ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
TRẦN THỊ HỒNG TRANG
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
H À N ỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
TRẦN THỊ HỒNG TRANG
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.20
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS HÀ QUANG NGỌC
H À N ỘI - 2011
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................
3
Chƣơng 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ THAM NHŨNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẢNG
CẦM QUYỀN TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG ......
10
1.1.Lí luận chung về tham nhũng ........................................................
10
1.1.1. Khái niệm, bản chất của tham nhũng ........................................
10
1.1.2. Nguồn gốc của tham nhũng .......................................................
13
1.1.3. Tác hại của tham nhũng ...........................................................
17
1.2. Sự lãnh đạo của đảng cầm quyền trong đấu tranh phòng chống
tham nhũng ..........................................................................................
21
1.2.1. Sự lãnh đạo của đảng cầm quyền đối với đời sống xã hội...........
21
1.2.2. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng ...................... .............................................
24
1.3. Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nƣớc trên thế
giới .......................................................................................................
27
Chƣơng 2: VẤN ĐỀ THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM VÀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG ...................
33
2.1. Đặc điểm tình hình tham nhũng ở Việt Nam hiện nay ...................
33
2.2. Nội dung Đảng lãnh đạo đấu tranh phòng chống tham nhũng ở
Việt Nam hiện nay ...............................................................................
39
2.2.1. Đánh giá đúng thực trạng tình hình tham nhũng và công tác đấu
tranh phòng chống tham nhũng ............................................................
1
39
2.2.2. Đảng xác định mục tiêu, quan điểm đấu tranh phòng, chống
tham nhũng .........................................................................................
43
2.2.3. Đảng chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện hệ thống các giải
pháp đồng bộ trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng ...................
47
2.2.4. Đảng lãnh đạo các lực lượng xã hội, Mặt trận Tổ quốc, báo
chí trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ............................
51
2.2.5. Lãnh đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong nội bộ
Đảng ...................................................................................................
55
2.2.6. Đảng lãnh đạo thông qua công tác kiểm tra, giám sát việc thực
hiện đường lối, nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà
nước về phòng, chống tham nhũng ......................................................
56
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG SỰ
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM
NHŨNG ...............................................................................................................
59
3.1. Xu hƣớng tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian tới...................
59
3.2. Quan điểm đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng ...........
62
3.3. Phƣơng hƣớng nhằm tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng trong
công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ......................................
66
3.4. Một số giải pháp tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng trong đấu
tranh phòng, chống tham nhũng ...........................................................
72
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .......................................................................
85
KẾT LUẬN .........................................................................................
87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................
89
2
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Tham nhũng là một hiện tƣợng lịch sử gắn liền với sự ra đời của nhà
nƣớc và quyền lực. Hiện nay tham nhũng đã trở thành một vấn nạn chung
đáng báo động của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Tình trạng tham nhũng
lan tràn đang phá hoại cuộc chiến chống đói nghèo trên toàn thế giới và hủy
hoại nền kinh tế của các nƣớc, đặc biệt là các nƣớc đang và kém phát triển.
Nhận thấy đƣợc tác hại nguy hiểm của vấn đề này đối với mỗi quốc gia nói
riêng và toàn thế giới nói chung nên năm 2003, Liên Hợp Quốc đã đƣa ra
Công ƣớc chống tham nhũng và đến nay đã đƣợc trên 100 quốc gia phê
chuẩn. Ngày 30 - 6 - 2009, Chủ tịch nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã ký phê chuẩn Công ƣớc của Liên hợp quốc về chống tham nhũng,
tham gia vào khuôn khổ pháp lý toàn cầu cho sự hợp tác phòng, chống tham
nhũng.
Tham nhũng gây tác hại làm giảm sút lòng tin của công dân đối với bộ
máy, cán bộ, viên chức nhà nƣớc, triệt tiêu động lực của sự phát triển. Hay
nói nhƣ V.I.Lênin: nếu có cái gì đó có thể triệt tiêu đƣợc chủ nghĩa xã hội thì
đó chính là tham nhũng, quan liêu. Đối với Việt Nam hiện nay, chúng ta đang
trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới đất nƣớc, sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa bƣớc đầu đạt đƣợc những thành tựu quan trọng nhƣ: kinh tế
tăng trƣởng nhanh, chính trị - xã hội ổn định, an ninh - quốc phòng vững
mạnh, đời sống của nhân dân ngày càng đƣợc nâng cao… Nhƣng bên cạnh đó
vẫn còn tồn tại một số hạn chế đe dọa nghiêm trọng tới chế độ và cản trở sự
phát triển của quốc gia, trong số những hạn chế đó phải đặc biệt nói đến hiện
tƣợng tham nhũng đang ngày càng lan rộng trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Hơn nữa trong bối cảnh quốc tế hiện nay, các thế lực thù địch thƣờng
3
xuyên lợi dụng những sơ hở để chống phá cách mạng nƣớc ta, làm ảnh hƣởng
đến sự nghiệp đổi mới của đất nƣớc và làm giảm lòng tin của nhân dân với
Đảng, với chế độ. Tham nhũng đang là lực cản lớn đối với việc thực hiện mục
tiêu: dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà chúng ta
đang hƣớng tới. Thực tế cho thấy tham nhũng đang gia tăng ở Việt Nam cả về
số lƣợng cũng nhƣ mức độ phức tạp và quy mô, chính vì thế Đảng ta đã chỉ
rõ: tham nhũng là một trong bốn nguy cơ cản trở sự phát triển bền vững của
đất nƣớc, là nguyên nhân kìm hãm bƣớc tiến của công cuộc đổi mới, tiềm ẩn
nguy cơ đe dọa an ninh chính trị, kinh tế, xã hội, làm giảm sút lòng tin của
nhân dân với Đảng. Do vậy đấu tranh phòng, chống tham nhũng là sự nghiệp
của Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân, trong đó vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự
nghiệp chung ấy có ý nghĩa chiến lƣợc và quyết định sự thành bại.
Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh chống
tham nhũng là vấn đề tất yếu và sống còn của sự nghiệp cách mạng Việt Nam
hiện nay. Với bản lĩnh của một đảng cách mạng, với tinh thần nhìn thẳng vào
sự thật, dũng cảm vạch ra những sai lầm, yếu kém, Đảng ta xác định đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí là nhiệm vụ trọng tâm, trƣớc
mắt, một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm
cho Đảng trong sạch, vững mạnh. Thực hiện chủ trƣơng của Đại hội X về
việc kiên quyết đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, Hội nghị lần
thứ ba Ban chấp hành Trung ƣơng đã thảo luận và ra Nghị quyết về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng”.
Trên tinh thần đó, Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) một lần nữa khẳng định:
Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí là nhiệm vụ rất quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài của
công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nƣớc.
4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tham nhũng là một vấn nạn nhức nhối của hầu hết các quốc gia trên
thế giới, nó đe dọa nghiêm trọng tới sự tồn vong và phát triển của đất nƣớc.
Chính vì tính phổ biến và tác hại của tham nhũng nên đã có nhiều nhà khoa
học, tìm hiểu, nghiên cứu về hành vi tham nhũng ở nhiều khía cạnh khác nhau
(nguồn gốc, nguyên nhân, biểu hiện, tác hại, giải pháp…) ở nhiều nơi trên thế
giới để từ đó đề xuất các phƣơng hƣớng và biện pháp khắc phục. Ở Việt Nam,
tham nhũng đƣợc Đảng và Nhà nƣớc đặc biêt quan tâm, coi đó là quốc nạn
cần đẩy lùi. Trong giai đoạn hiện nay, tác hại của tham nhũng càng nghiêm
trọng, nó ảnh hƣởng trực tiếp tới công cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Đây là vấn đề thu hút đƣợc nhiều sự quan tâm của
các nhà khoa học, đã có rất nhiều các công trình khoa học ở các cấp đề cập tới
tham nhũng và tác hại của nó.
- Đề tài khoa học ban Đảng (2003): “Tham nhũng và giải pháp chống
tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”, đã phân tích rõ bản chất, đặc điểm,
nguyên nhân và điều kiện thực hiện hành vi tham nhũng, luận chứng các giải
pháp về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam.
- Đề tài độc lập cấp Nhà nƣớc (2006): “Luận cứ khoa học cho việc xây
dựng chiến lƣợc phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tham
nhũng ở Việt Nam đến năm 2020”. Đây là đề tài có quy mô lớn, luận chứng
cơ sở lý luận - thực tiễn cho việc hoạch định Chiến lƣợc phòng, chống tham
nhũng.
- Luận án tiến sĩ triết học của tác giả Lê Văn Cƣơng năm 1992 “Chống
tham nhũng ở nƣớc ta hiện nay” đã trình bày quan niệm về tham nhũng trong
5
các chế độ xã hội, tính chất, đặc điểm, hậu quả của tham nhũng ở Việt Nam
và đề ra các biện pháp chống tham nhũng.
- Luận án tiến sĩ “Khắc phục sự thoái hóa, biến chất của đảng viên
trong công cuộc đổi mới ở nƣớc ta hiện nay” (1996), dƣới góc độ xây dựng
Đảng, tác giả Ngô Kim Ngân đã nêu ra các dạng biểu hiện chủ yếu của sự
thoái hóa, biến chất của đảng viên, trong đó tình trạng quan liêu, tham nhũng
là một dạng thoái hóa biến chất của đảng viên.
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Duy Hiển năm 2001
“Đổi mới tƣ duy pháp lý đấu tranh chống tham nhũng”. Dƣới góc độ luật
pháp, tác giả đã phân tích thực trạng tƣ duy pháp lý về phòng chống tham
nhũng, những quy định của pháp luật hiện hành về tham nhũng và chống
tham nhũng, từ đó đƣa ra các giải pháp nhằm đổi mới tƣ duy pháp lý trong
cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Ngoài ra còn có nhiều cuốn sách, nhiều bài viết trong các tạp chí đề cập
đến tình trạng tham nhũng trong Đảng và trong xã hội hiện nay nhƣ: “Tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh với vấn đề chống tham nhũng” của tác giả Bùi Mạnh
Cƣờng (NXB Lao động xã hội, 2003). Tác giả đã sƣu tầm, tập hợp các bài
viết, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề tham nhũng qua
từng giai đoạn lịch sử. Năm 2010, NXB Chính trị quốc gia đã xuất bản cuốn
sách “Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở
Việt Nam hiện nay” của tập thể các tác giả do PGS.TSKH Phan Xuân Sơn và
Th.S Phạm Thế Lực đồng chủ biên. Trong cuốn sách, tập thể các tác giả đã
trình bày thực trạng tham nhũng và quyết tâm của Đảng về phòng chống tham
nhũng ở Việt Nam, đề ra những phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nƣớc ta hiện nay.
6
Tham nhũng là một đề tài có tính thời sự và dành đƣợc sự quan tâm của
rất nhiều các học giả, các nhà khoa học. Trong các công trình nghiên cứu, các
cuốn sách và tạp chí, hiện tƣợng tham nhũng đƣợc xem xét, tiếp cận dƣới
nhiều góc độ khác nhau và từ đó các tác giả đề xuất hệ thống các giải pháp
nhằm giải quyết vấn đề. Đây là cơ sở lý luận giúp chúng ta có thể nghiên cứu
sâu hơn về vấn nạn tham nhũng. Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng ở Việt Nam, nhân tố có ý nghĩa quyết định hàng đầu là có sự lãnh đạo
của Đảng, và đấu tranh chống tham nhũng đƣợc coi là nhiệm vụ hàng đầu
trong công tác chỉnh đốn và nâng cao sức chiến đấu của Đảng và trong giải
quyết các vấn đề xã hội. Hiện nay việc nghiên cứu về vấn đề này vẫn chƣa
đƣợc đề cập tới nhiều, hoặc chƣa đƣợc nghiên cứu một cách hệ thống và toàn
diện, vì vậy tác giả đã lựa chọn nội dung này cho đề tài nghiên cứu của mình
với hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận chung về tham nhũng và vai trò của đảng cầm quyền
trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, xuất phát từ thực tiễn lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng thời
gian qua, từ đó đề xuất các phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm nâng cao sự lãnh
đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay, góp
phần làm trong sạch bộ máy Đảng, bộ máy Nhà nƣớc, làm lành mạnh hóa các
quan hệ xã hội, khôi phục lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của
Đảng, tạo điều kiện ổn định để phát triển kinh tế, xã hội đất nƣớc trong giai
đoạn hiện nay
7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng
chống tham nhũng.
- Nêu ra các quan điểm và tƣ tƣởng chỉ đạo và đề xuất hệ thống các giải
pháp đồng bộ để tăng cƣờng và nâng cao sự lãnh đạo của Đảng trong đấu
tranh phòng, chống tham nhũng.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài: Sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh
phòng, chống tham nhũng.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài không nghiên cứu về tham nhũng một cách
nói chung cũng nhƣ không nghiên cứu về toàn bộ hoạt động lãnh đạo của
Đảng mà trên phƣơng diện chính trị học tập trung nghiên cứu về sự lãnh đạo
của Đảng trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam từ
khi đổi mới cho đến nay nhƣ là nhân tố chính trong việc giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng trong xã hội cũng nhƣ tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề xã
hội.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Các quan điểm, tƣ tƣởng của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và các Văn kiện,
Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam là cơ sở lý luận và phƣơng pháp
luận chủ yếu trong quá trình nghiên cứu.
Đồng thời luận văn còn đƣợc sử dụng phƣơng pháp tiếp cận hệ thống;
phƣơng pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh; phƣơng pháp logic - lịch
8
sử, gắn lý luận với thực tiễn, đặc biệt coi trọng công tác tổng kết thực tiễn
trong quá trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, coi đó là biện pháp không chỉ để xây dựng và chỉnh đốn
Đảng mà còn góp phần xây dựng và phát triển đất nƣớc.
Góp phần tuyên truyền, giáo dục mọi tầng lớp nhân dân có trách nhiệm
trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Lí luận chung về tham nhũng và vai trò của đảng cầm quyền trong
đấu tranh phòng chống tham nhũng.
Chƣơng 2: Vấn đề tham nhũng ở Việt Nam và vai trò lãnh đạo của Đảng
trong đấu tranh phòng chống tham nhũng.
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm tăng cƣờng sự lãnh đạo của
Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
9
Chƣơng 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ THAM NHŨNG VÀ VAI TRÒ CỦA
ĐẢNG CẦM QUYỀN TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM
NHŨNG
1.1.Lí luận chung về tham nhũng
Quan liêu, tham nhũng là căn bệnh cố hữu của nhà nƣớc trong lịch sử
và đƣợc nhắc đến từ lâu, nhƣng chỉ đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX,
tham nhũng mới thật sự đƣợc cảnh báo nhƣ là hiểm họa đối với tất cả các
nƣớc trên thế giới. Nhận thức rõ tác hại của tham nhũng, các tổ chức và các
quốc gia đã cố gắng tìm hiểu và đƣa ra định nghĩa về tham nhũng, chỉ rõ bản
chất và biểu hiện của tham nhũng, từ đó đề ra những phƣơng hƣớng và giải
pháp phòng chống tham nhũng có hiệu quả.
1.1.1.Khái niệm, bản chất của tham nhũng
Trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam, có rất nhiều khái niệm và cách tiếp
cận khác nhau về tham nhũng, tùy thuộc vào đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi
quốc gia. Liên Hợp quốc trong tài liệu hƣớng dẫn về chống tham nhũng đã
cho rằng: “Tham nhũng - đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nƣớc để trục lợi
riêng” [36, tr.3]. Cùng với ý nghĩa đó, ngân hàng Thế giới cũng coi tham
nhũng là sự lạm dụng chức vụ công để lợi tƣ. Làm rõ hơn vấn đề này, Tổ
chức Minh bạch quốc tế (Transparency International - TI) đã mô tả tham
nhũng bằng công thức: tham nhũng = độc quyền + bƣng bít thông tin - trách
nhiệm giải trình [29, tr.27]. Điều này có thể hiểu mức độ tham nhũng phụ
thuộc rất nhiều vào sự độc quyền của đội ngũ cán bộ trong công việc và trốn
tránh trách nhiệm giải trình. Ở các nƣớc phát triển phƣơng Tây, tham nhũng
đƣợc nhìn nhận là hành vi của đội ngũ cán công chức lợi dụng quyền hành để
trục lợi riêng. Theo từ điển Bách khoa Đức thì tham nhũng đƣợc cho là hiện
10
tƣợng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót thƣờng xảy ra đối với công chức có
quyền hành. Hay trong Từ điển bách khoa Thụy Sỹ, tham nhũng đƣợc xác
định là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm
trong bộ máy nhà nƣớc [1, tr.31]. Đó là hành vi phạm pháp để phục vụ lợi ích
cá nhân.
Nhƣ vậy, khi bàn đến tham nhũng, các tổ chức quốc tế cũng nhƣ các
quốc gia trên thế giới đã đƣa ra rất nhiều quan niệm khác nhau để nhận diện
hành vi tham nhũng. Nhƣng tựu chung lại có thể thấy, tham nhũng trên thế
giới đƣợc xác định là hành vi của đội ngũ có quyền hành lợi dụng chức vụ để
trục lợi cho bản thân.
