Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng người chưa thành niên phạm tội tại địa bàn tỉnh quảng trị...

Tài liệu Thực trạng người chưa thành niên phạm tội tại địa bàn tỉnh quảng trị

.PDF
36
3326
137

Mô tả:

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................1 1.Tính cấp thiết của đề tài................................................................................1 2. Mục đích nghiên cứu đề tài..........................................................................2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ................................................2 4. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu đề tài .....................................................8 5. Ý nghĩa nghiên cứu đề tài ............................................................................3 6. Kết cấu niên luận .........................................................................................8 PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................4 CHƯƠNG 1: CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ..............................................................................4 1.1. Khái niệm người chưa thành niên và người chưa thành niên phạm tội .........4 1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên ......................................................4 1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội .......................................5 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về người chưa thành niên phạm tội ..........................................................................................................7 1.2.1. Quy định của Bộ luật Hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội......................................................................................................7 1.2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ............................................................................................ 16 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TẠI ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ ........................................................ 18 2.1. Thực trạng người chưa thành niên phạm tội tại địa bàn tỉnh Quảng Trị .... 18 2.1.1. Khái quát về tỉnh Quảng Trị ............................................................ 18 2.1.2. Thực trạng người chưa thành niên phạm tội tại địa bàn tỉnh Quảng Trị ................................................................................................. 19 2.2. Nguyên nhân gây ra tình trạng phạm tội ở người chưa thành niên........... 20 2.2.1. Nguyên nhân khách quan................................................................. 21 2.2.2. Nguyên nhân chủ quan .................................................................... 24 2.3. Những vướng mắc và hạn chế trong việc xử lý người chưa thành niên phạm tội ........................................................................................................ 24 2.3.1. Những hạn chế trong quy định của pháp luật hình sự....................... 24 2.3.2.Những hạn chế trong hoạt động áp dụng pháp luật của những cơ quan nhà nước có thẩm quyền ................................................................... 27 2.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công việc đấu tranh phòng chống người chưa thành niên phạm tội ............................................... 27 2.4.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật .................................................... 28 2.4.2. Giải pháp về hoàn thiện thực tiễn .................................................... 28 PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 32 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 33 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 1-BCA : Bộ công an 2-BLHS : Bộ luật hình sự 3-CTN : Chưa thành niên 4-TNHS : Trách nhiệm hình sự PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Xã hội ngày nay là xã hội của hội nhập, của cơ chế thị trường, bao chuyển biến đáng kể trong nền kinh tế đồng thời cũng có bao chuyển biến về các giá trị đạo đức cũng như lối sống của con người, đặc biệt là người chưa thành niên. Người chưa thành niên là lứa tuổi rất đặc biệt. Các em không còn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn. Là lớp người sẽ kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Là những mầm non, chủ nhân tương lai của đất nước. Do đó, trẻ em phải được chăm sóc, bảo vệ và giáo dục thành những con người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta đang đứng trước một thực tế rất đáng lo ngại, đó là sự phát triển của nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ, tình trạng trẻ em phạm tội ngày càng gia tăng và trở thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Sự phạm tội của các em không chỉ gây ra những hậu quả nghiêm trọng mà còn hủy hoại cuộc đời của chính các em. Chính vì vậy, chuyện các em phạm tội không chỉ là chuyện riêng của các em mà là chuyện của chúng ta, không chỉ là chuyện của từng gia đình mà là chuyện của toàn xã hội. Ý thức được vận mệnh của nhân loại trong tương lai và để giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người có ích cho xã hội, Liên Hợp Quốc đã tổ chức nhiều hội nghị toàn thế giới với mục đích tìm ra giải pháp hữu hiệu cho cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm do người CTN gây ra, mà kết quả của nó là sự ra đời của nhiều văn bản có giá trị pháp lý toàn cầu. Ở nước ta, việc chăm sóc, bảo vệ, giáo dục người chưa thành niên được coi là một chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước và được quan tâm hàng đầu. Việt Nam là nước đầu tiên của Châu Á và là nước thứ hai trên toàn Thế giới tham gia Công ước về quyền trẻ em. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong nước được ban hành, qui định các vấn đề liên quan đến trẻ em, như: Hiến pháp năm 1992, Luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em, Luật giáo dục. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các chính sách này, bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn tồn tại 1 rất nhiều vướng mắc, tình trạng người CTN phạm tội vẫn còn đang tiếp diễn. Trong những năm gần đây, trên địa bàn cả nước số người CTN phạm tội đang có xu hướng gia tăng mạnh mẽ và hành vi phạm tội ngày càng tinh xảo. Tình trạng phạm tội ở người CTN không chỉ gây ra những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng đến đời sống, trật tự an toàn xã hội mà còn gây nên sự hoang mang trong nhiều bậc phụ huynh và dư luận xã hội. Cũng như tình hình chung của cả nước, Tỉnh Quảng Trị cũng đang phải đương đầu với tình hình gia tăng người CTN phạm tội này. Với nền kinh tế đang bước vào thời kì hội nhập, đời sống của người dân cũng đả phát triển, bên cạnh đó cũng có nhiều xã còn gặp nhiều khó khăn. Cũng chính vì thế sự gia tăng của tệ nạn xã hội, của hành vi phạm tội trong đó có sự phạm tội của người CTN đã gây nhiều bức xúc, thu hút sự quan tâm của nhiều người. Đòi hỏi phải có những giải pháp kịp thời để phòng chống tình trạng người CTN phạm tội. Chỉ khi nào giải quyết được tình trạng này chúng ta mới có thể đảm bảo rằng sẽ có một thế hệ trẻ đủ đức và đủ tài và có đủ khả năng gánh vác sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Từ thực tiển về tình trạng người CTN phạm tội tại địa bàn tỉnh Quảng Trị trong những năm qua, cùng với các lý do trên đây, được sự đồng ý của cô giáo Nguyễn Thị Xuân tôi xin nghiên cứu đề tài “Thực trạng người chưa thành niên phạm tội tại địa bàn tỉnh Quảng Trị". Tôi hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào công cuộc đấu tranh phòng chống, đẩy lùi thực trạng người CTN phạm tội. 2. Mục đích nghiên cứu đề tài Ở góc độ đề tài nghiên cứu niên luận, mục đích của đề tài : - Góp phần giáo dục ý thức pháp luật, tăng cường tinh thần đấu tranh phòng chống người CTN phạm tội trong toàn xã hội. - Hạn chế những điều kiện phạm tội, tìm ra những giải pháp để ngăn chặn tình trạng người CTN phạm tội. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu: người chưa thành niên phạm tội Phạm vi nghiên cứu: 2 +Nghiên cứu những chính sách hình sự của pháp luật Việt Nam đối với với người CTN phạm tội. +Thực trạng người CTN phạm tội trên địa bàn huyện tỉnh Quảng Trị + Nguyên nhân, hạn chế vướng mắc và đề suất một số giải pháp 4. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu đề tài Cơ sở lý luận: Nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thanh niên. Phương pháp nghiên cứu đề tài: dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phương pháp phân tích,tổng hợp, thống kê, so sánh 5. Ý nghĩa nghiên cứu đề tài - Góp phần giáo dục ý thức pháp luật, tăng cường tinh thần đấu tranh phòng chống người CTN phạm tội trong toàn xã hội. - Hạn chế những điều kiện phạm tội, tìm ra những giải pháp để ngăn chặn tình trạng người CTN phạm tội. 6. Kết cấu niên luận Niên luận gồm: Phần mở đầu Phần nội dung (gồm 2 chương): Chương 1: chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Chương 2: thực trạng người chưa thành niên phạm tội tại địa bàn tỉnh Quảng Trị. Phần kết luận. 3 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 1.1. Khái niệm người chưa thành niên và người chưa thành niên phạm tội 1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên Theo cách gọi thông thường một chu kỳ sống của con người thường được chia thành nhiều giai đoạn khác nhau: trẻ em, nhi đồng , thiếu niên, trung niên, cao niên... còn theo cách gọi của thuật ngữ pháp lý thì được chia thành các tên gọi: trẻ em, người chưa thành niên và thành niên. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Quy tắc tối thiểu phổ biến của LHQ về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do thông qua ngày 14-12-1990 nêu cụ thể: "Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và Theo quan niệm quốc tế thì trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi, người chưa thành niên (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em, người chưa thành niên và thanh niên không được tước quyền tự do của người chưa thành niên" (Quy tắc 2.1 mục a). Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và 4 một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên. Như vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. 1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.Về mặt nguyên tắc, mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Tuy nhiên, đối với trường hợp người phạm tội là người chưa thành niên, Nhà nước có chính sách xử lý riêng, căn cứ vào đặc điểm đặc thù của sự phát triển tâm sinh lý con người ở độ tuổi này cũng như đường lối, chính sách, pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Một người chỉ được coi là người chưa thành niên phạm tội khi họ thỏa mãn các điều kiện dưới đây: Họ là người chưa thành niên; Đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự Đã thực hiện hành vi mà luật hình sự quy định là tội phạm. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Người chưa thành niên phạm tội là người dưới 18 tuổi, đã thực hiện hành vi phạm tội, thỏa mãn các điều kiện chủ thể của tội phạm, tức là họ 5 phải có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi trở lên đối với trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc từ đủ 16 tuổi trở lên đối với mọi tội phạm. Nói cách khác, người chưa thành niên phạm tội là người phạm tội trong độ tuổi từ khoảng trên 14 hoặc 16 tuổi (tùy từng trường hợp tội phạm thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) và dưới 18 tuổi. Điều 68 Bộ luật hình sự quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này”. Như thế, theo tinh thần của điều luật nêu trên, quan điểm chính thức của Nhà nước ta khẳng định: Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự, đã thực hiện hành vi mà Nhà nước quy định là tội phạm. Người không có năng lực trách nhiệm hình sự, dưới 14 tuổi trong trường hợp tội phạm thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trong do cố ý hoặc dưới 16 tuổi, trong trường hợp tội phạm thực hiện là tội ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hay tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý không phải chịu trách nhiệm hình sự bởi họ chưa hoặc không đủ điều kiện chủ thể của tội phạm. Như vậy theo tôi người CTN phạm tội có đặc điểm sau: + Độ tuổi từ đủ 14 đến 18 tuổi. + Có năng lực hành vi hình sự chưa đầy đủ. + Thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. + Hành vi mà người CTN phạm tội bị pháp luật hình sự cấm. + Có lổi trong việc thực hiện hành vi đó. + Do Tóa án tuyên. + Bản án có hiệ lực pháp luật. Từ những đặc điểm trên có thể rút ra khái niệm người CTN phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến 18 tuổi, có năng hành vi hính sự chưa đầy đủ, có lổi cố ý 6 hoặc vô ý trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật hình sự cấm và được xử lý theo quy định của pháp luật. 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về người chưa thành niên phạm tội Trong những năm gần đây, nhà nước đã liên tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, đưa pháp luật vào chương trình giảng dạy của nhà trường đã góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật cho các em, tuy nhiên tình trạng này cũng không ngừng tăng lên, loại tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng mà các em vi phạm cũng ngày một nhiều hơn, hành vi phạm tội cũng ngày một tinh vi hơn. Việc xác định nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm sự phát triển bình thường và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các em, với những khiếm khuyết về tâm sinh lý của một người đang phát triển và những tác động tiêu cực từ gia đình, nhà trường và xã hội đã dẫn các em đến với những chọn lựa sai lầm, không phù hợp với quy tắc xã hội và quy định của pháp luật. Chính vì vậy, pháp luật có chính sách xử lý giành riêng cho người chưa thành niên phạm tội. Người chưa thành niên phạm tội, do có đủ điều kiện chủ thể của tội phạm nên họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đã gây ra. Tuy nhiên, do sự hạn chế về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội ở lứa tuổi này, Nhà nước ta xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với họ nhằm uốn nắn lại sự lệch lạc trong sự phát triển nhân cách, đồng thời tạo điều kiện cho họ tái hoàn lương, sớm hòa nhập với cuộc sống bình thường của đời sống xã hội. Chính sách hình sự đặc biệt khoan giảm của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với người chưa thành niên phạm tội thể hiện ở nguyên tắc xử lý, ở các hình phạt và biện pháp tư pháp thay thế hình phạt áp dụng đối với họ. 1.2.1. Quy định của Bộ luật Hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội BLHS dành riêng một chương (Chương X) quy định về chính sách xử lý người chưa thành niên phạm tội, chính sách này được xây dựng dựa trên đặc điểm đặc thù của người chưa thành niên là sự hạn chế về nhận thức, do vậy việc 7 xét xử họ chù yếu nhằm giáo dục, qua đó giúp các em nhận thức được sai lầm và tuân thủ quy định của pháp. Các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mang tính chất định hướng trong việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội. Trong luật hình sự Việt Nam, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội được luật hóa tại Điều 69 Bộ luật hình sự hiện hành. Điều 69 Bộ luật hình sự quy định 6 nguyên tắc cơ bản dưới đây: Nguyên tắc thứ nhất: Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Nguyên tắc nêu trên phản ánh mục đích và yêu cầu của việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội. Việc xử lý hình sự người chưa thành niên phạm tội trước hết và chủ yếu nhằm: Giáo dục, làm cho người phạm tội nhận thức được những sai lầm mà họ đã mắc phải. Mục đích trừng trị, răn đe nhìn chung không đặt ra khi áp dụng hình phạt và các biện pháp tư pháp đối với loại đối tượng này. Giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Do người chưa thành niên phạm tội là người đang trong giai đoạn phát triển nhân cách nên mục đích này phải luôn được coi trọng và đặt lên hàng đầu. Muốn đạt được những mục đích cơ bản trên, luật đòi hỏi các cơ quan có thẩm tội phạm mà người chưa thành niên đã thực hiện mà còn phải xác định nguyên nhân nào đã thúc đẩy họ thực hiện hành vi phạm tội đó và mức độ nhận thức cụ thể của họ đối với tội phạm đã gây ra ra sao. Nguyên tắc thứ hai, người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp thực hiện tội pham ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng, gây hại không lớn cho xã hội, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. 8 Quy định của khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự, như thế, đã bổ sung vào danh mục các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự một trường hợp miễn trách nhiệm hình sự mới là miễn trách nhiệm hình sự cho người chư thành niên phạm tội với những điều kiện nhất định. Các điều kiện đó là: Người được miễn trách nhiệm hình sự phải là người chưa thành niên tại thời điểm thực hiện tội phạm. Tội phạm mà họ thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng. Hậu quả của tội phạm không lớn. Có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. Nguyên tắc thứ ba, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Cùng với nguyên tắc thứ nhất, nguyên tắc thứ ba đặt yêu cầu và giới hạn phạm vi những trường hợp cần truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Pháp luật Việt Nam không đặt vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với mọi trường hợp người chưa thành niên phạm tội mà chỉ tiến hành việc làm này trong những trường hợp “cần thiết”. Sự “cần thiết” hay “không cần thiết” ở đây xác định dựa trên cơ sở căn cứ vào: Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện. Nếu hành vi phạm tội của người chưa thành niên có tính chất không lớn thì không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ. Đặc điểm nhân thân người chưa thành niên phạm tội. Nếu người chưa thành niên lần đầu phạm tội, có nhân thân tốt thì cần thiết phải cân nhắc việc có truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ hay không. Yêu cầu cụ thể của việc phòng ngừa tội phạm đối với bản thân người chưa thành niên phạm tội và đối với người khác trong xã hội. 9 Nguyên tắc thứ tư, khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 Bộ luật hình sự. Những biện pháp tư pháp này gồm có giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào trường giáo dưỡng. Đây là những biện pháp dược Tòa án áp dụng thay thế hình phạt để giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội trong những trường hợp có căn cứ do pháp luật quy định. Nguyên tắc thứ năm, không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng. Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tộ ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuôi. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Nguyên tắc thứ năm giới hạn các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Trong trường hợp cần thiết, vẫn có thể phải áp dụng một trong các loại hình phạt: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn cho loại đối tượng này với mức án nhẹ hơn mức án áp dụng cho người đã thành niên phạm tội tương ứng. Luật cũng xác định rõ, không áp dụng các loại hình phạt bổ sung và các loại hình phạt đặc biệt nghiêm khắc như tù chung thân và tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Nguyên tắc thứ sáu, án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Với nguyên tắc nêu trên, luật hình sự Việt Nam khẳng định vẫn có án tích đối với người chưa thành niên phạm tội trong trường hợp biện pháp xử lý đối với họ là hình phạt. Tuy nhiên, phạm tội mới trong thời gian mang án tích không phải là căn cứ để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong trường hợp người phạm tội dưới 16 tuổi. Các biện pháp tư pháp và hình phạt giành cho người chưa thành niên phạm tội Cùng với hình phạt, biện pháp tư pháp là một trong những hình thức biểu hiện cụ thể của trách nhiệm hình sự. Các biện pháp tư pháp được chia thành hai 10 nhóm là biện pháp tư pháp bổ sung cho hình phạt và biện pháp tư pháp thay thế hình phạt. Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội quy định tại Điều 70 Bộ luật hình sự là các biện pháp tư pháp thay thế hình phạt. Theo Điều 70 Bộ luật hình sự hiện hành, có hai loại biện pháp chỉ áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội dưới đây: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn Đưa vào trường giáo dưỡng Cả hai biện pháp tư pháp nói trên có những điểm chung dưới đây: Đều là các biện pháp tư pháp thay thế hình phạt áp dụng cho đối tượng là người chưa thành niên phạm tội. Mục đích áp dụng, theo tinh thần Điều 70 Bộ luật hình sự, là nhằm giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Đều do Tòa án quyết định áp dụng trong giai đoạn xét xử. Đều không để lại hậu quả pháp lý là án tích cho người bị áp dụng. Nội dung, căn cứ áp dụng từng biện pháp được quy định trong Điều 70 Bộ luật hình sự, Nghị định số 59/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 và Nghị định số 52/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 của Chính phủ. Biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn Điều 1 Nghị định số 59/2000/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội ngày 30/10/2000 định nghĩa về biện pháp tư pháp này như sau: “Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do Tòa án quyết định áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm tạo điều kiện cho người đó lao động, học tập tại cộng đồng và chứng tỏ sự hối cải của mình trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giúp đỡ của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, tổ chức xã hội và gia đình”. Điều kiện áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, theo quy định của khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự bao gồm: Đối tượng áp dụng: là người chưa thành niên phạm tội. Tội phạm mà họ thực hiện là tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trong. 11 Với những điều kiện như trên, thực chất chỉ những người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi mới được áp dụng biện pháp này bởi lẽ những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nếu thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự do luật định. Việc giáo dục tại xã, phường, thị trấn được thực hiện theo cơ chế phối hợp giữa Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người chưa thành niên phạm tội (hoặc tổ chức xã hội) được giao giám sát, giáo dục, người được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục và gia đình người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng biện pháp này. Người được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục phải lập hồ sơ theo dõi và khi kết thúc thời gian chấp hành biện pháp giáo dục, phải bàn gian lại hồ sơ đó cho Ủy ban xã, phường, thị trấn hoặc tổ chức xã hội được giao giám sát, giáo dục. Thời gian giám sát, giáo dục, theo khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự, là từ một đến hai năm.Trong khoảng thời gian này, “người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm” (khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự). Biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng Điều 1 Nghị định số 52/2001/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng ngày 23/8/2001 định nghĩa: “Biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định trong BLHS, là biện pháp do Tòa án quyết định, áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với họ, nhưng do tính chất của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần phải đưa người đó vào trường giáo dưỡng”. Điều kiện áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là: Về đối tượng áp dụng: áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, không kể về tôi gì, có độ tuổi từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. 12 Đối với người nói trên, Tòa án xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt (gồm cả hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và phạt tù có thời hạn) đối với họ. Tuy không cần thiết phải áp dụng hình phạt nhưng lại rất cần thiết đưa họ vào một môi trường giáo dục tập trung là trường giáo dưỡng. Cơ sở để Tòa án quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng mà không áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là căn cứ vào: + Tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội. + Nhân thân người chưa thành niên phạm tội. + Môi trường sống của người đó không tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Trường giáo dưỡng có nhiệm vụ quản lý, giáo dục đạo đức, pháp luật, văn hóa, dạy nghề, giáo dục hướng nghiệp và tổ chức lao động cho học sinh phù hợp với lứa tuổi, nhằm giúp đỡ họ học tập, rèn luyện tiến bộ, phát triển làn mạnh về thể chất, tinh thần, trí tuệ để trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, có khả năng hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong biện pháp giáo dưỡng. Về mặt thủ tục, ngay sau khi nhận được quyết định thi hành biện pháp giáo dưỡng của Tòa án, cơ quan Công an cùng cấp có trách nhiệm triển khai kế hoạch phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan, chính quyền địa phương và gia đình người phải chấp hành biện pháp giáo dưỡng để quản lý, giám át họ chặt chẽ, đồng thời tổ chức thi hành quyết định của Tòa án. Người trực tiếp nhận người được đưa vào trường giáo dưỡng phải kiểm tra hồ sơ, căn cước và lập biên bản giao nhận. Hồ sơ đưa người vào trường giáo dưỡng gồm: 1) Lí lịch cá nhân; 2) Danh bản, chỉ bản; 3) Phiếu khám sức khỏe; 4) Quyết định thi hành biện pháp giáo dưỡng của Tòa án; 5) Văn bản của cơ quan Công an có thẩm quyền chỉ định trường giáo dưỡng có trách nhiệm thi hành quyết định của Tòa án; 6) Các tài liệu có liên quan đến nhaanthaan người được đưa vào trường giáo dưỡng. Người chấp hành biên pháp giáo dưỡng được gọi là học sinh trường giáo dưỡng. Học sinh trường giáo dưỡng phải chịu sự giám át, quản lý, giáo dục, phân công lao động của cán bộ, giáo viên nhà trường và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy của nhà trường. Căn cứ vào độ tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, tính chất và 13 mức độ phạm tội, trường bố trí học sinh thành các đội, lớp. Mỗi đội, lớp phải có cán bộ, giáo viên của nhà trường trực tiếp phụ trách. Thời gian áp dụng biện pháp giáo dưỡng là từ một năm đến hai năm. Chậm nhất là 15 ngày trước khi học sinh trường giáo dưỡng hết thời hạn chấp hành biện pháp giáo dưỡng, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng có trách nhiệm thông báo cho Tòa án đã ra quyết định thi hành biện pháp giáo dưỡng, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú và gia đình họ biết ngày ra trường. Người chưa thành niên phạm tội sau khi hết thời hạn học tập ở trường giáo dưỡng được cấp giấy chứng nhận chấp hành xong biện pháp giáo dưỡng. Hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội BLHS quy định 4 loại hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn. Trong đó cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất, được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ chưa đến mức miễn hình phạt theo quy định của pháp luật. Phạt tiền lần đầu tiên được quy định trong BLHS năm 1999 và được coi là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có tài sản hoặc thu nhập riêng, mức phạt tiền được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định. Cải tạo không giam giữ là hình phạt mang tính nghiêm khắc hơn so với hình phạt tiền, khi áp dụng hình phạt này đối với người chưa thành niên phạm tội thì không khấu trừ thu nhập của họ. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định. Trường hợp áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội, Điều 74 Bộ luật hình sự quy định: Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. 14 Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định. Đối với trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội, phải tuyên hình phạt đối với từng tội, sau đó tổng hợp thành hình phạt chung. Trường hợp có tội thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt thực hiện theo phương pháp sau đây: Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định trong Điều 74 Bộ luật hình sự nêu trên. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội. Giảm mức hình phạt và xóa án tích Chính sách giảm mức hình phạt đã tuyên được áp dụng cả đối với người chưa thành niên phạm tội và người đã thành niên phạm tội, tuy nhiên đối với người chưa thành niên phạm tội thì chính sách này có nhiều ưu ái hơn nhằm động viên các em thi hành án tốt và tạo điều kiện để các em sớm được trở lại với cuộc sống bình thường. Điều 76 BLHS quy định người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có nhiều tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến bốn năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất hai phần năm mức hình phạt đã tuyên, trong trường hợp có lập công hoặc bị mắc bệnh hiểm nghèo thì được xét giảm ngay và có thể được xem xét để miễn chấp hành hình phạt còn lại. Đối với trường hợp bị phạt tiền thì Tòa án cũng có thể giảm hoặc miễn chấp hành phần phạt tiền còn lại nếu các em bị lâm vào hòan cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, ốm đau hoặc có lập công lớn. Xoá án tích là thủ tục cuối cùng của quá trình tố tụng, được áp dụng đối với những người đã thi hành án xong, thời hạn để được xóa án tích được coi như thời gian thử thách và người được xóa án tích coi như chưa bị kết án. Thời hạn để 15 được xóa án tích đối với người chưa thành niên là một phần hai thời hạn áp dụng đối với người đã thành niên (nữa năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo; một năm rưỡi trong trường hợp hình phạt tù đến ba năm; hai năm rưỡi trong trường hợp hình phạt tù là từ trên ba năm đến mười lăm năm; ba năm rưỡi trong trường hợp hình phạt tù từ trên mười lăm năm). Trong trường hợp áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên phạm tội thì không bị coi là có án tích. 1.2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội Thủ tục tố tụng hình sự đối với tội phạm nói chung và người chưa thành niên phạm tội nói riêng bao gồm các thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Ngoài những thủ tục chung của Bộ luật TTHS thì cũng như Bộ luật Hình sự, Bộ luật TTHS giành riêng một chương quy định về tố tụng hình sự và chính sách xử lý đặc biệt với người chưa thành niên phạm tội (tại Chương XXXII). Trong đó quy định rõ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành niên. Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử người chưa thành niên phạm tội phải xác định rõ các yếu tố về tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên; điều kiện sinh sống và giáo dục; có hay không có người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Quy định này không những phù hợp với đặc điểm của người chưa thành niên mà còn phù hợp với thực tế về những nguyên nhân khách quan tác động đến hành vi phạm tội của các em. Thực tiễn đã chứng minh rằng đa số các em phạm tội đều bị sự tác động từ phía gia đình và xã hội, trong đó bao gồm cả các em có hoàn cảnh đặc biệt như kinh tế gia đình khó khăn, bố mẹ ly hôn, gia đình không yên ấm hoặc có người hư hỏng, phạm tội, bố mẹ không coi trọng việc giáo dục con cái, trình độ văn hóa của các em quá thấp, các em không có công ăn việc làm…tình trạng các em bị người thành niên (như bố, mẹ, anh, chị) xúi giục phạm tội cũng chiếm một số lượng 16 không nhỏ. Chính vì vậy, việc quy định về hiểu biết tâm sinh lý của người chưa thành niên đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, cũng như các yếu tố liên quan đến nguyên nhân và điều kiện dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội của các em là cần thiết. Về bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội Để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm, cũng như để phục vụ cho quá trình tố tụng hình sự, pháp luật quy định trong một số trường hợp người, cơ quan có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên, đối với người chưa thành niên phạm tội khi áp dụng các biện pháp này ngoài điều kiện về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và loại tội phạm còn phải đảm bảo đủ các căn cứ nêu tại các Điều 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật TTHS, đó là các điều kiện về bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, tạm giữ, tạm giam, thời hạn tạm giam để điều tra. Về thi hành án phạt tù Theo quy định thì không được áp dụng chế độ giam giữ người chưa thành niên như đối với người đã thành niên mà họ phải được giam giữ riêng, các chế độ đối với người chưa thành niên cũng được ưu ái hơn, pháp luật quy định về chế độ học văn hóa, đào tạo nghề nghiệp… để giúp các em bổ túc trình độ văn hóa, tạo dựng nghề nghiệp đảm bảo khi ra trường các em có một nghề ổn định, điều này cũng có ý nghĩa trong công tác phòng chống tội phạm ở tuổi vị thành niên. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan