấp của tính khả năng, tính tất yếu).
- Các đánh giá của người nói đối với sự tình được truyền đạt (đáng
mừng hay đáng tiếc, đáng hi vọng hay e ngại, nên có hay không nên có...).
- Sự giới thiệu của người nói về tính chất của câu nói (tính thành thật,
đơn giản, áng chừng hay chính xác...).
13
- Mối quan hệ giữa câu nói với tình huống đối thoại hay đối với ngôn
cảnh và nhiều nội dung khác thuộc lĩnh vực logic và siêu ngôn ngữ [15, 175].
Theo đó, ông đã phân loại tình thái theo hai bình diện:
(a)Tình thái của lời phát ngôn bao gồm:
- Thái độ của người nói đối với điều được nói ra (tình thái câu).
- Sự tình do phần Thuyết hạt nhân biểu thị (tình thái lõi vị ngữ).
(b)Tình thái của hành động phát ngôn liên quan đến giá trị ngôn trung
của câu nói, căn cứ vào nó người ta phân biệt giữa trần thuật, hỏi và cầu
khiến, thường được ngữ pháp hóa trên bề mặt cấu trúc.
Ở một góc độ khác, có tác giả chấp nhận cách phân chia phạm trù tình
thái thành tình thái chủ quan và tình thái khách quan.
Tình thái khách quan là dấu hiệu tất yếu của một phát ngôn bất kì, thể
hiện mối quan hệ giữa cái được thông báo với thực tế ở bình diện hiện thực và
phi hiện thực tính. Tình thái khách quan xoay quanh phạm trù: tính tất yếu,
tính khả năng và tính hiện thực của nội dung mệnh đề.
Tình thái chủ quan là dấu hiệu không bắt buộc của một phát ngôn, thể
hiện mối quan hệ của người nói đối với điều được nói ra. Dung lượng ngữ
nghĩa của tình thái chủ quan rộng hơn dung lượng ngữ nghĩa của tình thái
khách quan và không đồng loại. Cơ sở ngữ nghĩa của tình thái chủ quan
không chỉ bao gồm các đánh giá logic (lí tính, duy lí) về điều được thông báo
mà còn gồm cả các dạng khác nhau về phản ứng có cảm xúc (phi lí tính) [40,
217]. Nói một cách khác, khi đi vào ngôn ngữ, các phạm trù của tình thái
khách quan đã được biểu thị thành một bảng màu tình thái đa dạng và liên tục,
trong đó nổi lên vai trò chủ quan của người nói. Người nói đánh giá, bày tỏ
thái độ đối với điều được nói ra, xem điều ấy là tất yếu hay không tất yếu, là
hiện thực hay phi hiện thực. Tình thái trong ngôn ngữ được gọi là tình thái
chủ quan.
14
Trong phạm vi tình thái chủ quan, các nhà nghiên cứu đã phân biệt hai
phạm trù chính là tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa.
Tình thái nhận thức không chỉ liên quan đến tính khả năng hay tính tất
yếu mà còn liên quan đến mức độ cam kết của bản thân người nói đối với điều
được nói ra. Theo J.Lyons thì tình thái nhận thức là tất cả những trường hợp
trong đó khi phát ra một câu nói, người nói biểu hiện một cách hiển ngôn sự
cam kết cá nhân đối với tính chân thực của câu nói. Tình thái nhận thức được
chia ra thành ba phạm trù là: tình thái thực hữu (factive), tình thái không thực
hữu (non – factive), tình thái phản thực hữu (counter – factive).
Theo đó, tình thái thực hữu được hiểu là trong một phát ngôn người nói
hoặc là đảm bảo điều được nói tới (mệnh đề P) là chân thực khách quan hoặc
là hoàn toàn tin tưởng vào tính tất yếu khó có thể khác được của điều ấy.
Tình thái không thực hữu được đánh dấu bằng các phương tiện mà khi
dùng người nói không cam kết, đảm bảo về tính chân thực, đúng hay không
đúng của điều được nói ra.
Tình thái phản thực hữu được hiểu là kiểu tình thái thể hiện sự thừa
nhận, xác nhận của người nói đối với tính không chân thực, giả dối, sai lầm
của sự tình P được nói tới trong câu.
Hành vi cầu khiến là một trong những hành vi ngôn ngữ liên quan đến
tình thái đạo nghĩa. Theo F.R.Palmer thì tình thái đạo nghĩa liên quan đến tính
hợp thức về đạo lí do một người nào đó hay do chính người nói thực hiện [40,
217].
Còn theo J.Lyons thì “tình thái đạo nghĩa liên quan đến tính tất yếu hay
tính có thể của hành vi được thực hiện bởi một chủ thể có trách nhiệm về đạo
đức”. Nói một cách cụ thể hơn, cầu khiến là một hành vi ngôn ngữ mà tính
hiện thực của nó chịu ảnh hưởng của các quy tắc đạo đức, nghĩa vụ và các
15
chuẩn mực xã hội. Đó là các phạm trù về “tính nghĩa vụ, sự cho phép, sự cấm
đoán và sự miễn trừ” [40, 217].
Hành động nói đến trong phát ngôn có thể mang tính bắt buộc tức hành
động đó tất yếu phải được thực hiện. Nhưng hành vi cầu khiến có thể được
đặt ra đối với những hành động không bắt buộc, thể hiện qua sự cho phép, tức
hành động chỉ được xem là có thể thực hiện mà thôi.
3. Một số vấn đề về lí thuyết lịch sự
Sự ra đời và phát triển của lí thuyết lịch sự được đánh dấu bằng các
công trình nghiên cứu của R. Lakoff, P. Brown và S. Levinson, Leech, W.
Edmondson, B. Fraser, Grice... từ những năm 70 của thế kỉ XX.
Phép lịch sự thực chất đã được tiếp cận từ rất nhiều góc độ khác nhau:
- Từ thời xa xưa, nhiều nhà dân tộc học và văn hóa học đã đề cập tới
phép lịch sự như là một chuẩn mực xã hội.
- Các công trình nghiên cứu của R. Lakoff (1973, 1989), của Leech
(1980), W. Edmondson (1981), A. Kasher (1986)... tiếp cận về phép lịch sự
dưới góc độ một phương châm hội thoại.
- P. Brown và S. Levinson trên cơ sở phát triển lí thuyết về phép lịch sự
của I. Goffman đã tiếp cận về phép lịch sự như một hành vi giữ gìn thể diện.
- B. Fraser (1990) nhìn nhận phép lịch sự dưới góc độ của sự hợp tác hội thoại
Dưới đây, chúng tôi chỉ xin điểm qua quan điểm của một số nhà nghiên
cứu về phép lịch sự, coi đó là cơ sở lí thuyết để nghiên cứu về phép lịch sự
trong câu cầu khiến tiếng Việt.
Theo nữ tác giả R. Lakoff, lịch sự là sự tôn trọng nhau. Nó là biện pháp
dùng để giảm bớt trở ngại trong tương tác giao tiếp giữa các cá nhân. Bà cho
rằng, để giao tiếp thành công, cần thực hiện hai quy tắc sau:
(1) Diễn đạt rõ ràng.
16
(2) Lịch sự trong giao tiếp.
Cụ thể hóa quy tắc “lịch sự trong giao tiếp”, R. Lakoff đề xuất 3 á quy
tắc sau:
- Á quy tắc 1: Không dồn ép/ không áp đặt (dùng trong nghi lễ chính
thức hay trong ngoại giao).
- Á quy tắc 2: Để ngỏ sự lựa chọn (dùng trong bối cảnh không nghi lễ
chính thức).
- Á quy tắc 3: làm cho người nói chuyện với mình cảm thấy thoải mái
(dùng trong bối cảnh gần gũi, thân mật).
Theo Leech (1980) nói đến lịch sự là nói đến vấn đề tổn thất và lợi ích.
Có những hành vi tại lời mang bản chất cố hữu là không lịch sự (như hành vi
ra lệnh) và có những hành vi mang bản chất là lịch sự (như hành vi khen
tặng). Thực ra, quan điểm này của Leech chưa hoàn toàn đúng đắn. Tính lịch
sự trong các hành vi ngôn ngữ còn phụ thuộc vào tình huống giao tiếp. Có
những hành vi ra lệnh vẫn được coi là không vi phạm nguyên lí lịch sự.
Leech cho rằng, nguyên tắc đảm bảo phép lịch sự là tối thiểu hóa
những lối nói bất lịch sự (lịch sự tiêu cực) và tối đa hóa những lối nói lịch sự
(lịch sự tích cực). Leech đã đề ra các tiêu chí sau về phép lịch sự:
- Tiêu chí khéo léo: giảm tối thiểu những điều bất lợi và tăng tối đa
những điều có lợi cho người nghe.
- Tiêu chí mê-ta (siêu tiêu chí đối với tiêu chí 1): không dồn ép người
nghe vào tình thế bất lợi bắt họ phải phá vỡ tiêu chí 1.
- Tiêu chí hào phóng: giảm tối thiểu những điều có lợi cho mình và
tăng tối đa những điều có lợi cho người nghe.
- Tiêu chí rộng lượng/ tán thưởng: giảm tối thiểu những điều chê bai,
tăng tối đa những điều khen ngợi đối với người nghe.
17
- Tiêu chí khiêm tốn: giảm tối thiểu việc tự khen mình, tăng tối đa
những điều chê bai mình.
- Tiêu chí tán đồng: giảm tối thiểu sự bất đồng, tăng tối đa sự hưởng
ứng đồng tình giữa mình và người khác.
- Tiêu chí cảm thông: giảm tối thiểu sự ác cảm, tăng tối đa mối thiện
cảm giữa mình với người khác.
Đối chiếu các điểm nói trên của R. Lakoff và Leech, ta thấy chỗ khác
nhau cơ bản giữa 3 á quy tắc của Lakoff và 7 tiêu chí của Leech là:
- 3 á quy tắc chỉ hướng về người nghe, nhưng có tính đến bối cảnh nghi
lễ chính thức/ không chính thức (á quy tắc 1, 2) và bối cảnh gần gũi, thân mật
(á quy tắc 3).
- 7 tiêu chí hướng cả về phía người nói lẫn người nghe nhưng không
tính đến bối cảnh giao tiếp.
Tuy nhiên, về mặt nội dung, ta thấy 3 á quy tắc của R. Lakoff có quan hệ
chặt chẽ với 7 tiêu chí của Leech và ít nhiều được cụ thể hóa ở 7 tiêu chí này:
- Các tiêu chí 1, 2, 3 của Leech cụ thể hóa các á quy tắc 1, 2 của R.
Lakoff (không dồn ép và để ngỏ sự lựa chọn).
- Mỗi tiêu chí trong các tiêu chí 4, 5, 6, 7 của Leech là cách cụ thể hóa
á quy tắc 3 của R. Lakoff (làm cho người nghe cảm thấy thoải mái).
Goffman cho rằng thể diện của con người liên quan đến sự tồn tại về
phương diện xã hội - tâm lí của một cá nhân trong giao tiếp. Vì vậy, trong
giao tiếp, mỗi con người cần thực hiện những điều để cho các hành động của
mình giữ được thể diện của mọi người và của chính mình.
P. Brown Và S. Levinson là hai tác giả cũng có nhiều đóng góp trong
lĩnh vực nghiên cứu về lịch sự. Phát triển nguyên tắc tôn trọng thể diện mà
Goffman đề xướng, hai ông đưa ra bốn định hướng trong sự phân định những
18
hành động tự thân có thể làm phương hại đến thể diện (FTA) trong đó, hai
định hướng nhằm vào người nghe và hai định hướng nhằm vào người nói:
(1) Hành động có chiều hướng làm tổn thương đến thể diện và tự do
của người nghe (như hành động ra lệnh, chỉ bảo, dọa nạt).
(2) Hành động có chiều hướng làm thương tổn đến uy tín, lòng tự hào và
lòng tự trọng của người nghe (như hành động phàn nàn, phê bình, phản đối).
(3) Hành động phương hại đến thể diện và tự do của người nói (như hành
động chấp thuận yêu cầu, tiếp nhận lời cảm ơn, hứa hẹn một cách miễn cưỡng).
(4) Hành động làm phương hại đến uy tín, thanh danh, lòng tự trọng
của người nói (như hành động xin lỗi, nâng đón lời khen, thú nhận).
Những định hướng này cũng là những tiêu chí đánh giá giúp cho những
người tham gia giao tiếp điều chỉnh để cho tính chất bất lịch sự không xảy ra.
P. Brown và S. Levinson cũng lưu ý rằng, những định hướng trên có
tính chất chung cho mọi cộng đồng. Vì vậy, để đạt được mục đích lịch sự,
mỗi cộng đồng cần tạo dựng cho mình những quy ước, chuẩn mực riêng sao
cho các hành động tự thân kia không làm tổn thương đến thể diện của người
khác.
P. Brown và S. Levinson phân biệt hai loại thể diện: Thể diện dương
tính và thể diện âm tính. Thể diện dương tính (thể diện tích cực) được hiểu là
“sự mong muốn của mỗi thành viên về việc những điều mình muốn cũng phải
là những điều mong mỏi ít ra là của một số người khác” và “niềm mong mỏi
thường tồn là những điều anh ta muốn phải được người khác nghĩ đến như là
điều mong mỏi”, nghĩa là mong muốn mình được khẳng định, được người
khác tôn trọng, bênh vực, ủng hộ. Thể diện âm tính (thể diện tiêu cực) được
hiểu là “sự mong muốn của mỗi thành viên lớn tuổi và có năng lực hiểu biết,
về việc hành động của mình không bị người khác ép buộc, mong muốn được
tự do hành động và trù tính”, nghĩa là mong muốn được người khác tôn trọng
19
- Xem thêm -