Ở Việt Nam, khái niệm tham nhũng trƣớc đây ít đƣợc nói đến, chúng ta
thƣờng chỉ đề cập tới nạn tham ô, hối lộ, biển thủ công quỹ… và coi đó nhƣ
một biểu hiện của sự tha hóa quyền lực nhà nƣớc. Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay
từ những ngày đầu thành lập nƣớc Việt Nam Dân chủ cộng hòa (1945) đã chỉ
rõ bản chất của bệnh tham ô, đó là: “Ngƣời cán bộ, cậy quyền thế mà đục
khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tƣ” là bất liêm, tức không
trong sạch, tham lam, thực chất là biểu hiện của tham nhũng. Và từ những
năm 90 của thế kỷ XX cho đến nay, khái niệm tham nhũng đã bắt đầu đƣợc đi
sâu nghiên cứu, tìm hiểu đồng thời xác định rõ biểu hiện cũng nhƣ những tác
hại của nó đối với đời sống xã hội. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “tham nhũng
là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của” [5, tr.1523]. Khái
niệm tham nhũng chính thức lần đầu tiên đƣợc sử dụng trong Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần VI của Đảng (1986). Nội dung khái niệm tham
nhũng, đặc quyền, đặc lợi đƣợc giải thích nhƣ sau:
- Sống không lành mạnh, sống không bằng lao động của mình;
11
- Tƣ tƣởng và hành động chạy theo đồng tiền, ích kỷ;
- Hành vi xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, xâm phạm lợi ích của
nhân dân;
- Ăn cắp của công, lấy của công để biếu xén, chè chén, phân phối nội
bộ;
- Tự ý quy định những chế độ cung cấp, trang bị phƣơng tiện sinh hoạt
trái với chế độ chung…
Trong Pháp lệnh Chống tham nhũng ban hành ngày 26 - 2 - 1998 đã
xác định rõ tại Điều 1: “Tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý
làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại tài sản cho Nhà nước, tập
thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”.
Tại Luật Phòng chống tham nhũng của nƣớc ta đƣợc Quốc hội khóa XI kỳ
họp thứ 8 thông qua ngày 29 - 11 - 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01- 6 2006, tại khoản 2 Điều 1 đã chỉ rõ: tham nhũng là hành vi của ngƣời có chức
vụ, quyền hạn, đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. Không những đƣa
ra khái niệm mà Luật còn chỉ ra những dấu hiệu cụ thể của tham nhũng, theo
đó nó gồm ba dấu hiệu đặc trƣng sau: thứ nhất, chủ thể của hành vi tham
nhũng là những ngƣời có chức vụ, quyền hạn. Thứ hai, đã có sự lợi dụng chức
vụ, quyền hạn khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đƣợc giao. Thứ ba, mục đích
của hành vi là vụ lợi. Nhƣ vây theo Pháp lệnh và Luật Phòng, chống tham
nhũng đã ban hành thì tham nhũng đƣợc xác định là hành vi của ngƣời có
chức vụ, lợi dụng quyền hạn để vụ lợi cá nhân.
Đồng thời tham nhũng còn đƣợc tiếp cận với tƣ cách là đối tƣợng
nghiên cứu của các ngành khoa học khác nhau, mỗi cách tiếp cận lại đƣa ra
12
quan niệm khác nhau về hành vi này. Dƣới góc nhìn của Chính trị học thì hiện
tƣợng tham nhũng là kết quả của sự tha hóa quyền lực chính trị và quyền lực
nhà nƣớc và nó làm ảnh hƣởng đến việc thực thi quyền lực công. Còn với
cách tiếp cận kinh tế học thì tham nhũng là hành động cố tình không tuân thủ
các nguyên tắc công minh nhằm trục lợi cho cá nhân hoặc cho những kẻ có
liên quan đến hành động đó. Với tƣ cách là đối tƣợng nghiên cứu của pháp
luật thì tham nhũng bị coi là hành vi trái pháp luật, thậm chí có thể là tội
phạm hình sự. Về mặt văn hóa - đạo đức, thì tham nhũng là hành vi trái với
chuẩn mực đạo đức, là trạng thái sai lệch các giá trị xã hội.
Mặc dù đƣợc tiếp cận và hiểu theo nhiều cách khác nhau song tham
nhũng đƣợc hiểu khá thống nhất trong quan niệm của các nƣớc trên thế giới.
Theo đó, tham nhũng là hành vi lợi dụng quyền hạn, chức vụ, uy tín nghề
nghiệp, hoàn cảnh của mình hoặc ngƣời khác, lợi dụng những sơ hở của pháp
luật để trục lợi bất chính.
1.1.2.Nguồn gốc tham nhũng
Có rất nhiều nguyên nhân làm nảy sinh hiện tƣợng tham nhũng, tùy vào
điều kiện cụ thể của từng vùng, quốc gia. Nhƣng theo nghiên cứu chung thì có
thể chỉ ra một số nguồn gốc chủ yếu sau:
Trong lĩnh vực chính trị, tham nhũng dễ nảy sinh khi hệ thống chính trị
thiếu khả năng tự kiểm soát và quyền lực nhà nƣớc bị tha hóa. Một hệ thống
chính trị không xây dựng đƣợc các tiêu chuẩn, không tự kiểm soát đƣợc, để
cho quyền lực dễ bị thao túng dƣới mọi hình thức, mọi mức độ sẽ tạo cơ hội
tốt cho tham nhũng phát triển. Chính vì lí do đó có thể hiểu tham nhũng dễ
phát sinh tại những quốc gia thiếu tính dân chủ trong sinh hoạt chính trị. Khi
một quốc gia lâm vào tình trạng thiếu dân chủ trong sinh hoạt chính trị, những
13
ngƣời thực thi quyền lực sẽ lợi dụng chức vụ, địa vị, uy tín xã hội để thực
hiện hành vi tham nhũng. Cùng với tình trạng thiếu dân chủ trong sinh hoạt
chính trị, sự thiếu công khai, minh bạch trong đời sống chính trị cũng tạo ra
không gian đen tối cho hiện tƣợng tham nhũng phát sinh và phát triển. Sự
thiếu công khai trong đời sống chính trị sẽ đi liền với sự trốn tránh trách
nhiệm giải trình trƣớc toàn thể xã hội, từ đó càng dễ bề hoạt động cho những
hành vi sai trái nhƣ làm sai nguyên tắc, chính sách, thậm chí lạm dụng chức
quyền để trục lợi cá nhân.
Tham nhũng còn là hậu quả của môi trƣờng kinh tế thiếu minh bạch,
của cơ chế, chính sách quản lý kinh tế chƣa hoàn thiện. Môi trƣờng kinh tế
thiếu minh bạch thì việc trốn thuế sẽ diễn ra tràn lan và khó bị kiểm soát.
Trong môi trƣờng kinh tế thiếu minh bạch, sự can thiệp thái quá và nhiều khi
thô bạo của các cơ quan nhà nƣớc vào hoạt động kinh doanh làm méo mó các
quan hệ kinh tế - xã hội. Đó là tình trạng thích hợp, là cơ hội vàng để một số
cá nhân cơ hội dễ bề trục lợi. Đồng thời việc các cơ chế, chính sách quản lý
kinh tế chƣa hoàn thiện, chƣa bao quát hết đời sống kinh tế cũng là một kẽ hở
để các đối tƣợng lợi dụng, luồn lách, thoát khỏi sự quản lý của những cơ chế,
chính sách đó để thực hiện hành vi phi pháp.
Về mặt nhà nƣớc, tham nhũng là con đẻ của những thể chế tồn tại bất
hợp lý và bị độc quyền lũng đoạn. Chúng ta đã thấy tham nhũng phát triển cả
về hình thức lẫn quy mô cùng với sự phát triển của xã hội, nhƣng điều đó
không có nghĩa là có một sự tƣơng quan tỷ lệ nào đó giữa tham nhũng và phát
triển. Quy mô tham nhũng lệ thuộc nhiều vào tính chất của thể chế nhà nƣớc.
Chẳng hạn tại các quốc gia nghèo khổ Châu Phi, nơi tập trung nhiều thể chế
lạc hậu và phi dân chủ, các quyền lực nhà nƣớc, quyền lực chính trị bị phân
chia một cách tùy tiện hoặc không đƣợc bảo vệ và sử dụng cẩn trọng, là điều
14
kiện thuận lợi cho nạn tham nhũng tràn lan trong xã hội. Các thể chế này
không đủ năng lực để tự kiểm soát, nhƣng lại ra sức ngăn cản việc xây dựng
một thể chế mới có thể quản lý xã hội hữu hiệu hơn. Tình trạng bất hợp lý của
thể chế có thể thấy rõ ở những quốc gia mà một bộ phận nhân lực quan trọng
của nó đƣợc trả lƣơng quá thấp so với nhu cầu tối thiểu của cuộc sống. Thể
chế bất hợp lý đã buộc nhiều ngƣời phải tham nhũng để sống, để tồn tại.
Về mặt pháp luật, tham nhũng là kết quả của tình trạng các quyền và lợi
ích cá nhân bị hạn chế hoặc chƣa đƣợc hợp pháp hóa. Tình trạng nhiều quyền
lợi chính đáng của cá nhân không đƣợc hợp pháp hóa hoặc bị hạn chế có thể
quan sát thấy tại nhiều quốc gia chậm phát triển. Sự nguy hiểm là ở chỗ tình
trạng này dễ tạo ra sự nhập nhằng trong nhận thức, việc thay thế các quy định
của pháp luật bằng những thỏa thuận ngầm trên quy mô xã hội hoặc đạo đức
xã hội khiến các nhóm lợi ích luôn chèn ép, chen lấn lẫn nhau trên cùng một
cá nhân. Nếu chúng ta tạo cho cá nhân một không gian sống tốt, nếu chúng ta
hợp pháp hóa các quyền cá nhân chính đáng để mỗi cá nhân có thể phát huy
tối đa sức sống, sức sáng tạo của họ trong khuôn khổ pháp luật, chắc chắn rất
nhiều ngƣời bình thƣờng sẽ sống và ứng xử theo những chuẩn mực đƣợc chấp
nhận rộng rãi trong xã hội.
Về mặt văn hóa - xã hội, tham nhũng bắt nguồn từ sự đạo đức giả của
hệ thống chính trị - xã hội. Hệ thống xã hội đƣợc xây dựng trên nền tảng đạo
đức giả đã đẩy nhiều ngƣời phải sống với bộ mặt giả tạo. Chẳng hạn, việc trả
công chủ yếu không theo hình thức tiền lƣơng mà dƣới hình thức các tiêu
chuẩn hƣởng thụ là cơ sở kinh tế của một lối sống đạo đức giả. Một minh
chứng khác có thể thấy ở nhiều nền kinh tế chuyển đổi, khi ngƣời ta thủ tiêu
chế độ đặc quyền, đặc lợi, nhƣng lại không có biện pháp cân bằng các lợi ích
bị đột ngột xóa đi ấy, dẫn đến kết quả là một số ngƣời tìm đến những biện
15
pháp phi pháp để giành lại những gì đã mất. Với cách nhìn nhƣ vậy, có thể
thấy đôi khi các vị quan tham vừa là thủ phạm, vừa là nạn nhân của một hệ
thống xã hội xa lạ với bản chất con ngƣời. Tham nhũng còn đƣợc hỗ trợ bởi
những yếu tố tiêu cực trong nền văn hóa, chẳng hạn tính gia trƣởng vốn là
một đặc điểm rõ nét tại nhiều nƣớc châu Á. Văn hóa gia trƣởng gắn liền với
độc quyền sở hữu kết quả là quyền lực dễ bị đánh cắp, một số cá nhân đứng
trên quyền lực và pháp luật tùy ý hành động theo ý muốn chủ quan mà không
chịu sự quản lý, giám sát của xã hội, chính điều này là mảnh đất thuận lợi cho
tham nhũng nảy sinh.
Về mặt nhân văn, tham nhũng là hậu quả của quan niệm lệch lạc và thái
độ thiếu tôn trọng các giá trị cá nhân. Các giá trị cá nhân không đƣợc tôn
trọng sẽ dẫn đến sự xâm hại các giá trị công cộng. Trên thực tế, việc chống
chủ nghĩa cá nhân một cách thái quá luôn luôn dẫn đến tình trạng cực đoan
trong đời sống tinh thần xã hội. Tâm lý xem nhẹ, nếu không muốn nói là bài
bác các giá trị cá nhân khiến ngƣời ta tìm mọi cách tối thiểu hóa không gian
sống của cá nhân, làm cho con ngƣời thiếu ý thức trách nhiệm về hành vi của
mình, dễ dàng bằng lòng với thực tại, dễ dàng tham nhũng, tiếp tay hoặc ít
nhất là mặc nhiên thừa nhận tham nhũng. Sự ngộ nhận về giá trị cá nhân và
giá trị tập thể còn dẫn đến cả hiện tƣợng tham nhũng mang tính tập thể, nghĩa
là có sự cấu kết, đồng tình để tiến hành hành vi tham nhũng trên quy mô lớn
hơn. Còn nếu cá nhân nào không chịu tham nhũng, họ sẽ không còn là ngƣời
của tập thể, họ sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Điều này giải thích tại sao tham
nhũng tại những nƣớc có sự nhìn nhận sai lạc về cá nhân và tập thể lại càng
trầm trọng và khó đẩy lùi.
Nhƣ vậy, nguồn gốc của tham nhũng không chỉ đơn giản quy vào lĩnh
vực kinh tế, chính trị, hay văn hóa mà nó còn là kết quả biểu hiện của việc các
16
giá trị đạo đức xã hội đang bị xâm phạm nghiêm trọng. Tham nhũng nảy sinh
từ nhiều nguồn gốc khác nhau, hiểu rõ đƣợc những nguồn gốc đó sẽ xây dựng
đƣợc hệ thống các giải pháp đồng bộ nhằm ngăn chặn và phòng, chống tham
nhũng một cách hiệu quả.
1.1.3.Tác hại của tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tƣợng lịch sử, sự tồn tại của nó là mối nguy
hại nghiêm trọng tới nhiều quốc gia trên thế giới. Tham nhũng là tác nhân đe
dọa tới sự tồn vong của chế độ, làm tha hóa bộ máy nhà nƣớc, cản trở việc
xây dựng nguyên tắc pháp quyền, xâm hại các thể chế và giá trị dân chủ xã
hội, đồng thời nó làm phá vỡ sự chuẩn mực của các giá trị đạo đức, văn hóa,
cản trở sự phát triển bền vững của quốc gia. Cụ thể tác hại của tham nhũng
biểu hiện nhƣ sau:
Trong lĩnh vực kinh tế, tham nhũng là một tác nhân làm suy yếu thị
trƣờng ở ba khía cạnh: nhƣ một loại thuế, tham nhũng là hàng rào cản trở sự
tham gia vào thị trƣờng; gây ảnh hƣởng xấu tới tính hợp pháp của nhà nƣớc;
cản trở khả năng cung cấp thể chế hỗ trợ thị trƣờng. Theo báo cáo phát triển
thế giới năm 2002 của Ngân hàng thế giới, tham nhũng có thể gây ra hậu quả
xấu cho nền kinh tế thị trƣờng, chủ yếu từ khí cạnh sau:
- Tham nhũng làm méo mó sự lựa chọn chính sách.
- Tham nhũng là một loại hoạt động kinh tế ngầm khó kiểm soát, bất
ổn, cản trở đầu tƣ, đặc biệt là đầu tƣ nƣớc ngoài.
- Tham nhũng làm suy giảm các lực lƣợng cạnh tranh vốn có của thị
trƣờng, thị trƣờng ít tính cạnh tranh hơn vì các doanh nghiệp mới và nhỏ bị
cản trở bởi tham nhũng, đến mức họ sẽ không tham gia đƣợc vào thị trƣờng.
17
Mặt khác tham nhũng thƣờng đi kèm với chỉ tiêu công cộng dành cho y tế và
giáo dục thấp hơn và nhƣ vậy nó làm cho ngƣời nghèo ít có cơ hội tham gia
vào thị trƣờng.
Công ƣớc Luật dân sự về chống tham nhũng của Hội đồng châu Âu
nhấn mạnh rằng, tham nhũng là mối đe dọa lớn đối với nguyên tắc pháp
quyền, dân chủ và quyền con ngƣời, công bằng và công lý xã hội, ảnh hƣởng
đến sự phát triển kinh tế, đe dọa đến sự vận hành đúng đắn và công bằng của
các nền kinh tế thị trƣờng. Ngân hàng thế gới, trong tài liệu Chống tham
nhũng ở Đông Á đã nhấn mạnh: giải pháp từ khu vực kinh tế tƣ nhân, là một
trở ngại nghiêm trọng nhất cho kinh doanh. Tổng hợp từ những nghiên cứu
gần đây, tài liệu này đƣa ra các kết luận: tham nhũng làm cạn nguồn đầu tƣ
nội địa, làm giảm đáng kể các dòng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài; tham
nhũng không chỉ gây trở ngại cho hoạt động kinh tế vĩ mô mà còn kìm hãm
hoạt động của các hãng riêng lẻ.
Ngoài tác hại xấu đối với nền kinh tế, tham nhũng còn mang lại hậu
quả về mặt văn hóa. Nếu coi văn hóa là phẩm giá, là tổng hòa các giá trị chân
- thiện - mỹ, là sự hoàn thiện, phát triển và tiến bộ thì tham nhũng làm tổn hại
và vi phạm nghiêm trọng các giá trị truyền thống; là lực lƣợng làm tha hóa
con ngƣời, tha hóa sức mạnh nhân dân, tha hóa quyền lực của Đảng và Nhà
nƣớc; lực lƣợng cản trở sự phát triển và tiến bộ xã hội, một nguy cơ của sự
nghiệp đổi mới. Mất đi các giá trị văn hóa là mất đi sức mạnh tinh thần trong
cuộc chiến phòng, chống tham nhũng. Ở Việt Nam, văn hóa dân tộc đƣợc
hình thành từ hàng nghìn năm lịch sử và trở thành truyền thống tốt đẹp đƣợc
gìn giữ và phát huy qua nhiều thế hệ. Chính những truyền thống đó là sức
mạnh tinh thần giúp con ngƣời Việt Nam vƣợt qua mọi khó khăn, gian khổ,
nhƣng trong giai đoạn hiện nay, các giá trị văn hóa chuẩn mực đang ngày
18
- Xem thêm -