ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
LÝ LỆ
THÀNH NGỮ NÓI VỀ TÍNH CÁCH CON NGƢỜI TRONG
TIẾNG HÁN
(Liên hệ với thành ngữ tiếng Việt)
Chuyê ngành: Ngôn ngữ học
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Hà Nội 11/2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
LÝ LỆ
THÀNH NGỮ NÓI VỀ TÍNH CÁCH CON NGƢỜI TRONG
TIẾNG HÁN
(Liên hệ với thành ngữ tiếng Việt)
Chuyê ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn
Hà Nội 11/2013
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kì công trình nào khác.
Người thực hiện luận văn
Lý Lệ
2
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô Khoa Ngôn ngữ học đã tận tình
giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, đặt biệt là PGS.TS Nguyễn
Hồng Cổn, người trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này. Xin cảm ơn các
anh chị học viên cao học cùng lớp đã động viên giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập.
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………….8
0.1 Lý do chọn đề tài…………………………………………………….8
0.2 Tình hình nghiên cứu……………………………………………….10
0.3 Đối tượng mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………....12
0.4 Phương pháp nghiên cứu và tư liệu………………………………...13
0.5 Bố cục của luận văn………………………………………………...13
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT………………………………16
1.1 Khái niệm thành ngữ và đặc điểm thành ngữ trong tiếng Hán……..16
1.1.1 Khái niệm thành ngữ trong tiếng Hán……………………………………...16
1.1.2 Đặc điểm chung của thành ngữ trong tiếng Hán………………………….20
1.2 Phân biệt thành ngữ với các ngữ cố định khác trong tiếng Hán……24
1.2.1 Phân biệt thành ngữ với tục ngữ…………………………………………….24
1.2.2 Phân biệt thành ngữ với ngạn ngữ………………………………………….26
1.2.3 Phân biệt thành ngữ với yết hậu ngữ……………………………………….27
1.2.4 Phân biệt thành ngữ với quán dụng ngữ…………………………………...27
1.3 Khái niệm tính cách con người và thành ngữ nói về tính cách con
người……………………………………………………………………...28
1.3.1 Tính cách con người………………………………………………………….28
1.3.2 Thành ngữ nói về tính cách con người…………………………………….30
1.4 Tiểu kết……………………………………………………………..32
CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA CÁC
4
THÀNH NGỮ NÓI VỀ TÍNH CÁCH CON NGƢỜI TRONG
TIẾNG HÁN (Liên hệ với thành ngữ tiếng Việt)………………....34
2.1 Dẫn nhập……………………………………………………………34
2.2 Đặc điểm cấu tạo của thành ngữ nói về tính cách con người trong
tiếng Hán………………………………………………………………….35
2.2.1 Các thành ngữ nói về tính cách con người có cấu trúc đề-thuyết………36
2.2.2 Các thành ngữ nói về tính cách con người có cấu trúc đẳng lập……….38
2.2.3 Các thành ngữ nói về tính cách con người có cấu trúc chính phụ……...41
2.2.4 Các thành ngữ nói về tính cách con người có cấu trúc động-tân……….44
2.2.5 Các thành ngữ nói về tính cách con người có cấu trúc động-bổ………..44
2.2.6 Các thành ngữ nói về tính cách con người có cấu trúc liên động………45
2.2.7 Các thành ngữ nói về tính cách con người có cấu trúc câu phức………46
2.3 Đặc điểm cấu tạo của các thành ngữ nói về tính cách con người trong
tiếng Việt………………………………………………………………….49
2.3.1 Các thành ngữ nói về tính cách con người có cấu trúc chủ vị…………..50
2.3.2 Các thành ngữ nói về tính cách con người có cấu trúc đẳng lập……….50
2.3.3 Các thành ngữ nói về tính cách con người có cấu trúc chính phụ……...51
2.4 So sánh thành ngữ nói về tính cách con người trong tiếng Hán và
tiếng Việt………………………………………………………………….52
2.4.1 Về các thành tố cấu tạo……………………………………………………….52
2.4.2 Về cấu trúc thành ngữ………………………………………………………...53
2.5 Tiểu kết……………………………………………………………..53
CHƢƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA CÁC THÀNH
5
NGỮ NÓI VỀ TÍNH CÁCH CON NGƢỜI TRONG TIẾNG HÁN
(Liên hệ với thành ngữ tiếng Việt)………………………….……..55
3.1 Dẫn nhập……………………………………………………………55
3.2 Phương thức tạo nghĩa và đặc điểm ngữ nghĩa của các thành ngữ nói
về tính cách con người trong tiếng Hán (Liên hệ với thành ngữ tiếng
Việt)............................................................................................................56
3.2.1 Các phương thức tạo nghĩa của thành ngữ nói về tính cách con người
trong tiếng Hán…………………………………………………………………………56
3.2.1.1 Khái quát hóa………………………………………………………………..57
3.2.1.2 Cụ thể hóa……………………………………………………………………57
3.2.1.3 Ẩn dụ hóa…………………………………………………………………….58
3.2.1.4 Hợp nghĩa…………………………………………………………………....58
3.2.2 Đặc điểm ngữ nghĩa của các thành ngữ nói về tính cách con người trong
tiếng Hán………………………………………………………………………………..59
3.2.2.1
Nghĩa đen (nghĩa gốc) của thành ngữ nói về tính cách con
người…………………………………………………………………………………….59
3.2.2.2 Nghĩa bóng (nghĩa biểu trưng) của thành ngữ nói về tính cách con
người…………………………………………………………………………61
3.3 Đối chiếu ngữ nghĩa của các thành ngữ nói về tính cách con người
trong tiếng Hán và tiếng Việt…………………………………………….62
3.3.1 Loại hình tính cách con ngữ trong thành ngữ tiếng Hán và thành ngữ
tiếng Việt………………………………………………………………………………..63
3.3.1.1 Phân tích ngữ liệu………………………………………………………….64
6
3.3.1.2 Nhận xét………………………………………………………………………73
3.3.2 Các phương tiện biểu trưng của thành ngữ nói về tính cách con người
trong tiếng Hán và tiếng Việt………………………………………………………....73
3.3.2.1 Các hiện tượng hay sự vật liên quan đến thiên văn địa lí……………..74
3.3.2.2 Các hiện tương hay sự vật liên quan đến động vật (bao gồm các bộ
phận cơ thể của động vật) và thực vật……………………………………………….75
3.3.2.3 Các bộ phận cơ thể của con người (gồm ngũ quan tứ chi, ngũ tạng lục
phủ và sự thay đổi của nội tạng hoặc sự hoạt động của cơ thể)…………………78
3.4 Tiểu kết……………………………………………………………..82
KẾT LUẬN…………………………………………………………85
Tài liệu tham khảo………………………………………………….88
Phụ lục 1…………………………………………………………….91
Phụ lục 2…………………………………………………………...112
Phụ lục 3…………………………………………………………..122
7
MỞ ĐẦU
0.1 Lý do chọn đề tài
Cổ nhân có câu: “Bách nhân, bách tính”, nghĩa là tính cách của con
người không ai giống ai. Trong cuộc sống có những người mang tính cách dũng
cảm, những người mang tính cách nhút nhát, có người luôn 舍己为人-xả kỷ vị
nhân (quên mình vì người), cũng có người lại 自私自利-tự tư tự lợi (ích
kỷ)...Và chúng tôi quan niệm rằng người Trong Quốc siêng năng, hiếu học,
thông minh và giỏi bắt chước... Người Việt Nam cần cù lao động, dễ thỏa mãn,
chuộng hòa bình, trọng lễ giáo...Tuy nhiên xét về văn hóa-xã hội thì tính cách
con người của hai nước có nhiều điểm tương đồng.
Việc nghiên cứu về tính cách con người nhằm mục đích tìm hiểu ngôn
ngữ và văn hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam là một công trình nghiên cứu vừa
thú vị vừa có giá trị. Tuy nhiên sự nghiên cứu một cách khách quan về tính cách
con người đã được thể hiện trong một số công trình nghiên cứu về tâm lí, văn
hóa và lịch sử dân tộc. Cho nên trong bài luận văn chúng tôi sẽ giới hạn vào
ngôn ngữ, chủ yếu đi vào nghiên cứu thành phần từ vựng nói chung và các thành
ngữ nói về tính cách con người trong tiếng Hán nói riêng. Lý do chọn đề tài của
chúng tôi chủ yếu gồm hai điểm như sau:
Điểm thứ nhất: Trong tiếng Hán, có một kho tàng thành ngữ khá phong
phú, trong đó có nhiều thành ngữ nói về tính cách của con người như:
心直口快 tâm trực khẩu khoái (nhanh mồm nhanh miệng)
多愁善感 đa ầu thiện cảm (đa sầu đa cảm)
8
好吃懒做-hảo ngật lãn tố (ham ăn biếng làm)
冰清玉洁-băng thanh ngọc khiết (trong như ngọc, trắng như ngà) v.v...
Về mặt ý nghĩa, các thành ngữ này chủ yếu nói về các tính cách của con
người thể hiện qua đạo đức, tâm lí, tình cảm hay trí tuệ. Về mặt cấu tạo và
phương tiện biểu hiện, bên cạnh các thành ngữ mô tả “和蔼可亲-hòa ái khá
thân (dễ thương), 大义凛然-đại nghĩa lãm nghiên (hiên ngang lẫm liệt)…”, có
nhiều thành ngữ sử dụng các phương thức ẩn dụ “心直口快-tâm trực khẩu
khoái (lòng ngay dạ thẳng), 真金不怕火炼-chân kim bất phạ hỏa luyện (vàng
thật không sợ lửa)”, so sánh “赤子之心 (xích tử chi tâm)—tấm lòng son, 年高
德劭 (niên cao đức thiệu)—tuổi cao đức trọng, 贪得无厌 (tham đắc vô
yếm)—lòng tham không đáy”, mang những đặc điểm ngôn ngữ văn hóa của
tiếng Việt và người Hán. Những thành ngữ này không phải lúc nào cũng có các
thành ngữ tương ứng hoặc có thể chuyển dịch sang các thành ngữ tương đương
trong tiếng Việt. Thực tế đó tạo ra những khó khăn cho việc giảng dạy, học tập
cũng như chuyển dịch các thành ngữ hữu quan của tiếng Hán sang tiếng Việt.
Điểm thứ hai, hiện nay, cùng với các quan hệ chính trị và kinh tế, quan
hệ giữa hai nước Trung Quốc và Việt Nam ngày càng phát triển rộng rãi và sâu
sắc hơn về mặt giao lưu ngôn ngữ và văn hóa. Ở các trường đại học cũng như
ngoài xã hội số lượng người Việt Nam học và sử dụng tiếng Hán ngày càng tăng,
góp phần phát triển và mở rộng quan hệ giao lưu về ngôn ngữ và văn hóa giữa
hai nước. Trong bối cảnh đó, để giúp những người Việt Nam học tiếng Hán hiểu
biết hơn về kho tàng thành ngữ tiếng Hán nói chung và các thành ngữ nói về
tính cách con người của tiếng Hán nói riêng, đồng thời nắm được những tương
9
đồng và khác biệt của các thành ngữ này ở hai ngôn ngữ, chúng tôi chọn nhóm
thành ngữ này làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
0.2 Tình hình nghiên cứu
Các thành ngữ tiếng Hán đã được nghiên cứu khá kỹ ở Trung Quốc, đặc
biệt là trong giai đoạn những năm 80 của thế kỷ trước. Các công trình nghiên
cứu này đã đề cập đến các thành ngữ tiếng Hán từ nhiều góc độ khác nhau, như
giải thích nguồn gốc (Dương Thiên Dực, “Nguồn gốc thành ngữ tiếng Hán”,
Nxb Giảng dạy và Nghiên cứu ngoại ngữ, 1982; Lý Nhất Hoa, “Tu bổ và chứng
minh nguồn gốc của những thành ngữ thường dùng”, Học báo Đại học Thiên
Tân, số 2/1983, và “Tìm cội nguồn của những thành ngữ thường dùng”, Nghiên
cứu Ngữ văn, số 4/1983), tìm hiểu quá trình phát triển (Phan Doãn Trung, “Sự
hình thành và phát triển của thành ngữ, điển cố”, Học báo Đại học Trung Sơn,
số 2/1980), mô tả các đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa (Nghi Bảo Nguyên, “Phân
biệt rõ thành ngữ”, Nxb KHXH Trung Quốc, 1979; Tôn Lương Minh, “Một số
vấn đề về việc biểu hiện từ tính trong việc giải thích ý nghĩa thành ngữ tiếng
Hán”, Thông tấn ngữ văn Trung Quốc, số 5/1980; Thái Kính Hạo, “Bàn qua
việc giải thích ý nghĩa của thành ngữ”, Học báo Đại học Tô Châu, số 2/1984)
v.v...
Ở giai đoạn này, hướng nghiên cứu đối chiếu và nghiên cứu chuyển dịch
giữa thành ngữ tiếng Hán và thành ngữ của các ngôn ngữ khác cũng được nhiều
nhà nghiên cứu bước đầu quan tâm. Đáng chú ý là các công trình nghiên cứu đối
chiếu thành ngữ tiếng Hán với thành ngữ tiếng Anh và tiếng Nga (Hướng Quang
Trung, “Quan hệ giữa thành ngữ và môi trường tự nhiên, truyền thống văn hóa
10
và đặc trưng ngôn ngữ của dân tộc”, Ngữ văn Trung Quốc, 1979), đối chiếu
thành ngữ tiếng Hán và thành ngữ tiếng Việt (Trần Văn Bác, “Thành ngữ tiếng
Hán và thành ngữ tiếng Việt”, Nxb Giảng dạy và Nghiên cứu Ngoại ngữ, 1982),
nghiên cứu chuyển dịch thành ngữ tiếng Hán sang tiếng Indonesia (Tôn Viễn
Chí, “Bàn về vấn đền dịch thành ngữ tiếng Hán sang tiếng Inđô-nê-xia”, Tuyển
tập Nghiên cứu Phương Đông, số 4/1983).
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của phong trào học tập,
nghiên cứu tiếng Việt ở Trung Quốc và tiếng Hán ở Việt Nam, hướng nghiên cứu
đối chiếu thành ngữ tiếng Hán và tiếng Việt được quan tâm mạnh mẽ ở cả hai
nước, đặc biệt là trong các trường đại học. Ở Trung quốc, có thể kể đến các đề tài
luận văn thạc sĩ về loại đề tài này như:
- 《汉越成语中的数词对比研究》 (范氏缘红, 广西师范大学, 2008)
(“So sánh và đối chiếu số từ trong thành ngữ tiếng Hán và thành ngữ tiếng Việt”,
Phạm Thị Duyên Hồng , Đại học Sư phạm Quảng Tây, 2008);
-《汉越成语同异对比研究》 (李文河 东北师范大学
) (“So sánh
và đối chiếu sự giống nhau và khác nhau của thành ngữ tiếng Hán và thành ngữ
tiếng Việt”, Lý Văn Hà, Đại học Sư phạm Đông Bắc, 2011);
《
- 汉越动物成语对比研究》 (韦氏水 吉林大学
) (“So sánh và đối
chiếu các động vật trong thành ngữ tiếng Hán và thành ngữ tiếng Việt”, Vi Thị
Thủy, Đại học Cát Lâm, 2012).
Ngoài ra còn có một số bài nghiên cứu đối chiếu về màu sắc, cấu tạo thân
thể, sự vận dụng ẩn dụ trong thành ngữ v.v...
11
Ở Việt Nam đề tài loại này cũng thu hút sự chú ý của nhiều công trình
nghiên cứu mà phần lớn cũng là các luận văn thạc sĩ:
- “Đặc điểm của các thành ngữ chỉ tâm lý tình cảm trong tiếng Hán (có
sự đối chiếu với tiếng Việt)” (Vi Trường Phúc, ĐHKHXH&NV Hà Nội, 2005);
- “Khảo sát thành ngữ có yếu tố chỉ thực vật trong tiếng Hán (có so sánh
với tiếng Việt)” (Đường Tú Trân, ĐHKHXH&NV Hà Nội, 2007);
- “Khảo sát thành ngữ tiếng Hán có yếu tố chỉ con số trong sự đối chiếu
với thành ngữ tiếng Việt có yếu tố là con số” (Giang Thị Tám, ĐHKHXH&NV
Hà Nội, 2007);
- “Khảo sát thành ngữ có con số trong tiếng Hán và cách thức chuyển
dịch sang tiếng Việt” (Mạc Tử Kỳ, ĐHKHXH&NV Hà Nội, 2009).
Tuy nhiên cho đến nay chúng tôi vẫn chưa thấy công trình nghiên cứu nào
nghiên cứu về các thành ngữ nói về tính cách con người trong tiếng Hán, hoặc
nghiên cứu đối chiếu các thành ngữ nói về tính cách con người trong tiếng Hán
với thành ngữ tiếng Việt cũng như cách thức chuyển dịch các thành ngữ này sang
tiếng Việt.
0.3 Đối tƣợng, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là những thành ngữ nói về tính cách
con người trong tiếng Hán, có liên hệ với các thành ngữ chỉ tính cách con người
trong tiếng Việt. Nói cách khác, đó là những thành ngữ chỉ tính cách con người
như: Thành ngữ biểu hiện tính cách con người dũng cảm như 浑身是胆-hỗn
thân thị đảm (gan góc dũng cảm); Thành ngữ biểu hiện tính cách con người nhút
nhát như 胆小如鼠-đảm tiểu như thử (nhát như thỏ); Thành ngữ biểu hiện tính
12
cách con người chăm chỉ như 发愤忘食-phát phẫn vong thực (làm quên ăn quên
ngủ) v.v...
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là thông qua khảo sát các thành ngữ
nói về tính cách con người trong tiếng Hán có liên hệ với các thành ngữ cùng
loại trong tiếng Việt nhằm tìm hiểu những điểm tương đồng và khác biệt của các
thành ngữ này ở hai ngôn ngữ, qua đó góp phần vào việc nghiên cứu thành ngữ
và các đặc trưng của ngôn ngữ và văn hóa của hai dân tộc Trung Hoa và Việt
Nam.
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ sau
đây:
- Giới thiệu những khái niệm lý thuyết cơ bản liên quan đến thành ngữ.
- Khảo sát phương thức cấu tạo và phương thức biểu hiện ý nghĩa của
các thành ngữ nói về tính cách con người trong tiếng Hán, qua đó nêu lên những
đặc trưng về ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc.
- So sánh với thành ngữ nói về tính cách con người trong tiếng Việt, qua
đó làm nổi bật những điểm tương đồng và khác biệt của loại thành ngữ này ở hai
ngôn ngữ và ứng dụng vào việc giảng dạy, học tập.
0.4 Phƣơng pháp nghiên cứu và tƣ liệu
Trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng hai
phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp mô tả (cấu trúc và ngữ nghĩa)
và phương pháp phân tích đối chiếu (liên ngữ và liên văn hóa). Ngoài ra luận
văn cũng sử dụng nhiều phương pháp và thủ pháp nghiên cứu khác như: diễn
dịch, quy nạp, thống kê, phân loại.
13
Các tư liệu được luận văn sử dụng để làm tư liệu tham khảo chủ yếu bao
gồm các thành ngữ chỉ tính cách con người được rút ra từ 2 quyển từ điển:
1)《汉语成语词典》,(商务印书馆国际有限公司出版,孙梦梅主编,
2009 年) (“Từ điển thành ngữ Hán ngữ”, Nxb Cty HH quốc tế in ấn Thương
mại , Tôn Mộng Mai chủ biên, 2009);
2 “Từ điển thành ngữ Hoa Việt thông dụng”, (Khổng Đức, Trần Bá
Hiền chủ biên, Nxb Văn hóa Thông tin, 2001).
Ngoài ra chúng tôi cũng tham khảo thêm một số quyển từ điển khác như:
“Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam” (Nguyễn Bích Hằng chủ biên, Nxb Văn
hóa-Thông tin, 2005); “Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt” (Nguyễn Như Ý
chủ biên, Nxb Giáo dục, 1995).
0.5 Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm ba
chương với nội dung như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Trình bày một số nội dung lý thuyết liên quan đến thành ngữ, và thành
ngữ nói về tính cách con người.
Chương 2: Đặc điểm cấu tạo của các thành ngữ nói về tính cách con người trong
tiếng Hán (Liên hệ với thành ngữ tiếng Việt)
Khảo sát đặc điểm cấu tạo (cấu trúc, từ loại, phương tiện biểu hiện nghĩa)
của các thành ngữ nói về tính cách con người trong tiếng Hán và liên hệ với các
đặc điểm tương ứng của thành ngữ tiếng Việt.
Chương 3: Ý nghĩa và phương thức tạo nghĩa của các thành ngữ nói về tính cách
14
con người trong tiếng Hán (Liên hệ với thành ngữ tiếng Việt)
Khảo sát các đặc điểm về mặt ngữ nghĩa và phương thức tạo nghĩa của
các thành ngữ nói về tính cách con người trong tiếng Hán, so sánh với thành ngữ
tiếng Việt, từ đó nêu ra sự giống nhau và khác nhau giữa chúng.
15
CHƢƠNG
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1 Khái niệm thành ngữ và đặc điểm thành ngữ trong tiếng Hán
Thành ngữ (idiom) là một loại cụm từ cố định được dùng khá phổ biến
như một đơn vị ngôn ngữ trong các ngôn ngữ. Thành ngữ của nước nào là tinh
hoa của ngôn từ nước đó. Theo Tây phương thì thành ngữ là cách sử dụng hay
hình thức đặc biệt của ngôn từ, còn Đông phương thì cho thành ngữ là cụm từ
được nhân dân quen dùng từ lâu, có hình thức gọn gàng mà ý nghĩa rất sâu xa.
Từ điển Ngôn ngữ học và Ngữ âm học (Dictionary of Linguistics and Phonetics)
của David Cristal (1980/1997: 189) định nghĩa “ thành ngữ là một kết hợp các từ
hạn chế về mặt ngữ nghĩa và ngữ pháp, khiến cho chúng hành chức như một đơn
vị độc lập”. Xét từ quan điểm cú pháp, thành ngữ ít có khả năng có biến thể ở
các ngữ cảnh khác, và vì vậy thường được gọi là các “phát ngôn có sẵn”
(ready-made utteraces) hoặc là các “kết hợp quen dùng” (habitual collocations).
1.1.1 Khái niệm thành ngữ trong tiếng Hán
Ở Trung Quốc, trong tư liệu của các thư tịch cổ, hai chữ “thành ngữ”
được xuất hiện sớm nhất là ở Đời Tống, khi đó cũng có một cách nói khác là
“Toàn ngữ”, tuy nhiên trước đó, ở Đời Đông Hán thành ngữ đã xuất hiện với cái
tên là “thành ngôn”. Và đến Đời Minh Thanh thì khái niệm thành ngữ lại được
tiếp tục sử dụng.
Vậy khái niệm thành ngữ là gì? Ở thời cận hiện đại khái niệm thành ngữ
được xác định rõ hơn thông qua một số định nghĩa từ các từ điển như:
16
- Từ điển Từ Nguyên (năm 1915) coi thành ngữ là cổ ngữ, phản ánh
những gì lưu hành trong xã hội, có thể dẫn dụng để biểu thị ý nghĩa của mình
đều là thành ngữ.
- Từ điển Từ Hải (năm 1936) coi những cổ ngữ được mọi người hay dẫn
dụng gọi là thành ngữ. Thành ngữ có nguồn gốc hoặc từ kinh truyện, hoặc từ
ngạn ngữ ca dao, được xã hội quen biết, được người dân thường dùng, quen
nghe.
- Từ điển Từ Hải (năm 1979) coi thành ngữ là một loại thục ngữ, là
những cụm từ cố định được quen dùng. Thành ngữ trong tiếng Hán phần lớn
được cấu thành bởi bốn chữ, có kết cấu tổ chức đa dạng, và nhiều nguồn gốc
khác nhau. Một số thành ngữ có thể được lí giải qua từng yếu tố cấu tạo của nó,
một số thành ngữ phải biết được nguồn gốc mới hiểu được ý nghĩa của nó.
- Đại từ điển Bách khoa Trung Quốc (năm 1990) định nghĩa thành ngữ là
một loại cụm từ cố định, lời gọn mà ý sâu, được nhân dân quen dùng từ đời này
sang đời khác.
- Từ điển Hán ngữ hiện đại (năm 2002) xác định thành ngữ là một loại
cụm từ cố định được người dân quen dùng trường kì, ý nghĩa trọn vẹn, kết cấu
cố định, cấu trúc đơn giản, được sử dụng một cách chỉnh thể.
Vào những năm 80, tác giả Hoàng Bá Vinh và Liêu Tự Đông (năm 1981)
cho rằng thành ngữ là những từ tổ cố định đặc biệt, được mọi người quen dùng
xưa nay. Tác giả Trương Tĩnh cũng cho thành ngữ là những từ tổ cố định mà có
hai đặc điểm cơ bản là tính hoàn chỉnh về nghĩa và tính cố định về cấu trúc. Đến
thập kỳ 90, ngắn gọn nhưng cũng khá rõ ràng, tác giả Mạc Bành Linh (năm
17
1999) đã đề xuất một ý kiến định nghĩa cho thành ngữ đó chính là thành ngữ
tiếng Hán là một loại trong thục ngữ, chúng là những cụm từ cố định mang sắc
thái văn viết được nhân dân quen dùng từ đời này sang đời khác, hình thức cơ
bản của chúng là “tứ từ cách”. Chẳng hạn như 安贫乐道-an bậc lạc đạo, 英雄
好汉-anh hùng háo hán v.v...
Ở Việt Nam, các nhà Việt ngữ học khi định nghĩa về thành ngữ đều có
cách nhìn tương tự nhau, mặc dù cách diễn đạt không phải lúc nào cũng giống
nhau. Theo Nguyễn Thiện Giáp “thành ngữ là cụm từ cố định, vừa có tính hoàn
chỉnh về nghĩa, vừa có tính gợi cảm.” (“Từ vựng học tiếng Việt”, Nxb Giáo dục,
2009). Đây là một định nghĩa về khái niệm thành ngữ vừa ngắn gọn vừa rõ ràng.
Ví du: Ăn cháo đái bát, bút sa gà chết v.v... Nhiều nhà Việt ngữ học khác (như
Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Tu, Trương Đông San….) cũng đưa ra các định
nghĩa khác nhau về thành ngữ. Để hiểu rõ hơn các quan niệm về thành ngữ trong
tiếng Việt, chúng tôi đã tập hợp các định nghĩa về thành ngữ tiếng Việt của các
nhà Việt ngữ học này qua bảng sau:
S
T
T
NĂM
TÁC GIẢ
ĐỊNH NGHĨA THÀNH NGỮ
1
1972
Nguyễn Văn
Ngọc
Thành ngữ là những đơn vị có nội dung giới thiệu, mô tả
một hình ảnh một hiện tượng, một tính cách, một trạng thái. Về
mặc hình thức, tuyệt đại đa số chúng là những cụm từ cố định.
2
1975
Nguyễn
Thiện Giáp
Thành ngữ là loại đơn vị trung gian giữa một bên là các
ngữ và một bên là các quán ngữ và tục ngữ. Thành ngữ cũng là
đơn vị định danh cũng là ten gọi của một sự vật, hiện tượng, là sự
thể hiện của một khái niệm (có tính thống nhất về nghĩa) đồng
thời cái nghĩa cộng lại của các thành tố theo qui luật cú pháp cũng
cần được hiểu.
3
1976
Hồ Lê
Thành ngữ là những tổ hợp từ (gồm nhiều từ hợp lại), có
tính vững chắc về cấu tạo và bóng bẩy về ý nghĩa, dùng để miểu
18
tả một hình ảnh, một hiện tượng, một tính cách, một trạng thái.
4
1976
Nguyễn
Văn Tu
Thành ngữ là cụm từ cố định, các thành phần trong đó đã
mất đi tính độc lập, sau khi kết hợp tạo thành một chỉnh thể cố
định. Ý nghĩa của thành ngữ không thể đơn giản suy ra từ các yếu
tố cấu thành.
5
1976
Trương Đông
Sam
Thành ngữ là đơn vị cao nhất của ngôn ngữ, gồm hai thực
từ trở lên, cố định về thành phần từ vị và về cấu trúc, bền vững về
ngữ nghĩa, nghĩa của thành ngữ bóng bẩy và biểu cảm.
6
1978
Đới
Ninh
Thành ngữ là cụm từ cố định mà các yếu tố tạo thành đã
mất tính độc lập ở cái mức nào đó, và kết hợp lại thành một khối
tương đối vững chắc và hoàn chỉnh.
7
1983
Cù Đình Tú
Thành ngữ là tổ hợp từ cố định có chức năng gọi tên sự vật,
tính chất, hành động; có nội dung hàm súc và hình thức đẹp đẽ.
8
1985
Nguyễn
Thiện Giáp
Thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính hoàn chỉnh
về nghĩa, vừa có tính gợi cảm.
9
1986
Nguyễn Đức
Minh
Thành ngữ là những đơn vị ngôn ngữ ổn định về hình thức,
phản ánh những lối nói, lối suy nghĩ đặc thù của dân tộc, phản
ánh khái niệm và hiện tượng.
10
1994
Nguyễn Hữu
Quỳnh
Thành ngữ là cụm từ cố định, có tính hoàn chỉnh về nghĩa,
có sắc thái biểu cảm, có tính hình tượng và tính cụ thể. Phần lớn
thành ngữ đồng nghĩa hoặc tương đương với một từ.
11
1995
Trương Văn
Sinh
Thành ngữ là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về kết cấu và ý
nghĩa; mang tính hình tượng và gợi cảm, được sử dụng tương
đương như từ.
12
1995
Đỗ
Hùng
Thành ngữ là ngữ cố định có tính hoàn chỉnh về nghĩa, có
sắc thái biểu cảm, có tính hình tượng và tính cụ thể. Nghĩa của
thành ngữ thường không hiểu trực tiếp từ nghĩa đen của các yếu
tố cấu tạo; phần lớn thành ngữ tương đương với từ và có tham gia
cấu tạo câu.
13
1995
Bùi Tất Tiễn
Thành ngữ là những ngữ cố định có cấu tạo gọt giũa, có
nghĩa thường là nghĩa bóng, vừa hoàn chỉnh vừa có tính biểu
cảm.
14
1995
Nguyễn
Công Đức
Thành ngữ là những cụm từ cố định, là đơn vị có sẵn trong
kho từ vựng, có chức năng định danh, tức gọi tên sự vật và phản
ánh khái niệm một cách gợi tả và bóng bẩy; có hiệu năng trong
giao tiếp và là đơn vị ngôn ngữ văn hóa.
15
1996
Lê Hữu Tỉnh
Thành ngữ là những cụm từ cố định có kết cấu chặt chẽ,
bền vững và có ý nghĩa ổn định, hoàn chỉnh (nghĩa vốn có của
các yếu tố cấu thành bị mờ đi), nghĩa của cả tổ hợp có tính chất
mới, tính hình tượng, tính biếu trưng rất cao.
16
1996
Nguyễn
Thiện Giáp
Thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính hoàn chỉnh
về nghĩa vừa có giá trị gợi tả. Tính hình tượng là đặc trưng cơ bản
của thành ngữ. Thành ngữ biểu thị khái niệm nào đó dựa trên
những hình ảnh, biểu tượng cụ thể.
17
1997
Hoàng
Xuân
Việt
Văn
Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định, bền vững về mặt
19
- Xem thêm -