Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng phan bội châu về đảng chính trị và mô hình nhà nước...

Tài liệu Tư tưởng phan bội châu về đảng chính trị và mô hình nhà nước

.PDF
99
938
107

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ TRẦN THỊ THANH HÒA TƯ TƯỞNG PHAN BỘI CHÂU VỀ ĐẢNG CHÍNH TRỊ VÀ MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ TRẦN THỊ THANH HÒA TƯ TƯỞNG PHAN BỘI CHÂU VỀ ĐẢNG CHÍNH TRỊ VÀ MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 60 31 02 01 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lưu Văn An Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Thông tin, số liệu trong luận văn hoàn toàn trung thực, chính xác, các trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc . Kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với các công trình nào khác. Tác giả luận văn Trần Thị Thanh Hòa LỜI CẢM ƠN Trước hết, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Lưu Văn An, người thầy đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trực tiếp giảng dạy chúng tôi trong suốt thời gian học tập; Đặc biệt là sự quan tâm giúp đỡ tận tình của quý Thầy, Cô Khoa Khoa học Chính trị, Phòng Sau đại học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội và Phòng Khoa học Công nghệ trường Đại học Sài Gòn. Đồng thời, tôi cũng gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đã là nguồn động lực giúp tôi hoàn thành khóa học. Bên cạnh đó, tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với đội ngũ cán bộ, giáo viên trường Cao đẳng nghề Lilama 2 đã tạo điều kiện về thời gian công tác để tôi có thể yên tâm học tập tốt. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn! Trần Thị Thanh Hòa MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG PHAN BỘI CHÂU VỀ ĐẢNG CHÍNH TRỊ VÀ MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC ................................................................................................... 10 1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam tác động đến sự hình thành tư tưởng Phan Bội Châu về đảng chính trị và mô hình nhà nước .................. 10 1.1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ............... 10 1.1.2. Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ............ 21 1.2. Tiểu sử và quá trình hình thành tư tưởng Phan Bội Châu về đảng chính trị và mô hình nhà nước ......................................................................... 34 1.2.1. Tiểu sử Phan Bội Châu .................................................................. 34 1.2.2. Quá trình hình thành tư tưởng Phan Bội Châu về đảng chính trị và mô hình nhà nước ....................................................................................... 38 Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 44 Chƣơng 2: NỘI DUNG, GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG PHAN BỘI CHÂU VỀ ĐẢNG CHÍNH TRỊ VÀ MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC .. 46 2.1. Tư tưởng về đảng chính trị ...................................................................... 46 2.2. Tư tưởng về thể chế chính trị và mô hình nhà nước ............................... 58 2.3. Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng Phan Bội Châu về đảng chính trị vả mô hình nhà nước........................................................................................ 69 2.3.1. Những giá trị ................................................................................. 69 2.3.2. Một số hạn chế .............................................................................. 72 2.4. Ý nghĩa của tư tưởng Phan Bội Châu về đảng chính trị và mô hình nhà nước .......................................................................................................... 74 2.4.1. Ý nghĩa đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc .............. 74 2.4.2. Ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới hiện nay ................................. 79 Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 86 Kết luận .......................................................................................................... 87 Danh mục tài liệu tham khảo ....................................................................... 89 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phan Bội Châu (1867-1940) là nhà yêu nước, nhà chính trị, là lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX. Ông giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam thời cận đại. Với con đường cứu nước mới mẻ và các giá trị như “quốc dân”, “dân quyền”, “dân trí”, “dân chủ”... là những giá trị tư tưởng của Phương Tây lần đầu tiên được truyền bá vào Việt Nam, thông qua các tổ chức yêu nước do Phan Bội Châu thành lập và trực tiếp lãnh đạo, đã có ảnh hưởng lớn đến các phong trào yêu nước ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Mặc dù chưa giành được thắng lợi trong thực tiễn cách mạng nhưng những hoạt động của Phan Bội Châu đã có những cống hiến lớn đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Những cống hiến đó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của phong trào yêu nước, đặt nền móng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và thắng lợi của cuộc cách mạng dân chủ vô sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo ở thời kỳ sau đó. Đã một thế kỷ qua đi kể từ khi Phan Bội Châu đề xướng và lãnh đạo cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc thông qua các hoạt động cụ thể như: thành lập Hội Duy Tân (1904), phong trào Đông Du (1905), thành lập Việt Nam Quang Phục Hội (1912) thay thế Hội Duy Tân, rồi đến Việt Nam Quốc dân Đảng (1924)... Mở đầu cho thời kỳ ra đời của một đảng chính trị theo ý nghĩa hiện đại của nó. Những tư tưởng và hoạt động thực tiễn của ông dựa trên tôn chỉ là đánh đuổi người Pháp ra khỏi đất nước, khôi phục chủ quyền của Việt Nam, và thành lập "Việt Nam Cộng hòa Dân quốc", một mô hình nhà nước nhằm đem lại các quyền dân sinh, dân chủ, tự do cho nhân dân… Đây là những giá trị, mục tiêu có tính thời đại mà cho đến ngày nay đang là hướng phấn đấu của nhiều quốc gia, dân tộc trong đó có Việt Nam. 1 Phan Bội Châu trước hết là một nhà Nho, một sỹ phu thiết tha yêu nước, đã đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc với tư tưởng dân chủ tư sản tiếp thu qua sách báo tiến bộ, qua thực tiễn cải cách của Nhật Bản. Trong bối cảnh Việt Nam cuối thể kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu là người có tư tưởng tiến bộ nhất trong số các trí thức Nho học lúc bấy giờ, phân hoá từ giai cấp phong kiến, ý thức được trách nhiệm lịch sử, nỗ lực không ngừng để vươn lên cùng với thời đại, tìm đến một phương thức cách mạng mới, một con đường cứu nước mới chưa từng có tiền lệ, vượt ra ngoài khuôn khổ ý thức hệ truyền thống. Tư tưởng chính trị Phan Bội Châu đương thời đã khích lệ, cổ động các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên có chí hướng đấu tranh giành độc lập tự do, “rửa vết nhơ nô lệ”. Ngày nay, tư tưởng chính trị Phan Bội Châu đang tiếp tục kêu gọi chúng ta hành động, vươn lên vì một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Có thể nói tư tưởng chính trị của Phan Bội Châu về dân quyền, dân trí, dân chủ, công bằng, văn minh, độc lập dân tộc... vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự của nó. Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu di sản tư tưởng chính trị nói chung và tư tưởng về Đảng chính trị - mô hình nhà nước nói riêng của Phan Bội Châu nhằm cung cấp một cứ liệu khoa học, làm rõ hơn những nội dung quan trọng của lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam dưới ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản Phương Tây; những ảnh hưởng đối với cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX là hết sức cần thiết. Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, để thực hiện thành công sự nghiệp đó đòi hỏi cần phải phát huy những giá trị tư tưởng chính trị truyền thống; biết kế thừa những tinh hoa trí tuệ, tư tưởng của cha ông để lại. Mặt khác, cần phải tiếp thu có chọn lọc những giá trị tư tưởng của nhân loại nhằm nâng cao năng 2 lực tư duy, đáp ứng yêu cầu mà thực tiễn cuộc sống đang đặt ra hiện nay. Cũng thông qua việc nghiên cứu này, chúng ta rút ra được những bài học lịch sử quý giá cho công cuộc đổi mới hiện nay, góp phần xứng đáng trong xây dựng đất nước phát triển nhanh và bền vững như tinh thần Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra. Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn như trên, tác giả chọn vấn đề “Tư tưởng Phan Bội Châu về đảng chính trị và mô hình nhà nước” làm đề tài luận văn thạc sỹ Chính trị học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Với tư cách là một nhà tư tưởng, nhà cách mạng và hoạt động chính trị, nhà văn hóa lớn, cuộc đời và sự nghiệp của Phan Bội Châu đã trở thành tiêu điểm, thu hút sự quan tâm, tìm hiểu của nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu cả trong và ngoài nước. Các công trình nghiên cứu này thể hiện dưới dạng sách chuyên khảo, bài đăng tạp chí, luận văn, luận án của các tác giả trong và ngoài nước. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả đã tiến hành khảo sát, phân loại các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài dưới các góc độ sau: - Những công trình nghiên cứu liên quan đến con người, thân thế sự nghiệp của Phan Bội Châu Phan Bội Châu là một nhà Nho đặc biệt, lại sinh ra và lớn lên ở một vùng quê có tinh thần cách mạng và hiếu học cũng rất đặc biệt, vì thế con người, thân thế của Phan Bội Châu giành được rất nhiều sự quan tâm của các học giả. Những nghiên cứu về con người, thân thế là nền tảng quan trọng để hiểu thêm về điều kiện hình thành tư tưởng của Phan Bội Châu về đảng chính trị và mô hình nhà nước. Liên quan đến vấn đề này có thể liệt kê một số công trình tiêu biểu sau: + Phan Bội Châu con người và sự nghiệp cứu nước, luận án tiến sỹ sử học của Chương Thâu, Viện Sử học (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam) năm 1981. 3 + Nghiên cứu Phan Bội Châu do Chương Thâu tuyển chọn, biên soạn; Nxb. Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2004. + Phan Bội Châu - nhà yêu nước - nhà văn hoá lớn, Chương Thâu biên soạn, Nxb. Nghệ An và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây phát hành năm 2005. + Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh của Tôn Quang Phiệt do Ban nghiên cứu Văn Sử Địa phát hành năm 1956. + Phan Bội Châu và một số giai đoạn lịch sử chống Pháp của nhân dân Việt Nam của Tôn Quang Phiệt, Nxb. Văn hóa và Cục xuất bản ấn hành năm 1958. + Hồi ký về cụ Phan và cụ Huỳnh của Vương Đình Quang Nxb. Văn học ấn hành năm 1997. + Phan Bội Châu (1867-1940): Con người và sự nghiệp do tập thể tác giả Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Trần Ngọc Vương, Trần Kim Đỉnh biên soạn, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn ấn hành năm 1997. + Phan Bội Châu và xã hội Việt Nam ở thời đại ông của G. Boudarel, Chương Thâu (do Hồ Song dịch, Đinh Xuân Lâm giới thiệu và hiệu đính). + Những chí sĩ cùng học sinh du học Nhật Bản dưới sự hướng dẫn của cụ Sào Nam - Phan Bội Châu của Ngô Thành Nhân (Anh Minh). - Những công trình nghiên cứu về các tác phẩm thơ, văn của Phan Bội Châu Phan Bội Châu đã viết rất nhiều các tác phẩm thơ văn nhằm thể hiện rõ những quan niệm của ông về tư tưởng chính trị và triết lý cuộc sống, đồng thời qua thơ văn cổ động mọi tầng lớp nhân dân tham gia đấu tranh, thực hiện sự nghiệp giải phóng. Các tác giả đã nghiên cứu, bình luận, đánh giá về những sáng tác thơ văn của ông; tư tưởng chính trị trong các nghiên cứu này được tiếp cận dưới góc nhìn chính luận văn học. Tiếp cận dưới góc độ này, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau: 4 + Truyện và tự truyện của Phan Bội Châu (từ góc nhìn thể loại), luận án Phó tiến sỹ khoa học ngữ văn (mã số: 5.04.33) của Hoàng Đức Khoa, Trường Đại học sư phạm Hà Nội, năm 1994. + Thơ Phan Bội Châu thời kỳ ông già bến Ngự, luận án phó tiến sỹ ngữ văn của Nguyễn Hữu Trí (mã số: 5.04.33), năm 1996. + Sào Nam thiên cổ sự của Vũ Ngọc Khánh, Nxb. Thuận Hoá, năm 1998. + Tập nghiên cứu và bình luận văn học chọn lọc (tuyển chọn và giới thiệu) của Đỗ Quang Lưu; Nxb. Hà Nội, năm 1999. + Nghiên cứu lý luận, phê bình văn học Nghệ An thế kỷ XX, cuốn sách do Nxb. Nghệ An giới thiệu và tuyển chọn các tác phẩm nghiên cứu, lí luận phê bình của hơn 80 tác giả của Nghệ An như: Hồ Chí Minh, Đặng Nguyên Cẩn, Phan Bội Châu, Hồ Phi Huyền, Võ Liêm Sơn... - Những công trình nghiên cứu về cuộc đời hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu gắn với phong trào Đông Du và các tổ chức yêu nước Hoạt động thực tiễn cách mạng lớn của cụ Phan Bội Châu là tổ chức phong trào Đông Du và thành lập các tổ chức yêu nước, cổ động mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp những thanh niên ưu tú lúc bấy giờ. Thông qua các hoạt động này, cụ đã truyền bá tư tưởng chính trị tiến bộ, qua đó góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát triển của phong trào yêu nước trong nhân dân, đặc biệt là thanh niên. Liên quan đến vấn đề nghiên cứu có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau: + Phong trào Đông Du và Phan Bội Châu của nhóm tác giả Đinh Xuân Lâm, Chương Thâu, Phạm Xanh, sách do Nxb. Nghệ An và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây ấn hành năm 2005. + Mùa xuân 100 năm trước mở đầu Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo của Chương Thâu, tạp chí Xưa và Nay, số 231, trang 16-18, năm 2005. 5 + Những người đi qua hai thế kỷ của Bùi Đình Phong, Phan Sĩ Phúc, Trần Văn Cẩn; Nxb. Lao động, năm 2000. + Phong trào dân tộc Việt Nam và quan hệ của nó với Nhật Bản và châu Á: Tư tưởng của Phan Bội Châu về cách mạng và thế giới, sách tham khảo gồm 2 tập của Shiraishi Masaya (người dịch tập 1: Nguyễn Như Diệm; người dịch tập 2: Trần Sơn), Nxb. Chính trị Quốc gia, năm 2000. - Những công trình nghiên cứu về tư tưởng triết học và chính trị Phan Bội Châu Phan Bội Châu đã để lại cho chúng ta những giá trị tư tưởng đặc sắc, tổng hợp toàn bộ những hoạt động của cụ trong suốt một thời gian dài trực tiếp tham gia phong trào kháng Pháp. Những giá trị đó đã được nhiều tác giả tham gia nghiên cứu, đánh giá và học hỏi, bao gồm những nội dung cụ thể như: + Tư tưởng triết học và chính trị của Phan Bội Châu, luận án tiến sỹ triết học của Nguyễn Văn Hòa, Viện Triết học, năm 2000. + Thế giới quan Phan Bội Châu, luận án tiến sỹ triết học (mã số: 5.01.02) của Lê Ngọc Thông, Viện Triết học, năm 2001. + Quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX qua các nhân vật tiêu biểu, của Doãn Chính, Phạm Đào Thịnh, Nxb. Chính trị Quốc gia, năm 2007. + Tư tưởng Phan Bội Châu về con người, của Doãn Chính - Cao Xuân Long, Nxb. Chính trị Quốc gia, năm 2012. + Sự tiếp nối tư tưởng trên đất Nghệ Tĩnh từ Phan Đình Phùng qua Phan Bội Châu tới Hồ Chí Minh của Phạm Xanh, tạp chí Lịch sử quân sự, số 166, năm 2005, trang 22-27. + Phan Bội Châu về một số vấn đề văn hoá - xã hội - chính trị, do Chương Thâu sưu tầm và tuyển chọn, Nxb. Thuận Hoá, năm 2000. 6 + Chủ nghĩa yêu nước của Phan Bội Châu của Nguyễn Đức Sự, đăng ở tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 83/1966, trang 28-36. + Ảnh hưởng của “Tân Thư” trong tư tưởng Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh của Lê Sỹ Thắng, đăng ở tạp chí Triết học, số 2-1997, trang 26-30. + Sự truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản Phương Tây vào Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đề tài do Nguyễn Văn Vĩnh chủ nhiệm, Viện Chính trị học là cơ quan chủ trì; đề tài được nghiệm thu tháng 12 năm 2010. Đánh giá tổng quan về các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn: Như vậy, nghiên cứu về Phan Bội Châu đã được thực hiện trong một thời gian dài, gồm nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả tên tuổi gắn với Phan Bội Châu như: Chương Thâu, Tôn Quang Phiệt, Đinh Xuân Lâm... Các nghiên cứu dù lớn hay nhỏ đều đã được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau như: sử học, văn học, triết học, tôn giáo học... Tuy nhiên, vẫn còn thiếu vắng các công trình nghiên cứu tư tưởng chính trị của Phan Bội Châu dưới góc độ khoa học chính trị. Mặt khác, nghiên cứu về tư tưởng chính trị truyền thống của dân tộc nói chung và tư tưởng chính trị Phan Bội Châu nói riêng vẫn còn là một đề tài lớn, đang tiếp tục thu hút nhiều học giả và nhà nghiên cứu. Bởi vì, việc tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu một cách có căn bản, có chiều sâu những vấn đề này là hết sức cần thiết, nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm, các giá trị tham khảo đối với thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù chưa có công trình nào trực tiếp và đi sâu nghiên cứu tư tưởng của Phan Bội Châu về đảng chính trị và mô hình nhà nước nhưng những nguồn tài liệu kể trên là hết sức quan trọng và quý báu để tác giả luận văn vừa có điều kiện kế thừa kết quả nghiên cứu của những người đi trước vừa có thể tự hệ thống và khám phá độc lập trong nghiên cứu riêng của mình. 7 3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Mục tiêu: Trên cơ sở làm rõ bối cảnh lịch sử, tác giả luận văn phân tích những tư tưởng chủ yếu của Phan Bội Châu về đảng chính trị và mô hình nhà nước, đồng thời rút ra các giá trị và ý nghĩa lịch sử đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Nhiệm vụ: + Làm rõ bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Phan Bội Châu về đảng chính trị và mô hình nhà nước; + Phân tích nội dung cơ bản của tư tưởng Phan Bội Châu về đảng chính trị và mô hình nhà nước; + Đánh giá những hạn chế trong tư tưởng của Phan Bội Châu về đảng chính trị, về mô hình nhà nước; + Rút ra ý nghĩa của tư tưởng Phan Bội Châu về đảng chính trị và mô hình nhà nước đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn giải phóng dân tộc và trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn -Đối tượng nghiên cứu Luận văn đi sâu nghiên cứu các nội dung chủ yếu tư tưởng Phan Bội Châu về đảng chính trị và mô hình nhà nước. - Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu chủ yếu vào giai đoạn đầu thế kỷ XX, bắt đầu từ năm 1900 sau khi Phan Bội Châu thi đỗ giải nguyên nhưng không ra làm quan cho triều Nguyễn mà đi vào hoạt động cách mạng cho đến lúc mất, năm 1940. 8 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị, về nhà nước, về đảng chính trị. Luận văn cũng dựa trên các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng và đổi mới chính trị, nhất là hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. - Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận của luận văn là của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp cụ thể: lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, so sánh, hệ thống, nghiên cứu tài liệu... 6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn Là đề tài trực tiếp nghiên cứu về “Tư tưởng của Phan Bội Châu về đảng chính trị và mô hình nhà nước” nên luận văn góp phần nhận diện một cách cụ thể và đầy đủ hơn về tư tưởng chính trị của Phan Bội Châu. Đồng thời nêu lên những giá trị lịch sử của tư tưởng này và ý nghĩa của nó đối với công cuộc xây dựng đất nước hiện nay; luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam và khoa học chính trị nói chung. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn được kết cấu thành 2 chương, 6 tiết. 9 Chƣơng 1 BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG PHAN BỘI CHÂU VỀ ĐẢNG CHÍNH TRỊ VÀ MÔ HÌNH NHÀ NƢỚC 1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam tác động đến sự hình thành tƣ tƣởng Phan Bội Châu về đảng chính trị và mô hình nhà nƣớc 1.1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn có những biến đổi to lớn trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Ở phương Tây, với sự áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất đã làm cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ về mọi phương diện, tạo bước chuyển từ giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền. Tư bản độc quyền ra đời đồng nghĩa với việc chủ nghĩa tư bản luôn tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm và nơi cung cấp nguyên vật liệu. Chủ nghĩa thực dân phương Tây luôn chạy đua, cạnh tranh với nhau gay gắt nhằm xâm lược và đặt ách thống trị ở các quốc gia kém phát triển nhằm giải quyết vấn đề này. Cùng với quá trình xâm lược của thực dân phương Tây là phong trào đấu tranh của nhân dân các nước bị áp bức nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền. Các quốc gia phong kiến cũng đã có những bước chuyển mình quan trọng để phát triển kỹ nghệ, cải cách chính trị nhằm thích hợp với sự chuyển biến của tình hình. Ở mỗi nước có cách làm khác nhau và sự thành công hay thất bại không giống nhau, song những thay đổi, cải cách này đã tác động không nhỏ đến việc hình thành và du nhập các tư tưởng chính trị hiện đại. Chính Việt Nam là một trong số các nước chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các tư tưởng dân chủ tư sản trong giai đoạn này. Trước sự xâm lược tàn bạo của các thế lực thực dân phương Tây, giai cấp phong kiến và đông đảo quần chúng nhân dân ở các nước bị áp bức đã đứng lên bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc. Phong trào đấu tranh của các 10 tầng lớp giai cấp mới và cũ trong xã hội bùng nổ mạnh mẽ. Đây chính là điểm giao thời giữa cái “cũ” và cái “mới”, giữa cái tiến bộ của phương Tây và cái lạc hậu của phương Đông. Xã hội có những chuyển biến quan trọng về kinh tế- chính trị, văn hóa - xã hội, là những tiền đề quan trọng cho sự xuất hiện của các tư tưởng chính trị dân chủ tư sản. Thời kỳ trước đó, từ cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được định hình và phát triển một cách hết sức mạnh mẽ ở châu Âu, song ở châu Á vẫn còn chưa thực sự rõ nét, nền kinh tế tiểu nông, tự cấp tự túc vẫn chi phối chủ yếu đến đời sống kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia, cùng với đó thì thương mại bị hạn chế do chính sách bế quan, tỏa cảng. Vì thế, khi kinh tế tư bản bên ngoài xâm nhập vào đã xáo trộn và làm thay đổi cơ cấu kinh tế và xã hội bên trong các quốc gia phong kiến phương Đông, như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ... Từ nông nghiệp, công nghiệp cho đến thương mại đều đã có những bước phát triển mạnh, phá vỡ kết cấu kinh tế truyền thống của nhiều quốc gia châu Á. Sự hình thành và phát triển của nhân tố kinh tế tư bản chủ nghĩa là tiền đề vật chất cho những tư tưởng mới, tiến bộ ra đời, đó là hệ tư tưởng của giai cấp tư sản dân tộc. Nhật Bản là một trong những quốc gia châu Á đầu tiên phát triển kinh tế mạnh mẽ do tiếp cận và ứng dụng nhanh công nghệ phương Tây vào sản xuất. Từ năm 1868, với chính sách “duy tân” mang tính đột phá và thực sự có hiệu quả của Thiên hoàng Minh Trị, Nhật Bản đã có được “bước nhảy thần kỳ” về kinh tế - xã hội. Câu chuyện bắt đầu từ giữa thế kỷ XIX, sau hơn 200 năm thống trị của chế độ Mạc phủ Tokugawa, Nhật Bản lâm vào tình trạng khủng hoảng về mọi mặt. Trước tình hình đó, thực dân phương Tây đã gây áp lực buộc Nhật phải mở cửa tự do buôn bán, xóa bỏ chính sách bế quan, tỏa cảng. Trước tình hình khủng hoảng cùng với những đe dọa từ các nước phương Tây đòi hỏi Nhật Bản phải tiến hành cải cách đất nước với cơ hội trở 11 thành một cường quốc như các nước phương Tây. Phong trào đấu tranh chống Mạc phủ Tokugawa bùng nổ khắp nơi trong thập niên 60 của thế kỷ XIX. Tháng 12 năm 1867 chế độ Mạc phủ Tokugawa chấm dứt, ngày 3 tháng 1 năm 1868, chính quyền mới do Thiên hoàng Minh Trị bổ nhiệm được thành lập. Giai cấp tư sản chưa được tham gia chính quyền, nhưng chế độ mới tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển, nên họ ủng hộ chính quyền mới. Thời kì Minh Trị (nghĩa là “sự cai trị sáng suốt”) bắt đầu. Đổi mới và thúc đẩy nền kinh tế phát triển, Thiên Hoàng đã cử các chuyên gia sang phương Tây học hỏi về kỹ thuật, thành lập các trường đại học đào tạo tầng lớp lãnh đạo chính quyền và kinh doanh. Cơ sở hạ tầng bắt đầu được quan tâm đầu tư xây dựng. Nhiều chuyên gia phương Tây được mời tới Nhật Bản để phổ biến kiến thức và kỹ thuật. Nhật Bản còn ban bố quyền tự do buôn bán và đi lại, thiết lập chế độ tiền tệ thống nhất (đồng yên), đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển chủ nghĩa tư bản đến tận các vùng nông thôn. Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ các công trường sản xuất thủ công ở Nhật Bản, với các ngành kinh tế chủ yếu như: dệt, sản xuất giấy, máy móc, cơ khí… Sự phát triển về kinh tế của Nhật Bản là một trong những hình mẫu có nhiều ảnh hưởng đến các tầng lớp yêu nước ở nhiều quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam. Để xóa quyền lực của các đại danh, triều đình đã bãi bỏ hệ thống lãnh địa và danh hiệu của các đại danh; thực hiện “tứ dân bình đẳng”, nghĩa là bốn tầng lớp gồm võ sĩ, nông dân, thợ thủ công và thương nhân giờ đây không còn bị phân biệt. Năm 1889, Hiến pháp mới được ban hành, quy định Nhật Bản là một quốc gia quân chủ lập hiến có Hội đồng Quốc gia (Nghị viện Hoàng gia), hệ thống hành chính địa phương mới, cho phép nhân dân bầu cử; các đảng phái như Ái quốc xã, Tự do Đảng, Lập hiến Cải cách Đảng, Lập hiến Đế chính Đảng được phép chấp chính. Những cải cách này đã đưa Nhật Bản thoát khỏi 12 vòng nô lệ như một số ít nước châu Á và vươn tới tầm cường quốc thế giới với chiến thắng Trung Quốc trong Chiến tranh Trung - Nhật (1894-1895); chiến thắng Nga tại Mãn Châu Lý trong Chiến tranh Nga - Nhật năm (1904-1905); tham dự phe Đồng minh trong chiến tranh thế giới thứ nhất, chiếm giữ các vùng lãnh thổ do người Đức nắm giữ tại Trung Quốc và Thái Bình Dương. Nhờ có duy tân, đổi mới, Nhật Bản đã trở thành nước độc lập, không những thế mà còn sớm cường thịnh, vươn lên một cách mạnh mẽ và còn có chính sách bành trướng thực dân. Những thành công trong cải cách Nhật Bản là sự khích lệ, là tấm gương mà nhiều nhà yêu nước các dân tộc châu Á muốn học hỏi. Phan Bội Châu và các đồng chí của ông rất muốn học tập Nhật Bản. Thời kỳ này ở Trung Quốc, triều đình Mãn Thanh đang ở giai đoạn khủng hoảng, kinh tế, chính trị, xã hội đi vào suy thoái. Sự mâu thuẫn giữa chế độ phong kiến đang suy vong và chủ nghĩa tư bản đang hình thành biến Trung Quốc thành một nướcphong kiến nửa thuộc địa và rơi vào tình trạng bị các nước thực dân thi nhau xâu xé. Dưới chính sách khai thác thuộc địa của các nước đế quốc, nền kinh tế Trung Quốc có bước chuyển rõ rệt, bắt đầu xuất hiện một số ngành công nghiệp. Đã có nhiều xưởng sửa chữa, đóng tàu ở Thượng Hải, Hương Cảng được thành lập. Các ngành công nghiệp nhẹ như chế biến chè, tơ, da, dầu, dệt... và công nghiệp dịch vụ như điện nước, sản xuất diêm, giấy, thuỷ tinh, xà phòng... đã xuất hiện ở Thượng Hải. Cho đến đầu thế kỷ XX nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ. Từ năm 1900 đến năm 1908, số công trường thủ công tăng lên gấp đôi, giai cấp tư sản Trung Quốc đã không ngừng mở rộng đầu tư sang các lĩnh vực khác như công nghiệp dân dụng, công nghiệp nặng. Về chính trị, trước sự mục ruỗng của triều đình Mãn Thanh với hệ tư tưởng lạc hậu cùng với các chính sách bảo thủ của nó càng làm cho tình hình Trung Quốc rơi vào thảm cảnh. Trước thực trạng trên, cuối thế kỷ XIX, nhiều 13 nhà tư tưởng tiến bộ đã đề xuất chủ trương duy tân. Người đầu tiên là Hồng Tú Toàn với phong trào Thái bình Thiên quốc nhằm lật đổ triều đại Mãn Thanh, thực hiện bình đẳng xã hội, bình đẳng nam nữ, xóa bỏ sở hữu ruộng đất phong kiến và chia ruộng cho dân cày, hướng tới một xã hội không còn người bóc lột người. Sau đó là cuộc chính biến một trăm ngày của Khang Hữu Vi với tư tưởng “biến pháp”… Các cuộc đấu tranh đó đã thức tỉnh phong trào yêu nước của nhân dân, nâng cao ý thức độc lập dân tộc chống ngoại xâm và ý thức dân chủ chống chuyên chế. Đó là những tiền đề để đến đầu thế kỷ XX, lịch sử Trung Quốc có một sự chuyển biến quan trọng, chính là cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 do Tôn Trung Sơn lãnh đạo. Nó tiến bộ ngay từ chủ trương của Hội “đánh đổ Mãn thanh, khôi phục Trung Hoa, lập chính phủ liên hiệp” đã thực sự đập tan triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến Trung Quốc, dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản. Tuy nhiên, tất cả các cuộc cách mạng nêu trên, cuối cùng cũng chỉ dừng lại ở đó, chỉ có thể lật đổ được chế độ phong kiến tồn tại với lịch sử hàng ngàn năm, bởi trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ, việc biến Trung Quốc thành một nước tư bản chủ nghĩa và giành độc lập bằng con đường cải cách từ trên xuống là điều không tưởng. Mặt khác, vì quyền lợi của mình, các nước đế quốc không thể chấp nhận việc Trung Quốc đi theo con đường của họ, vì như thế sẽ mất đi một thị trường béo bở và tạo ra một đối thủ cạnh tranh tiềm tàng trong tương lai. Từ đó cho thấy, con đường theo kiểu phương Tây của Trung Quốc ở thời điểm ấy, không những không thoát khỏi sự thống trị của ngoại bang mà còn lệ thuộc hơn nữa vào họ. Sau thất bại của cách mạng Tân Hợi (19111913), các mục tiêu đánh đổ chính quyền Mãn Thanh, thành lập nước Trung Hoa dân quốc, thực hiện cải cách ruộng đất cần phải xem lại. Cuộc cách mạng này chỉ dừng lại ở việc trọng tâm là đánh đổ tập đoàn thống trị Mãn Thanh mà chưa nhận ra kẻ thù chủ yếu của cách mạng là chủ nghĩa thực dân và giai cấp địa 14 chủ phong kiến. Thất bại này của cách mạng Tân Hợi cho thấy, các nhà lãnh đạo cuộc cách mạng này đã thiếu cương quyết với chế độ phong kiến, ảo tưởng với chế độ thực dân. Mặc dù thất bại nhưng những cuộc cách mạng ở Trung Quốc đã có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà tư tưởng tiến bộ Việt Nam, Phan Bội Châu đã viết: “Phong triều Trung Hoa cách mệnh thành công, ảnh hưởng tới nước ta hung lắm. Nhiệt độ người nước ta so với trước kia lên gấp bội. Nếu ở ngoài có cái gì tiên thanh, thì khí thế ở trong nước khắc sống lại” [7, tr. 215]. Qua thực tiễn của Nhật Bản và Trung Quốc đã minh chứng sự ra đời của giai cấp tư sản ở châu Á khác với giai cấp tư sản châu Âu. Ở châu Á, khi thực dân phương Tây xâm nhập vào các nước và mở rộng ảnh hưởng thông qua các hoạt động thương mại, truyền giáo thì những mầm mống của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện. Ban đầu tầng lớp tư sản chưa trở thành một giai cấp trong xã hội, họ mới là những người buôn bán, chủ các công trường thủ công phân tán. Trước sự xâm lược của thực dân phương Tây, cùng với những mâu thuẫn lợi ích với thực dân nên khi giai cấp phong kiến tổ chức chống thực dân thì tầng lớp này cũng đã hưởng ứng tham gia đấu tranh. Họ đi theo dưới ngọn cờ của giai cấp phong kiến bởi vì nhiệm vụ dân tộc là trên hết. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, tầng lớp tư sản nhanh chóng lớn mạnh ở nhiều nước và đã trở thành một giai cấp trong xã hội. Tuy nhiên, lúc này giai cấp tư sản đang trong quá trình hình thành, số lượng và chất lượng yếu kém, lại chưa đủ khả năng lãnh đạo cách mạng. Về sau, giai cấp phong kiến đã mất dần vai trò lịch sử nhưng những trí thức phong kiến tiến bộ lại giữ một vị trí hết sức quan trọng, họ nhanh chóng tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản, và được giai cấp tư sản đồng tình, ủng hộ về vật chất và tinh thần cho phong trào. Khi phong trào đấu tranh theo khuynh hướng tư sản của trí thức phong kiến thất bại thì giai cấp tư sản lúc này đã đứng ra đảm nhiệm vai trò sứ mệnh 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan