Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tác động xã hội của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong trường trung họ...

Tài liệu Tác động xã hội của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong trường trung học phổ thông (qua khảo sát vài trường ở chương mỹ)

.PDF
135
769
139

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN TÁC ĐỘNG XÃ HỘI CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƢỜNG Ở CHƢƠNG MỸ) LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN TÁC ĐỘNG XÃ HỘI CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƢỜNG Ở CHƢƠNG MỸ) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 60 31 20 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Hà Quang Ngọc Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS Hà Quang Ngọc. Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà Nội - 2014 Tác giả Luận văn Nguyễn Thị Thanh Huyền LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Hà Quang Ngọc. Nhờ có sự giúp đỡ của TS. Hà Quang Ngọc mà tôi có thể hoàn thành công trình nghiên cứu này. Hà Nội - 2014 Tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền MỤC LỤC 1.1 1.2 1.3 1.4 2.1 2.2 2.3 2.4 3.1 3.2 3.3 MỞ ĐẦU Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Khái quát chung về dân chủ và dân chủ cơ sở trong trường trung học phổ thông Quy chế dân chủ trong trường học Tác động của việc thực hiện quy chế dân chủ trong nhà trường Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện Quy chế dân chủ trong trường học Chƣơng 2. TÁC ĐỘNG XÃ HỘI CỦA QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở CHƢƠNG MỸ Khái quát về huyện Chương Mỹ và các trường trung học phổ thông ở Chương Mỹ Quá trình tổ chức triển khai thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong trường trung học phổ thông ở Chương Mỹ Tác động xã hội của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong trường trung học phổ thông ở Chương Mỹ Những hạn chế trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường trung học phổ thông ở Chương Mỹ và nguyên nhân Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở CHƢƠNG MỸ TRONG THỜI GIAN TỚI Quan điểm định hướng Việc thực hiện Quy chế dân chủ trong nhà trường phải đảm bảo nguyên tắc giữ vững sự ổn định của môi trường giáo dục, có tác động tích cực đến qúa trình dạy và học. Một số kiến nghị KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 Trang 3 8 8 17 30 36 44 44 49 68 91 94 94 97 117 120 123 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN TCN Trước Công nguyên XHCN Xã hội chủ nghĩa CNXH Chủ nghĩa xã hội THPT Trung học phổ thông CNH - H§H Công nghiệp hóa-Hiện đại học UBND Ủy ban nhân dân CBQL Cán bộ quản lý BC§ Ban chỉ đạo QCDC Quy chế dân chủ GD & §T Giáo dục và đào tạo THCS Trung học cơ sở CB, GV, CC Cán bộ, giáo viên, công chức TNCSHCM Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh 2 Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người, là khát vọng của con người từ cổ chí kim. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin xác định dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân. Xác định đúng đắn tầm quan trọng của dân chủ, từ khi bước vào công cuộc đổi mới đất nước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến vấn đề này và đã có nhiều chủ trương, chính sách, quy chế để phát huy dân chủ trong đời sống xã hội, đặc biệt đã ban hành và triển khai có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước, Đảng ta đã xác định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sông ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực” [7, tr. 9 - 10]. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng xác định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực và ý thức làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội” [7, tr.81 - 82] 3 Phát huy dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ góp phần củng cố kiện toàn tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, không chỉ là giải pháp để hạn chế sự tha hóa quyền lực, chống lại tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước mà còn khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của quần chúng nhân dân lao động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của toàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, vấn đề dân chủ và dân chủ ở cơ sở ngày càng có vai trò và ý nghĩa to lớn trong đời sống xã hội, nhất là trong khi chúng ta đang xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cùng với cả nước, ngành giáo dục và đào tạo nói chung và ngành giáo dục và đào tạo huyện Chương Mỹ nói riêng đã và đang cụ thể hóa và triển khai tốt việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, đã tạo ra không khí dân chủ trong các trường học, góp phần vào việc dạy tốt, học tốt trong nhà trường, cũng đã có những tác động tích cực đến chủ trương xã hội hóa giáo dục và quá trình dân chủ hóa xã hội của Đảng và Nhà nước. Để tiếp tục có những đánh giá cụ thể những tác động của việc thực hiện Quy chế dân chủ trong nhà trường và để thực hiện có hiệu quả hơn nữa Quy chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền làm chủ của cán bộ giáo viên, công nhân viên, học sinh trong các trường THPT ở huyện Chương Mỹ tôi đã lựa chọn đề tài “Tác động xã hội của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong trƣờng trung học phổ thông (qua khảo sát một số trƣờng ở Chƣơng Mỹ )” 2.Tình hình nghiên cứu. Vấn đề dân chủ từ rất lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà hoạt động chính trị cũng như các nhà khoa học xã hội và nhân văn, những người làm công tác lý luận ở những góc độ, khía cạnh khác nhau, nhất là từ khi có Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII), ngày 12/8/1998 về Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cụ thể, như những nghiên cứu về thực 4 hiện dân chủ và thể chế dân chủ của TS.Nguyễn Văn Sáu và GS. Hồ Văn Thông: Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2003; Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2005; Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tiến trình đổi mới, tác giả GS.TS. Hoàng Chí Bảo. Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2010; Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, tác giả PGS.TS. Lê Minh Quân, Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, H, 2011; Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, tác giả GS.TS. Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000; Dân chủ trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, tác giả Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Thông tin lý luận số 7/1998; Những lực cản đối với quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam, tác giả Hoàng Chí Bảo, Báo Nhân dân ngày 22/4/1998; Đề tài “Hệ thống chính trị cơ sở, đặc điểm, xu hướng và giải pháp”, tác giả TS. Vũ Hoàng Công, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, H, 2002…. Ngoài ra còn có rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sỹ viết về dân chủ, dân chủ cơ sở nói chung và dân chủ trong nhà trường nói riêng. Nhìn chung các công trình nghiên cứu kể trên bên cạnh việc đi sâu nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở đã cố gắng làm rõ các khía cạnh khác của quá trình thực hiện Quy chế dân chủ như việc gắn với tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở, phân tích, lý giải yêu cầu, cách thức, tổ chức biện pháp…. Tuy việc thực hiện dân chủ cơ sở dù không phải là mới bắt đầu nhưng vẫn đang trong quá trình hoàn thiện và mở rộng, mặt khác , đời sống xã hội đang trong quá trình chuyển biến mạnh mẽ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề dân chủ cơ sở cho đến hiện nay luôn không cũ. Khi bắt tay nghiên cứu đề tài này những tài liệu kể trên sẽ là nguồn tư liệu tham khảo bổ ích đối với đề tài của tác giả. Đồng thời, với 5 nghiên cứu này hy vọng sẽ góp phần tham gia làm sáng tỏ vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan trong tình hình mới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn trình bày những nội dung chủ yếu về dân chủ, dân chủ cơ sở và dân chủ trong trường học làm khung lý thuyết cho việc nghiên cứu tác động của việc thực hiện Quy chế dân chủ trong thực tiễn; tiến hành nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân chủ trong các trường THPT ở Chương Mỹ và đánh giá những tác động của việc thực hiện đó đối với hoạt động giáo dục của nhà trường và đối với xã hội trong thời gian qua. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã xác định một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn nữa Quy chế dân chủ trong các trường THPT, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Để mục đích trên có thể đạt được, luận văn sẽ giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Phân tích những vấn đề lý luận về dân chủ, dân chủ cơ sở và dân chủ trong trường học. Làm rõ tính tất yếu phải thực hiện Quy chế dân chủ trong các trường THPT ở huyện Chương Mỹ. - Nghiên cứu quá trình tổ chức triển khai thực hiện và làm rõ những tác động của việc thực hiện Quy chế dân chủ trong các trường THPT ở huyện Chương Mỹ; Kết quả đạt được, những hạn chế thiếu sót; xác định nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện Quy chế dân chủ. - Đề xuất những giải pháp và đưa ra một số kiến nghị nhằm phát huy tác động xã hội và thực hiện có hiệu quả hơn nữa Quy chế dân chủ trong các trường THPT trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: 6 Thực tế việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong trường THPT công lập. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát 4 trường THPT tại huyện Chương Mỹ thời gian từ năm học 2008 đến năm học 2012. 5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bên cạnh đó, tác giả cũng tham khảo, chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số nhà khoa học đã công bố về vấn đề dân chủ cơ sở. 5.2. Cơ sở thực tiễn: là quá trình thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong các trường THPT ở huyện Chương Mỹ trong thời gian qua (từ 2008 đến 2012) 5.3. Phương pháp nghiên cứu: Từ góc độ chính trị học, tác giả luận văn vận dụng phương pháp luận mác – xít về dân chủ, phương pháp logic và phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học, so sánh tổng kết thực tiễn để nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu. 6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn. Đánh giá được một số tác động từ việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ trong các trường THPT ở huyện Chương Mỹ và nêu lên một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hơn nữa Quy chế dân chủ trong các trường THPT ở huyện Chương Mỹ trong thời gian tới. 7. Kết cấu Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương và 11 tiết. 7 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1.1. Khái quát chung về dân chủ và dân chủ cơ sở trong trƣờng trung học phổ thông 1.1.1. Dân chủ Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực thông qua một hệ thống bầu cử tự do. Thuật ngữ này xuất hiện đầu tiên ở tại Hy Lạp với cụm từ demokratia," quyền lực của nhân dân", được ghép từ chữ "dèmos"( nhân dân) và "kratos"( quyền lực), vào khoảng giữa thế kỉ thứ 5 đến thứ 4 trước Công nguyên để chỉ hệ thống chính trị tồn tại ở một số thành bang Hy Lạp, nổi bật là Athena sau cuộc nổi dậy của dân chúng vào năm 508 TCN. Trong học thuyết chính trị, dân chủ dùng để mô tả cho một số ít hình thức nhà nước và cũng là một loại triết học chính trị. Mặc dù chưa có một định nghĩa thống nhất về dân chủ, song có hai nguyên tắc mà bất kỳ một định nghĩa dân chủ nào cũng đưa vào. Nguyên tắc thứ nhất là tất cả mọi thành viên của xã hội( công dân) đều có quyền tiếp cận đến quyền lực một cách bình đẳng và thứ hai, tất cả mọi thành viên ( công dân) đều được hưởng các quyền tự do được công nhận rộng rãi. Như vậy, có thể thấy dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội - nhất là xã hội có giai cấp Dân chủ là một hiện tượng lịch sử xã hội, nó tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Trong xã hội Cộng sản nguyên thuỷ một hình thức đặc biệt của dân chủ đã xuất hiện mà Ăngghen gọi là dân chủ quân sự hay dân chủ nguyên thủy. Thông qua Đại hội nhân dân, nhân dân đã bầu ra Hội đồng thị tộc và Thủ lĩnh quân sự, đồng thời quyết định những vấn đề quan trọng của thị tộc. Ở thời kì này quyền lực của nhân dân là " thiêng liêng và bất khả xâm phạm, đều là một quyền lực tối cao do tự nhiên ban cho, quyền lực mà mỗi người phải phục tùng một cách vô điều kiện trong tình cảm, tư tưởng và hành động của mình" [23 ,tr.149 - 150] 8 Đến thời kỳ Chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô đã biến Nhà nước thành công cụ phục vụ lợi ích của mình. Nhà nước chủ nô dân chủ là hình thức đầu tiên của chế độ dân chủ trong xã hội có giai cấp - dân chủ của giai cấp chủ nô. Nhà nước chủ nô là hình thái dân chủ đầu tiên trong lịch sử nhưng không phải dành cho nhân dân với tư cách là số đông mà là cho giai cấp chủ nô. Khi đó tuyệt đại bộ phận con người đã bị đẩy xuống hàng nô lệ. Ở thời kì tiếp theo, Nhà nước phong kiến, chuyên quyền độc đoán cấu kết với các thế lực của thần quyền đã gạt nhân dân ra khỏi cơ chế quyền lực. Cuộc đấu tranh giành quyền làm chủ lại diễn ra gay gắt. Cuộc đấu tranh đó mang lại kết quả là chế độ chuyên chế phong kiến lại bị phủ định bởi một chế độ với một trật tự dân chủ mới mạnh mẽ hơn - chế độ dân chủ tư sản. Ở chế độ dân chủ tư sản, các quan niệm về dân chủ đạt tới trình độ phát triển cao hơn, bắt đầu từ khái niệm nhân dân là người chủ của quyền lực, có quyền và nghĩa vụ công dân được pháp luật quy định và bảo vệ. Nhưng nền dân chủ tư sản trong thực chất còn rất nhiều hạn chế và nó chỉ bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tư sản cầm quyền. Điều đó được thể hiện tập trung trong các quy định của pháp luật của Nhà nước tư sản. Nhà nước luôn luôn đề cao chức năng chính trị (thống trị giai cấp) khi hình thành bất kì một quy định pháp luật nào để thực thi trong xã hội". Trong Nhà nước tư sản dân chủ nhất, quần chúng bị áp bức đều luôn vấp phải các mâu thuẫn hiển nhiên giữa quyền bình đẳng hình thức do "chế độ dân chủ" của bọn tư bản ban bố với hàng nghìn hạn chế và mánh khoé dối trá thực sự, đang biến những người vô sản thành nô lệ làm thuê. Trong xã hội tư bản mâu thuẫn giữa tính chất giai cấp của giai cấp tư sản cầm quyền với tính nhân dân ( tính vô sản) của dân chủ càng trở nên gay gắt. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến cách mạng vô sản mà thành quả của nó là việc thiết lập chế độ dân chủ XHCN. 9 Chế độ dân chủ XHCN là chế độ chính trị mà ở đó những giá trị dân chủ, quyền lực của nhân dân được thể chế hoá thành pháp luật, thành những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, thành nguyên tắc mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự thống nhất giữa dân chủ về chính trị - pháp lí và dân chủ trong kinh tế, làm chủ trong kinh tế và xã hội sẽ tạo điều kiện để dân chủ XHCN ra đời, tồn tại và phát triển vì lợi ích của nhân dân lao động. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, Nhà nước Xô viết - chế độ dân chủ XHCN đầu tiên trên thế giới ra đời - đã từng bước hiện thực hoá quyền dân chủ của nhân dân trên thực tế, hiện thực hoá sự bình đẳng của quần chúng nhân dân trong việc tham gia vào tổ chức và hoạt động của chính quyền Nhà nước, trong việc xác định hình thức, nội dung và nhiệm vụ của Nhà nước. Theo Lênin: " Chế độ Xô viết là chế độ dân chủ ở mức cao nhất cho công nhân và nông dân; đồng thời nó có nghĩa là sự đoạn tuyệt chế độ dân chủ tư sản và sự xuất hiện trong lịch sử thế giới một chế độ dân chủ kiểu mới, tức là chế độ dân chủ vô sản hay là chuyên chính vô sản"[20, tr.184] Ở Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - Nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thiết lập. Nhân dân ta từ địa vị nô lệ làm thuê trở thành người làm chủ của đất nước. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1945, miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), nhân dân trở thành chủ thể của mọi quyền lực. Năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất, nhân dân cả nước trở thành người chủ của mọi quyền lực trong đó có quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, hệ thống chính trị XHCN được thiết lập trên phạm vi cả nước. Từ đó đến nay nền dân chủ XHCN đã và đang được xây dựng và ngày càng phát huy vai trò to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. 10 Với tư cách là khát vọng, là quyền tự nhiên của con người dân chủ đã lần lượt được nhiều giai cấp thống trị trong lịch sử nhận thức và thể chế hoá thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước cùng các thiết chế chính trị khác nhau. Tuy nhiên, trong các chế độ dân chủ đã tồn tại cho đến nay thì chỉ có chế độ dân chủ vô sản - dân chủ XHCN - mới thực sự là chế độ dân chủ của đa số nhân dân trong xã hội, là chế độ dân chủ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 1.1.2.Dân chủ cơ sở Nền dân chủ XHCN là một nền dân chủ toàn diện và triệt để nhất trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội; tạo mọi điều kiện cho con người phát triển toàn diện về mọi mặt. Đây chính là mục tiêu mà CNXH phải phấn đấu để thực hiện được nhằm khẳng định nền dân chủ XHCN "cao gấp triệu lần dân chủ tư sản" (Lênin ). Trong chế độ dân chủ XHCN, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng hai hình thức: dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Ở hình thức gián tiếp nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua bầu cử các cơ quan, tổ chức, cá nhân đại diện tham gia vào các quyết định của Nhà nước. Ở hình thức dân chủ trực tiếp mỗi người dân có quyền tham gia trực tiếp vào các quyết định của Nhà nước trên cơ sở dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Với dân chủ gián tiếp, ý nghĩa thật sự của nền dân chủ (nhân dân quyết định công việc nhà nước) phụ thuộc hoàn toàn vào mối quan hệ thực tế giữa người đại diện, chính quyền, người dân, và chỉ đạt tới lí tưởng một khi quan hệ đó mang bản chất dân chủ trực tiếp - đích phấn đấu của mọi nhà nước dân chủ trên thế giới ngày nay. Có thể thấy, trong nhiều trường hợp dân chủ trực tiếp có những yếu điểm mà dân chủ gián tiếp không có được. Dân chủ trực tiếp có khả năng thể hiện một cách khách quan ý chí, nguyện vọng của nhân dân không cần thông qua một hình thức trung gian nào. Chính vì thế Lênin đã chỉ ra rằng: 11 " Không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố sắc lệnh về dân chủ là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho " những người đại diện " nhân dân trong những cơ quan đại diện là đủ. Cần xây dựng ngay chế độ dân chủ bắt đầu từ cơ sở dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thật sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước, không có "sự giám sát" từ trên, không có quan lại" [18, tr.336 - 337] Việc đề cao dân chủ trực tiếp là xuất phát từ bản chất của chế độ XHCN. Theo Lênin: ''Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thử nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn ...đó là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cuộc đấu tranh cách mạng xã hội" [19, tr 97] Dân chủ là một thành quả to lớn của sự phát triển lịch sử của nhân loại, vì vậy phát huy dân chủ trong quá trình đổi mới ở nước ta là đòi hỏi tất yếu của sự phát triển. Đảng ta coi việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ là một trong những nội dung thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN mà còn là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển công cuộc đổi mới của xã hội ta, khâu quan trọng cấp bách hiện nay là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Hệ thống chính quyền ở nước ta gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh ( thành phố trực thuộc), huyện ( thị xã, quận) và xã ( phường), các cấp này đều vận hành theo nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ XHCN - nguyên tắc tập trung dân chủ. Có thể nói việc đẩy mạnh phát huy dân chủ ở cơ sở là xuất phát từ nhu cầu tất yếu khách quan của thực tiễn xã hội. Đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước có đi vào cuộc sống hay không tuỳ thuộc chủ yếu vào sự quán triệt và thực hiện như thế nào ở cấp cơ sở. Cơ sở xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp.. là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của 12 Nhà nước, là địa bàn nhân dân sinh sống, lao động sản xuất, học tập và công tác, là nơi diễn ra các mối quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân với các cấp uỷ Đảng và chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức... Chính vì vậy mà nhân dân có quyền được biết, được bàn và được tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra ở cơ sở đồng thời có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động hàng ngày của cấp uỷ, chính quyền và cán bộ lãnh đạo. Triết lí cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi thiết kế và tổ chức xây dựng một chế độ chính trị cách mạng đầu tiên ở nước ta được tóm tắt trong hai từ dân chủ. Lý tưởng cốt yếu của Người về chế độ dân chủ là: mọi quyền lực đều ở nơi dân; dân là chủ nhân của đất nước; dân là chủ thể tối cao của mọi thứ quyền lực trong xã hội. Theo Người, dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ nhà nước. Người khẳng định bản chất nền dân chủ XHCN, là đỉnh cao của nền dân chủ. Hồ Chí Minh thấy rất rõ rằng: '' Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có thì làm gì cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra" [25, tr. 295 ]. Người nhấn mạnh việc thực thi dân chủ ở từng địa phương, từng cơ sở, từng cán bộ, từng người dân, từng công việc cụ thể. Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, phải làm cho dân hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong vị thế của người làm chủ. Vì vậy, Người yêu cầu: '' Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương" [25, tr.216 ] Khi dân được biết, được hiểu, được bàn bạc xây dựng kế hoạch của địa phương, cơ sở mình họ sẽ dùng chính sức lao động của họ và những việc làm cụ thể một cách tự giác. Và theo Hồ Chí Minh,việc kiểm tra, rút kinh nghiệm 13 sau khi thi hành một công việc xong, là vô cùng quan trọng. Dân kiểm tra cán bộ, cán bộ kiểm tra dân, dân và cán bộ cùng kiểm tra mọi hoạt động." Lề lối làm việc phải dân chủ. Cấp trên phải thường xuyên kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp trên [26, tr. 9 ]. Ngày nay, phương châm ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'' là thể hiện tư tưởng đó của Hồ Chí Minh. Từ Đại hội VI, Đảng ta đã chủ trương thực hiện có nề nếp phương châm này. Và thực tế khách quan đã kiểm chứng sự cần thiết của việc phải đưa phương châm đó vào cuộc sống. Và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII ( tháng 6/1997) đã khẳng định khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Để phát huy sâu rộng quyền làm chủ của nhân dân, ngày 18 - 2 - 1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và Chính phủ đã ban hành Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan và doanh nghiệp nhà nước. Đây chính là những văn bản có tính chính trị và pháp lý làm cơ sở để mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở xây dựng và thực hành dân chủ. Dân chủ ở cơ sở là quyền dân chủ trực tiếp của người dân, là hình thức nhân dân được thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan chính quyền ở cơ sở. Dân chủ ở cơ sở được tiến hành từ cấp xã, phường trở xuống đến cấp thôn xóm, đơn vị, cơ quan, nhà máy, xí nghiệp theo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Có nhiều hình thức để thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở: Trưng cầu dân ý; bầu và bãi miễn đại biểu cơ quan dân cử; bàn bạc, thảo luận, tham gia quyết định, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, 14 trật tự an ninh ở cơ sở; tố cáo, khiếu nại; xây dựng quy định, quy ước tự quản v.v...Cơ sở ở đây là xã, phường; là cơ quan, đơn vị, trong đó có trường học. 1.1.3. Dân chủ trong trƣờng học Trường học là nơi giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và phát triển các phẩm chất và năng lực về ý tưởng và đạo đức, tri thức khoa học và kỹ năng...cho công dân.Giáo dục nhà trường là con đường cơ bản nhất để hình thành những người lao động có kỹ thuật, có kỷ luật cao đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ có giáo dục và đào tạo mà trình độ học vấn của nhân dân được nâng cao, có khả năng nắm bắt và sử dụng những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến hiện đại. Mác và Ăngghen xác định, tri thức khoa học chính là động lực của phong trào cách mạng. Theo các ông, công nhân đã có một trong những yếu tố của thành công là số lượng, nhưng số lượng chỉ giải quyết được vấn đề khi quần chúng được tổ chức lại và được tri thức chỉ đạo. Là người kế tục Mác và Ăngghen, Lênin cũng đặc biệt coi trọng học tập. Lênin khẳng định: " Muốn đổi mới bộ máy nhà nước của chúng ta, phải cố hết sức tự đặt cho mình nhiệm vụ sau đây: một là học tập, hai là học tập, ba là học tập và sau nữa, phải làm sao cho học thức ở nước ta không nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa, phải làm sao cho học thức thật sự ăn sâu vào trí não, hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống chúng ta.'' [21, tr.444]. Tiếp thu và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin , Hồ Chí Minh dày công tìm kiếm phát hiện và giới thiệu cho đất nước những nét tiến bộ mới của nền giáo dục kiểu mới của nhân dân lao động. Đó là nền giáo dục Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính nhân đạo và tính dân chủ cao cả. Trong nền giáo dục ấy, việc phát huy cao độ dân chủ trong giáo dục ở nhà trường luôn là tiền đề cần thiết đảm bảo cho sự phát triển toàn diện những 15 năng lực sẵn có của con người; là nền giáo dục mà theo Người: ''Dạy và học cần phải theo nhu cầu của dân tộc, của Nhà nước''( trong bài: Nói chuyện tại Đại hội giáo dục phổ thông toàn quốc, ngày 23/3/1956, Báo Nhân dân, số 753, ngày 26/3/1956). Trong Thư gửi các cán bộ, cô giáo, thầy giáo, công nhân viên, học sinh, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm học mới, Báo Nhân dân, số 5299, ngày 16/10/1968, Hồ Chí Minh viết: ''Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa''. Chính vì lẽ đó nên Hồ Chí Minh cho rằng, trong trường học cần phải có dân chủ, cần phải thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Đồng thời, thầy và trò cần giúp đỡ anh em phục vụ cho nhà trường. Các anh chị em nhân viên thì nên thi đua để cho cơm lành canh ngọt để học sinh ăn no, học tốt. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh: ''Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ XHCN, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó''.[28, tr.403] Cũng theo Hồ Chí Minh, thực hiện dân chủ không chỉ bó hẹp trong nhà trường mà ngoài ra cần có mở rộng ra trong gia đình và ngoài xã hội để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Hồ Chí Minh viết: ''Tôi cũng mong các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà trường giáo dục và khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân dân''[ 27, tr, 81]. Trong công cuộc xây dựng CNXH, Đảng ta đã xác định: Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế. Sự nghiệp giáo dục có nhiệm vụ đào tạo ra các thế hệ công dân trung thành với sự nghiệp cách mạng, có đầy đủ năng lực và bản lĩnh vượt qua mọi khó 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan