Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tìm hiểu lịch sử từ vựng tiếng việt nam bộ trong giai đoạn cuối thế kỷ xix, đầu ...

Tài liệu Tìm hiểu lịch sử từ vựng tiếng việt nam bộ trong giai đoạn cuối thế kỷ xix, đầu thế kỷ xx (năm 1945) trên tư liệu vài tác phẩm đã xuất bản

.PDF
160
1451
131

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- PHẠM THỊ LIÊN TÌM HIỂU LỊCH SỬ TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT NAM BỘ TRONG GIAI ĐOẠN CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ XX (NĂM 1945) TRÊN TƯ LIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN LUẬN VĂN THẠC SĨ: NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- PHẠM THỊ LIÊN TÌM HIỂU LỊCH SỬ TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT NAM BỘ TRONG GIAI ĐOẠN CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ XX (NĂM 1945) TRÊN TƯ LIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN Chuyên ngành Mã số : Ngôn ngữ học : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ: NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Trần Trí Dõi Hà Nội - 2013 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 05 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài .......................................................... 06 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................... 07 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề . .............................................................. 08 4. Phƣơng pháp nghiên cứu .. .............................................................. 10 5. Bố cục luận văn . .............................................................................. 11 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TIẾNG VIỆT NAM BỘ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XX ..................... 13 1.1. Vài nét về bối cảnh xã hội - ngôn ngữ Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX .. .......................................................................... 13 1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội . .......................................................... 13 1.1.2. Bối cảnh ngôn ngữ. .................................................................... 15 1.2. Nguồn tƣ liệu sử dụng để nghiên cứu . .............................................. 19 1.2.1. Vấn đề văn bản đƣợc sử dụng trong luận văn .. ......................... 19 1.2.2. Mô tả cách thức tập hợp tƣ liệu ................................................. 23 1.3. Một số khái niệm cơ bản làm cơ sở cho việc miêu tả ........................ 24 1.3.1. Phƣơng ngữ và phƣơng ngữ Nam Bộ......................................... 24 1.3.2. Tiếng Việt Nam Bộ .................................................................... 25 1.3.3. Vấn đề biến đổi nghĩa từ vựng tiếng Việt .. ............................... 27 1.4. Tiểu kết chƣơng 1 .. ............................................................................ 29 CHƢƠNG 2. KHẢO SÁT TỪ NGỮ TIẾNG VIỆT NAM BỘ TRÊN MỘT SỐ TƢ LIỆU ĐÃ XUẤT BẢN TRONG GIAI ĐOẠN TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XX ........................................................................ 31 2.1. Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) của Trƣơng Vĩnh Ký .. ......... 34 2.1.1. Số lƣợng từ Nam Bộ đƣợc sử dụng so với từ toàn dân .. ........... 34 2.1.2. Mô tả và phân tích từ Nam Bộ .................................................. 36 1 2.1.2.1. Từ thuần Việt .................................................................. 36 2.1.2.2. Từ gốc Hán ...................................................................... 38 2.1.2.3. Từ vay mƣợn từ phƣơng Tây .......................................... 41 2.1.3. Nhận xét về tiếng Việt Nam Bộ trong “Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) của Trƣơng Vĩnh Ký”... .......................................................... 42 2.2. Tuần báo “Nông cổ mín đàm” . .......................................................... 44 2.2.1. Số lƣợng từ Nam Bộ đƣợc sử dụng so với từ toàn dân .. ........... 44 2.2.2. Mô tả và phân tích từ Nam Bộ .. ................................................ 46 2.2.2.1. Từ thuần Việt .. ................................................................ 46 2.2.2.2. Từ gốc Hán ...................................................................... 48 2.2.2.3. Từ vay mƣợn từ phƣơng Tây .......................................... 50 2.2.3. Nhận xét về tiếng Việt Nam Bộ trong “Nông cổ mín đàm”. ..... 51 2.3. Tuần báo “Phụ nữ Tân văn” .. ............................................................ 53 2.3.1. Số lƣợng từ Nam Bộ đƣợc sử dụng so với từ toàn dân .. ........... 53 2.3.2. Mô tả và phân tích từ Nam Bộ .. ................................................ 54 2.3.2.1. Từ thuần Việt .................................................................. 54 2.3.2.2. Từ gốc Hán .. .................................................................... 57 2.3.2.3. Từ vay mƣợn từ phƣơng Tây .......................................... 58 2.3.3. Nhận xét về tiếng Việt Nam Bộ trong “Phụ nữ Tân văn” .. ....... 59 2.4. Tiểu kết chƣơng 2 .............................................................................. 61 CHƢƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ BIẾN ĐỔI NGHĨA CỦA TỪ NGỮ TIẾNG VIỆT NAM BỘ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XX ............... 63 3.1. Đặc điểm của từ ngữ tiếng Việt Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX . .................................................................................... 63 3.1.1. Đặc điểm do tiếp xúc ngôn ngữ ................................................ 63 3.1.1.1. Nguồn tiếp xúc chính ...... ................................................ 63 3.1.1.2. Đặc điểm tiếp xúc tiếng Hán ............................................ 64 2 3.1.1.3. Đặc điểm tiếp xúc tiếng Pháp .......................................... 66 3.1.2. Đặc điểm hình thành từ ngữ tiếng Việt Nam Bộ giai đoạn này ...........67 3.1.2.1. Con đƣờng vay mƣợn từ gốc Hán và từ tiếng Pháp ................67 3.1.2.2. Đặc điểm phát triển nghĩa của từ ..............................................73 3.2. Những biến đổi về nghĩa của từ ngữ tiếng Việt Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX . ................................................................ 75 3.2.1. Mở rộng nghĩa ........................................ ................................... 77 3.2.2. Thay đổi nghĩa . .......................................................................... 80 3.2.3. Thu hẹp nghĩa ................................ .......................................... 82 3.2.4. Một số nhận xét về sự biến đổi nghĩa của từ ngữ tiếng Việt Nam Bộ....85 3.3. Tiểu kết chƣơng 3 .............................................................................. 88 KẾT LUẬN . ................................................................................................... 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO .. ............................................................................ 96 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 102 3 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Stt Số bảng biểu 1 Bảng 2.1 Nội dung bảng biểu Sự phân bố của từ ngữ tiếng Việt Nam Bộ trong tác phẩm "Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi" 2 Bảng 2.2 Sự thay đổi nghĩa của từ Nam Bộ trong tác phẩm "Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi" 3 Bảng 2.3 Sự phân bố của từ ngữ tiếng Việt Nam Bộ trong tuần báo "Nông cổ mín đàm" 4 Bảng 2.4 Sự thay đổi nghĩa của từ Nam Bộ trong tuần báo "Nông cổ mín đàm" 5 Bảng 2.5 Sự phân bố của từ ngữ tiếng Việt Nam Bộ trong báo "Phụ nữ Tân văn" 6 Bảng 2.6 Sự thay đổi nghĩa của từ Nam Bộ trong báo "Phụ nữ Tân văn" 7 Bảng 3.7 Số lƣợng từ thuần Việt, gốc Hán và từ vay mƣợn tiếng Pháp 8 Bảng 3.8 Số lƣợng từ mới trong 03 văn bản khảo sát 9 Bảng 3.9 Sự biến đổi nghĩa của từ ngữ Nam Bộ (từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX so với hiện nay) và tần số sử dụng của các từ 4 MỞ ĐẦU Ngôn ngữ là tấm gƣơng phản chiếu trung thực sự phát triển lịch sử, văn hóa, xã hội của mỗi dân tộc. Một xã hội phát triển sẽ có ngôn ngữ phát triển. Ngôn ngữ phong phú, đa dạng sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển văn hóa, xã hội của mỗi nƣớc. Đất nƣớc Việt Nam có lịch sử mấy ngàn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc, có nền văn hóa lâu đời và vô cùng phong phú, đa dạng. Trải qua 1.000 năm Bắc thuộc với sự xâm lấn của văn hóa Hán và tiếng Hán, qua hàng trăm năm dƣới ách đô hộ của thực dân Pháp, đến khi cách mạng tháng Tám thành công (1945), ngƣời Việt không những không bị Hán hóa bởi tiếng Hán, văn hóa Hán, mà còn chủ động "Việt hóa" tiếng Hán, biến đổi tiếng Hán theo văn hóa của ngƣời Việt, tiếp cận có chọn lọc văn hóa Pháp, tiếng Pháp và hình thành nền văn học, báo chí Việt Nam bằng chữ quốc ngữ. Và có thể nói, từ năm 1945, đất nƣớc Việt Nam đã chính thức có một ngôn ngữ là tiếng Việt và cùng với tiếng Việt là một loại văn tự có tên gọi là chữ quốc ngữ. Chính vì có sự phản ánh đa diện, nhiều chiều của ngôn ngữ lên văn hóa - xã hội của một quốc gia, nên thông qua đặc điểm, sự phát triển của tiếng Việt trong một giai đoạn và bối cảnh cụ thể, chúng ta có thể tìm hiểu về đặc trƣng văn hóa - xã hội của nƣớc ta trong giai đoạn đó. Việc tìm hiểu những biến đổi nghĩa nói riêng và biến đổi từ vựng tiếng Việt Nam Bộ nói chung trong một giai đoạn cụ thể mà chúng tôi thực hiện là một định hƣớng nghiên cứu dựa vào mối liên hệ biện chứng đó. Hiện nay, có nhiều cách phân chia các giai đoạn phát triển của lịch sử tiếng Việt: 06 thời kỳ (GS. Nguyễn Tài Cẩn), 05 thời kỳ (H. Maspéro), 06 thời kỳ (GS. Trần Trí Dõi)… Mỗi cách phân chia có căn cứ, tƣ liệu riêng. Theo những cách phân chia đó, thì thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (từ 1858 đến 1945) sẽ là giai đoạn cận đại (theo GS. Nguyễn Tài Cẩn) hoặc 5 thời kỳ đầu của giai đoạn tiếng Việt hiện đại (theo GS. Trần Trí Dõi). Đây cũng là một giai đoạn đầy biến động trong lịch sử của đất nƣớc ta nói chung và Nam Bộ nói riêng, từ khi Pháp nổ tiếng súng xâm lƣợc Việt Nam đến khi cách mạng tháng Tám thắng lợi. Đây cũng là thời kỳ quan trọng trong sự phát triển của tiếng Việt, là thời kỳ chuyển giao giữa tiếng Việt trung cận đại sang tiếng Việt hiện đại, với sự ra đời chữ quốc ngữ và "có một sự hiện đại hóa rất rõ trong tiếng Việt" [15, tr. 24]. Và điều quan trọng là tiếng Việt Nam Bộ, do tính đặc thù của nó, nhƣ là một nhân chứng quan trọng của sự chuyển hóa ấy. Đó là tiền đề để chúng tôi lựa chọn, tìm hiểu lịch sử từ vựng tiếng Việt Nam Bộ trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (năm 1945). 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài Tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử từ ngữ tiếng Việt Nam Bộ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chúng tôi mong muốn góp phần nghiên cứu sự phát triển của tiếng Việt cuối thế kỷ XIX (từ năm 1858) đến năm 1945 trong một bối cảnh xã hội cụ thể là vùng Nam Bộ Việt Nam. Qua việc khảo sát, nghiên cứu trên một số tác phẩm đã xuất bản ở Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945, hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ đƣợc đôi điều về sự biến đổi, phát triển, kể cả là sự mất đi của những từ ngữ Nam Bộ so với các giai đoạn trƣớc và sau đó, cũng nhƣ so với từ ngữ toàn dân. Phân tích đƣợc tình trạng biến đổi đó, chính là góp phần tìm hiểu sự phát triển lịch sử tiếng Việt Nam Bộ nói riêng và lịch sử tiếng Việt nói chung. Về ý nghĩa khoa học, khi thực hiện tốt đề tài, luận văn sẽ góp phần làm rõ sự biến đổi của tiếng Việt trong một giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nƣớc, giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Nó cũng sẽ góp phần nghiên cứu lịch sử từ vựng tiếng Việt ở một giai đoạn cụ thể khi mà những điều kiện về tƣ liệu cho phép thực hiện công việc này. 6 Về ý nghĩa thực tiễn, với việc nghiên cứu tiếng Việt Nam Bộ trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến năm 1945, luận văn sẽ góp phần vào nghiên cứu xã hội Nam Bộ trong thời điểm giao thời từ xã hội phong kiến chuyển sang xã hội thực dân phong kiến. Từ đó, góp phần nghiên cứu văn hoá Nam Bộ - một vùng lãnh thổ quan trọng của đất nƣớc trong một giai đoạn lịch sử xã hội đầy biến động của nƣớc ta trƣớc khi thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là tiếng Việt Nam Bộ trong một giai đoạn xác định, giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, cụ thể là từ năm 1858 đến năm 1945. Về thời gian lịch sử, giai đoạn này đƣợc đánh dấu bằng việc thực dân Pháp nổ súng xâm lƣợc Việt Nam, sau đó từng bƣớc cai trị toàn lãnh thổ Việt Nam và cuối cùng đƣợc kết thúc bằng việc nhân dân Việt Nam vùng lên đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc vào năm 1945. Trong một thời gian dài nhƣ vậy, có nhiều những vấn đề khác nhau của tiếng Việt Nam Bộ. Ở đây, chúng tôi giới hạn chỉ tiến hành nghiên cứu trong phạm vi một số tác phẩm văn học và báo chí tiêu biểu đã xuất bản ở Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Đây sẽ là những tƣ liệu quan trọng để chúng tôi tìm hiểu về những từ ngữ đã mất đi (hay không thấy đƣợc sử dụng lại) và những từ ngữ mới xuất hiện hay biến đổi về nghĩa để đáp ứng với nhu cầu giao tiếp của xã hội trong thời kỳ đó, trên cơ sở so sánh với Từ điển Việt Bồ - La của Alexandre De Rhodes (năm 1651) và Từ điển từ ngữ Nam Bộ của TS. Huỳnh Công Tín (năm 2009). Nhƣ vậy, đối tƣợng từ ngữ mà chúng tôi xem xét trong luận văn là những từ ngữ đƣợc xuất hiện trên văn bản đƣợc xuất bản/hoặc do ngƣời Nam Bộ viết trong giai đoạn lịch sử mà luận văn sẽ quan tâm. Chúng tôi chỉ có thể làm nhƣ thế là vì nhờ nó đã đƣợc văn bản hóa nên mới đƣợc lƣu giữ lại cho đến hiện nay. 7 Cũng xin nói thêm là văn bản đƣợc xuất bản/hoặc do ngƣời Nam Bộ viết trong giai đoạn lịch sử từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX có một khối lƣợng đồ sộ, do nhiều tác giả khác nhau viết, viết theo nhiều phong cách khác nhau và viết vào những thời gian cụ thể khác nhau. Chúng tôi biết rằng, để có đƣợc một khảo sát đầy đủ về tiếng Việt Nam Bộ với một khối lƣợng đồ sộ nhƣ thế là không đơn giản. Điều đó chỉ có thể thực hiện đƣợc trong một chƣơng trình nghiên cứu dài hạn. Vì vậy, trong luận văn của mình chúng tôi chỉ chọn một vài tƣ liệu tiêu biểu phù hợp với thời lƣợng của một luận văn thạc sỹ để thực hiện đề tài. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Ở nƣớc ngoài, với hiểu biết hạn hẹp của tôi, thì chƣa có một công trình hoặc một tài liệu nào đi vào nghiên cứu riêng lẻ từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt hoặc tiếng Việt Nam Bộ trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, mà chỉ có những từ điển liên quan đến tiếng Việt, trong đó có những từ điển rất quí trƣớc hoặc trong giai đoạn này nhƣ: “Dictionnarium - Lusinatinum Latinum” của Alexandre De Rhodes (1651); “Dictionnaire Annamitico Latinum, J.C.Marshrman - Serampore” của Jean-Louis Tabert (1838); “Dictionnaire Annamite - Français” của Jean Bonet (1899)… Còn trong nƣớc, đã có một vài công trình nghiên cứu về từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong đó có tiếng Việt Nam Bộ. Điển hình nhất là công trình “Lịch sử từ vựng tiếng Việt thời kỳ 1858 - 1945” của Lê Quang Thiêm. Đây là một cuốn sách, một công trình nghiên cứu công phu và đầy đủ về bình diện từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt trong thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trong công trình này, tác giả đã khảo sát từ vựng tiếng Việt trên các tƣ liệu phong phú nhƣ các báo, tạp chí, từ điển, các tác phẩm văn học, các văn bản nghị luận xã hội - chính trị… trong giai đoạn này ở cả miền Bắc và miền Nam. Từ đó, tác giả đã phân tích 8 các đặc điểm của quá trình phát triển từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt thời kỳ 1858 - 1945. Nhƣ vậy, tuy công trình có nghiên cứu về lịch sử từ vựng tiếng Việt Nam Bộ nhƣng cách tiếp cận mang tính đại cƣơng, nhìn trên tổng thể. Luận văn của chúng tôi tập trung vào tƣ liệu tiếng Việt Nam Bộ cùng thời gian này nhƣng khảo sát trong một phạm vi tƣ liệu xác định. Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu khoa học, các sách giáo trình… nghiên cứu quá trình phát triển của từ vựng tiếng Việt, trong đó có đề cập đến tiếng Việt và tiếng Nam Bộ trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nhƣ: "Các bài giảng về lịch sử tiếng Việt thế kỷ XX" của Đinh Văn Đức; "Giáo trình lịch sử tiếng Việt (sơ thảo)" của Trần Trí Dõi; "Lƣợc sử Việt ngữ học" do Nguyễn Thiện Giáp chủ biên; “Sự phát triển từ vựng tiếng Việt từ Đại Nam quấc âm tự vị (1895) đến từ điển tiếng Việt (1994)” của Vũ Đức Nghiệu, Đỗ Thị Anh, Đỗ Bá Khang, Lê Trung Kiên… Bên cạnh đó, còn có nhiều luận án, luận văn nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt Nam Bộ giai đoạn này nhƣ: Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt hiện đại (30 năm đầu thế kỷ XX), Luận án tiến sỹ, khoa Ngôn ngữ học, của Trần Nhật Chính; Góp phần tìm hiểu sự biến đổi từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt từ 1930 - 1960, Luận văn thạc sỹ, khoa Ngôn ngữ học…Gần đây, năm 2011, đã có một công trình NCKH cấp Đại học Quốc gia tp Hồ Chí Minh của TS Đỗ Thị Bích Lài có nhan đề “Tiếng Việt Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX 1945: Những vấn đề từ vựng”. Đề tài QGTĐ của Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh đã đi theo hƣớng khảo sát đại cƣơng nhƣ công trình đã xuất bản của Lê Quang Thiêm nhƣng tập trung vào tiếng Việt Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX 1945. Luận văn của chúng tôi, nhƣ đã nói ở trên tuy cũng nghiên cứu lịch sử từ vựng tiếng Việt Nam Bộ trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nhƣng khảo sát sự biến đổi cụ thể, khác với cách mà công trình của TS Đỗ Thị Bích Lài khảo sát. 9 Nhƣ vậy, trong tình hình nghiên cứu hiện nay, do tầm quan trọng của tiếng Việt Nam Bộ trong giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, ở trong nƣớc đã có một số công trình khảo cứu vấn đề này. Sự khác biệt mà đề tài chúng tôi thực hiện là chọn tƣ liệu và thực hiện cách thức khảo sát để từ đó đóng góp những nhận xét về ngôn ngữ ở giai đoạn lịch sử này. Bời vì hiện chƣa có một công trình nào đi sâu và bao quát tất cả tư liệu tiếng Việt Nam Bộ trong giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong đó có tƣ liệu chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu riêng biệt về biến đổi ngữ nghĩa từ vựng tiếng Việt Nam Bộ trong giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, đối tƣợng nghiên cứu trong luận văn này. 4. Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành nghiên cứu, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp miêu tả - phân tích trong ngôn ngữ học. Trong đó, chủ yếu sử dụng thao tác miêu tả - phân tích từ vựng ngữ nghĩa. Vì luận văn tiến hành nghiên cứu sự phát triển của tiếng Việt trong một giai đoạn cụ thể của lịch sử tiếng Việt (cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX) so với các giai đoạn trƣớc nó và sau nó, nên luận văn sẽ tiếp cận vấn đề cả ở bình diện đồng đại và lịch đại. Để thực hiện yêu cầu ấy, ngoài phƣơng pháp chính là miêu tả - phân tích, luận văn sử dụng cả thao tác so sánh. Khi thực hiện thao tác so sánh, trƣớc hết chúng tôi miêu tả đồng đại, căn cứ vào những đặc điểm của giai đoạn cần nghiên cứu, trên cơ sở thu thập tƣ liệu, chúng tôi sẽ phân tích, đánh giá và rút ra những đặc điểm của từ vựng tiếng Việt Nam Bộ trong giai đoạn này. Sau đó, để có đƣợc sự miêu tả lịch đại, dựa trên những tƣ liệu đã thu thập và những đánh giá về đặc điểm của từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt Nam Bộ trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, chúng tôi sẽ tiến hành so sánh với từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt Nam Bộ trong giai đoạn trƣớc năm 1858 (cụ thể ở đây là so sánh với từ điển Alexandre 10 De Rhodes) và sau năm 1945 (cụ thể ở đây là so sánh với từ điển tiếng Nam Bộ hiện đại). Nhƣ vậy, nhờ sự so sánh này mà chúng ta có thể thấy đƣợc sự phát triển và biến đổi của tiếng Nam Bộ. Đối với việc khảo sát biến đổi nghĩa tiếng Việt Nam Bộ trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, chúng tôi thấy rằng thao tác so sánh ấy là cần thiết và hữu ích. Để có tƣ liệu phụ trợ cho việc miêu tả - phân tích từ vựng tiếng Việt Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, luận văn cũng sẽ sử dụng thêm thủ pháp thống kê và các thủ pháp cần thiết khác để thu thập tƣ liệu trong giai đoạn này và tiến hành phân tích so sánh với giai đoạn trƣớc và sau đó. 5. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn đƣợc chia làm 3 chƣơng: Chương 1. Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu tiếng Việt Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Trong chƣơng này, chúng tôi trình bày một vài nét chính về bối cảnh lịch sử, xã hội, ngôn ngữ của vùng Nam Bộ trong giai đoạn từ năm 1858 1945; xác định cơ sở lý luận và một số khái niệm cơ bản; đồng thời đƣa ra vấn đề nguồn tƣ liệu đƣợc sử dụng để nghiên cứu. Chương 2. Khảo sát từ ngữ tiếng Việt Nam Bộ trên các tƣ liệu đã xuất bản trong giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Nội dung chƣơng 2 sẽ tập trung vào việc xác lập danh sách từ Nam Bộ trong một số văn bản đƣợc sử dụng để nghiên cứu. Từ đó, tiến hành phân tích, mô tả từ ngữ Nam Bộ đƣợc khảo sát trong các tƣ liệu đã xuất bản trong giai đoạn này. Từ sự nhìn nhận các từ Nam Bộ này, chúng tôi sẽ tiến tới một nhận xét chung về từ ngữ tiếng Việt Nam Bộ trong giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX 11 Chương 3. Đặc điểm và sự biến đổi của từ ngữ tiếng Việt Nam Bộ trong giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX Chƣơng 3 của luận văn sẽ dành để nhận xét về đặc điểm và sự biến đổi nghĩa của từ ngữ tiếng Việt Nam Bộ đã đƣợc khảo sát, phân tích, mô tả ở chƣơng 2. Qua thủ pháp so sánh nhƣ đã nói ở phần phƣơng pháp, có thể nêu đƣợc sự biến đổi, phát triển, mất đi về nghĩa của từ ngữ tiếng Việt Nam Bộ giai đoạn này so với từ toàn dân và so với chính từ Nam Bộ trong giai đoạn trƣớc đó và hiện nay. Chúng tôi hy vọng, qua việc khảo sát từ ngữ ở từng văn bản cụ thể, khi chúng ta có điều kiện khảo sát tất cả từ ngữ trong các văn bản tiếng Việt Nam Bộ ở giai đoạn này, khi ấy chúng ta sẽ có đƣợc cái nhìn tổng thể về biến đổi nghĩa của từ trong văn bản tiếng Việt Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945. 12 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TIẾNG VIỆT NAM BỘ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XX 1.1. Vài nét về bối cảnh xã hội - ngôn ngữ Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX Năm 1858, tiếng súng đầu tiên của thực dân Pháp bắn vào Đà Nẵng đã mở đầu cuộc xâm lƣợc của thực dân Pháp tại Việt Nam. Sau đó, dƣới ách đô hộ của Pháp, xã hội Việt Nam vô cùng phức tạp và đầy biến động, đặc biệt là vùng đất Nam Bộ, vùng đất “Viễn Đông thuộc Pháp”. Trong một bối cảnh xã hội nhƣ vậy, tiếng Việt Nam Bộ cũng có nhiều đặc trƣng riêng biệt, phản ánh trung thực lịch sử xã hội của vùng Nam Bộ trong giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1945. 1.1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội Năm 1858, hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó quay vào Nam xâm chiếm Sài Gòn. Năm 1862, Tự Đức Ký hiệp ƣớc nhƣợng Sài Gòn và ba tỉnh Nam Kỳ (Nam Bộ) lân cận cho Pháp. Năm 1869, Pháp chiếm nốt ba tỉnh kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thực dân (Nam Kỳ) thuộc Pháp ở vùng Viễn Đông. Thực dân Pháp đã áp dụng chính sách chia để trị, chia nƣớc ta thành ba đơn vị hành chính là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Trong sự phân chia đó, Nam Kỳ trở thành xứ thuộc Pháp với những nét riêng về chính trị, kinh tế, xã hội so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Từ khi chiếm đƣợc Nam Kỳ, thực dân Pháp âm mƣu dùng Nam Kỳ làm bàn đạp để đánh chiếm Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Do đó, chúng tăng cƣờng chuẩn bị lực lƣợng và đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng ở Nam Kỳ nhƣ xây dựng cảng Sài Gòn, xây cầu trên sông Vàm Cỏ, mở đƣờng sắt Sài Gòn - Mỹ Tho, lập 13 nhiều nhà xƣởng ở Sài Gòn... Chính những đầu tƣ ban đầu này làm kinh tế Nam Kỳ phát triển mạnh mẽ và đã tạo nên độ chênh về kinh tế - xã hội giữa Nam - Trung - Bắc Kỳ về sau này. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 đã ảnh hƣởng nghiêm trọng đến nền kinh tế thế giới, trong đó có nền kinh tế Pháp. Nền kinh tế Việt Nam vì bị phụ thuộc nặng nề vào Pháp nên càng chịu hậu quả nặng nề hơn. Đầu tƣ của Pháp giảm, chính sách khai thác thuộc địa áp dụng tại Việt Nam gắt gao hơn làm thay đổi sâu sắc xã hội Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng. Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, một bộ phận nông dân phải ra thành phố, đô thị kiếm sống, làm các thành phần xã hội, quan hệ xã hội ngày càng phức tạp. Lúc này, Đảng Cộng sản Việt Nam mới thành lập (3/2/1930) đã tổ chức đƣợc những cuộc đấu tranh lên đến cao trào, tiêu biểu là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931), phong trào Mặt trận bình dân (1936 1939), cao trào vận động giải phóng dân tộc (1939), đặc biệt là cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đƣa chính quyền về tay nhân dân Việt Nam, mở đầu một thời kỳ mới cho dân tộc Việt Nam, làm thay đổi nhiều lĩnh vực, trong đó có sự phát triển của tiếng Việt. Về lĩnh vực văn hóa - xã hội, từ năm 1906, việc thay đổi cách thức và nội dung thi cử trong triểu đình Nam triều cũng tạo ra tầng lớp trí thức, tiểu tƣ sản lúc bấy giờ tại Nam Kỳ. Trong giai đoạn này, tầng lớp tiểu tƣ sản trí thức giữ một vai trò tƣơng đối quan trọng về lĩnh vực văn hóa.Việc tiếp xúc với văn hóa phƣơng Tây, cách thức đào tạo, thi cử cũng đƣợc thay đổi, cơ sở hạ tầng đƣợc đầu tƣ bài bản đã tạo ra sự khác biệt giữa tầng lớp trí thức giai đoạn này so với trƣớc kia và cũng tạo ra sự khác biệt về kinh tế, văn hóa và xã hội tại Nam Kỳ so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Trong giai đoạn Pháp nắm quyền ở Nam Kỳ, thực dân Pháp đặc biệt quan tâm đến việc truyền bá văn hóa Pháp và hạn chế ảnh hƣởng của văn hóa 14 Trung Hoa vào Việt Nam. Và với nhiều biện pháp, vừa khích lệ, vừa cƣỡng chế, dần dần chữ quốc ngữ đã lấn áp chữ Hán và chữ Nôm, thực hiện vai trò lịch sử của mình, đó là thúc đẩy Việt Nam hội nhập với văn hóa phƣơng Tây. Đây cũng chính là một thực tế khách quan thúc đẩy sự thay đổi và phát triển tiếng Việt ở Nam Bộ ở giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1945. Nhƣ vậy, có thể nói rằng bối cảnh xã hội của vùng đất Nam Bộ trong thời kỳ chúng ta khảo sát sự biến đổi ngôn ngữ là một xã hội thực dân phong kiến. Chính tính chất thực dân nó làm cho vùng đất tiếp xúc với nền văn hóa phƣơng Tây mà chủ thể của nó là nền văn hóa Pháp. Còn tính chất phong kiến nó cho phép cộng đồng lƣu giữ những cái gì gọi là “truyền thống” để tạo ra đặc trƣng xã hội của vùng đất Nam Bộ. 1.1.2. Bối cảnh ngôn ngữ Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ Việt Nam và dƣới tác động của văn hóa Pháp, tiếng Việt nói chung và tiếng Việt Nam Bộ nói riêng bắt đầu bƣớc vào một bối cảnh xã hội - ngôn ngữ mới. Chúng ta có thể mô tả bối cảnh đó theo lịch sử nhƣ sau. Trƣớc đây, trong thời kỳ Bắc thuộc và sau đó là thời kỳ phong kiến tự chủ, văn hóa Hán đã ảnh hƣởng sâu sắc đến đời sống và văn tự của ngƣời Việt. Tiếng Hán gần nhƣ trở thành ngôn ngữ chính trong đời sống xã hội của ngƣời Việt Nam trong một thời gian dài. Chữ Hán, tiếng Hán đƣợc dùng phổ biến trong các giao tiếp hành chính, thi cử, sáng tác thơ phú và nhất là trong văn bản hành chính... Thậm chí, dù ngƣời Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm (từ thế kỷ XIII) cho tiếng nói của mình, nhƣng chữ Nôm về cơ bản có thời kỳ cũng chỉ đƣợc sử dụng hạn chế trong đời sống cộng đồng, trải qua nhiều thăng trầm và bị coi là chữ viết “nôm na” không chính thức. Tuy thế, trong thời kỳ phong kiến tự chủ, chữ Nôm cũng đã dần dần đƣợc vinh danh (nhƣ văn tế của Nguyễn Thuyên, thơ “Quốc âm” của Nguyễn Trãi, văn bản chính thức của 15 vua Quang Trung Nguyễn Huệ, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du thời Nguyễn v.v. Nhƣ vậy, mặc dù không chính thức, cộng đồng ngƣời Việt đều có hành động tích cực để phát triển chữ Nôm, chữ viết ghi lại “quốc âm” của dân tộc mình. Trong giai đoạn phong kiến tự chủ, chữ quốc ngữ Latinh do các cố đạo phƣơng Tây tạo ra từ giữa thế kỷ XVII, cùng với việc du nhập của đạo Thiên chúa vào Việt Nam, đã bắt đầu đƣợc sử dụng. Loại chữ quốc ngữ Latinh tuy là ghi âm tiếng Việt và ghi lại tiếng nói hàng ngày của nhân dân, nhƣng ban đầu không đƣợc phổ biến rộng rãi trong đời sống xã hội. Mặc dù ghi tiếng nói của đời sống dân gian, so với chữ Hán thì rất dễ viết, dễ đọc nhƣng suốt gần hai trăm năm, loại chữ viết này chỉ giới hạn trong đời sống tôn giáo của cộng đồng ngƣời theo đạo Thiên chúa ở Việt Nam. Khi áp đặt đƣợc ách đô hộ lên toàn cõi Việt Nam, nhất là khi triều đình nhà Nguyễn ký hiệp định nhƣờng vùng đất Nam Kỳ cho Pháp, ngƣời Pháp chủ trƣơng tích cực truyền bá văn hóa Pháp và tiếng Pháp vào Việt Nam. Lúc này, ngƣời Pháp muốn lấy kiểu chữ viết bằng mẫu tự Latinh thay thế cho chữ khối vuông của ngƣời Trung Hoa ở Việt Nam. Từ cuối thế kỷ thứ XIX, thực dân Pháp sử dụng những biện pháp áp đặt để thực hiện mục đích của mình. Theo đó, ngƣời Pháp sử dụng tiếng Pháp trong trƣờng học, sử dụng tiếng Pháp và chữ quốc ngữ Latinh trong các văn bản nhà nƣớc thống trị ở Nam Kỳ và một phần là ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ... Trong thƣ của Giám mục Puginier gửi Tổng trƣởng thuộc địa Pháp có đoạn: “Điều thứ hai phải làm là bỏ chữ Nho và trước hết thay thế bằng tiếng An Nam với chữ viết Âu châu gọi là quốc ngữ rồi sau đó bằng tiếng Pháp” [54, tr. 21]. Nhà cầm quyền Pháp ở Việt Nam chủ trƣơng công văn, giấy tờ hành chính cũng qui định phải viết bằng chữ quốc ngữ. Nghị định 22/2/1869 của chính quyền thực dân ghi rõ: “Kể từ ngày 1/4/1869 tất cả các giấy tờ chính thức, nghị định, quyết định, ấn lệnh, phán quyết, thông tư…đều sẽ được viết bằng mẫu tự Âu châu với những chữ Ký của 16 người có thẩm quyền” [53, tr. 29]. Ngƣời Pháp còn khuyến khích sử dụng tiếng Pháp bằng việc tạo điều kiện cho những ngƣời biết chữ Pháp, tiếng Pháp dễ dàng có công ăn việc làm, thậm chí còn đƣợc chính quyền Pháp cho đi học tại các nƣớc thuộc Pháp hay ở cả các trƣờng của chính quốc. Nhƣ vậy, trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tại Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng có ba ngôn ngữ là tiếng Pháp, tiếng Việt và tiếng Hán song song tồn tại; cùng với tiếng nói, có bốn văn tự là chữ Pháp, chữ Hán, chữ Nôm và chữ quốc ngữ Latinh đƣợc sử dụng trong cộng đồng. Trong tình trạng đó, chúng ta dễ dàng nhận biết rằng ở Nam Bộ Việt Nam, tiếng Pháp, tiếng Việt và cùng với nó là chữ Pháp và chữ quốc ngữ Latinh đƣợc khuyến khích sử dụng trong cộng đồng. Cảnh huống ngôn ngữ trong giai đoạn này, nhƣ vậy, chuyển từ trạng thái tiếng Hán chèn ép tiếng Việt, và chữ Hán chèn ép chữ Nôm, sang trạng thái tam ngữ bất bình đẳng: tiếng Hán, tiếng Pháp chèn ép tiếng Việt và bốn loại hình văn tự: chữ Hán ép chữ Nôm, chữ Pháp ép chữ Hán, ép chữ Nôm và chữ quốc ngữ La tinh hóa. Có thể nói, trong giai đoạn này, tiếng Việt đang trong trạng thái chuyển từ “cảnh huống ngôn ngữ thời phong kiến” sang “cảnh huống ngôn ngữ xã hội thực dân nửa phong kiến” nhƣ nhận định của GS Lê Quang Thiêm [45, tr. 32]. Tuy vậy, cũng có thể nói, do chủ trƣơng của thực dân Pháp khuyến khích giới trí thức Tây học sử dụng chữ quốc ngữ Latinh ở Nam Bộ, nó đã tạo ra một xu thế mới trong những ngƣời trí thức yêu nƣớc. Họ chủ trƣơng dùng chữ quốc ngữ Latinh trong hoạt động nghề nghiệp hay sáng tác của mình để bày tỏ “tinh thần dân tộc”. Chính trong bối cảnh này, chữ quốc ngữ Latinh bắt đầu phát triển ở Nam Bộ. Sự phát triển của chữ quốc ngữ Latinh trong giai đoạn này có ảnh hƣởng đến sự biến động của ngôn ngữ. Trƣớc tình trạng cảnh huống ngôn ngữ nhƣ thế, những văn bản lƣu trữ tiếng Việt Nam Bộ lại cho đến ngày nay đƣợc thể hiện dƣới nhiều kiểu ngôn 17 ngữ văn tự khác nhau. Trƣớc năm 1858, chủ yếu vẫn là chữ Nôm, còn lại một phần nhỏ là chữ quốc ngữ. Sau năm 1858, khi đối tƣợng sử dụng ngôn ngữ đã thay đổi, tình trạng lƣu giữ lại cũng khác nhau. Cụ thể, số lƣợng các nhà nho trƣớc kia dùng chữ Hán, chữ Nôm nay đã giảm đi. Số ngƣời dùng tiếng Pháp xuất hiện ngày một nhiều. Số ngƣời dùng chữ quốc ngữ Latinh cũng dần dần tăng lên. Do bối cảnh xã hội và ngôn ngữ nhƣ thế, nên các tác phẩm văn chƣơng, báo chí và nhất là những tác phảm viết bằng chữ quốc ngữ Latinh đã có một khối lƣợng lớn từ ngữ mới, du nhập các phong cách mới. Điều đó thể hiện rõ nét nhất là ở các tác phẩm báo chí. Nói một cách khác đi, ở Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, báo chí là phƣơng tiện đầu tiên phổ biến rộng rãi nhất chữ quốc ngữ và tiếng Việt trong cộng đồng xã hội. Sau sự xâm lƣợc và chính sách cai trị của thực dân Pháp, báo chí Việt Nam nói chung và báo chí ở Nam Bộ nói riêng đã trở thành mảnh đất màu mỡ để đƣa chữ quốc ngữ đến với ngƣời dân Nam Bộ. Giai đoạn này đánh dấu sự nở rộ của báo chí Việt Nam, đầu tiên phải kể đến Gia Định báo (1865), hay Đại Nam đồng văn nhật báo (1892), Nông cổ mín đàm (1901), Đông Dương tạp chí (1913), Nam Phong tạp chí (1917)... Đến năm 1930 trên cả nƣớc có 80 tờ báo và tạp chí lƣu hành, trong đó riêng Sài Gòn đã phát hành 50 tờ. Nhƣ vậy có thể thấy, chữ quốc ngữ đến với Nam Bộ sớm hơn, nên báo chí cũng phát triển đa dạng hơn. Đồng nghĩa với điều đó là chữ quốc ngữ sẽ đƣợc sử dụng nhiều hơn, phong phú hơn. Để tận thu lợi thế trong việc tìm hiểu ngôn ngữ trong giai đoạn này ở Nam Bộ, trong luận văn, chúng tôi đã hƣớng tới tìm hiểu các báo chí mà cụ thể là hai tờ “Nông cổ mín đàm” và “Phụ nữ tân văn”. Cùng với sự phát triển của báo chí, thì những văn bản khác, trong đó nổi bật là những sáng tác văn chƣơng bằng chữ quốc ngữ cũng ra đời. Đầu tiên phải kể đến “Truyện thầy Lazaro Phiền” của Nguyễn Trọng Quản (1887) 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan