Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Từ vựng trong thơ tố hữu ( khảo sát qua hai tập việt bắc và gió lộng )...

Tài liệu Từ vựng trong thơ tố hữu ( khảo sát qua hai tập việt bắc và gió lộng )

.PDF
94
1827
109

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------- NGUYỄN THỊ HỒNG TỪ VỰNG TRONG THƠ TỐ HỮU (KHẢO SÁT QUA HAI TẬP VIỆT BẮC VÀ GIÓ LỘNG) LUẬN VĂN THẠC SĨ Hà Nội - 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------- NGUYỄN THỊ HỒNG TỪ VỰNG TRONG THƠ TỐ HỮU (KHẢO SÁT QUA HAI TẬP VIỆT BẮC VÀ GIÓ LỘNG) LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 602201 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Vũ Đức Nghiệu Hà Nội - 2013 2 LỜI CẢM ƠN Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cô trong trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô trong Khoa Ngôn ngữ học đã tận tình hướng dẫn và truyền thụ những kiến thức chuyên môn cho em trong suốt quá trình học lớp Cao học tại khoa Ngôn ngữ học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội. Để hoàn thành được Luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình chu đáo về mặt khoa học của GS.TS Vũ Đức Nghiệu - Giảng viên Khoa Ngôn ngữ học. Em xin kính gửi đến thầy lòng biết ơn sâu sắc về những kiến thức và phương pháp nghiên cứu khoa học mà Thầy đã truyền thụ cho em trong suốt thời gian hoàn thành Luận văn này. Em cũng mong muốn bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình em, đã tạo mọi điều kiện tinh thần để em được yên tâm học trong suốt thời gian đào tạo cũng như hoàn thành Luận văn. Em chân thành gửi lời cảm ơn đến bạn bè đồng học và đồng nghiệp đã có những giúp đỡ nhất định cho em trong thời gian học và hoàn thành luận văn. Mặc dù luận văn này được hoàn thành với nhiều cố gắng của bản thân em, song không tránh khỏi sự thiếu sót, hạn chế. Em rất mong nhận được sự góp ý quý báu từ quý thầy cô và các bạn để Luận văn được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội ngày 25 tháng 11 năm 2013 Học viên Cao học Nguyễn Thị Hồng 3 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ...............................................................................1 1. Lí do chọn đề tài.............................................................................1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................3 3. Mục đích nghiên cứu của luận văn..................................................3 4. Nhiệm vụ của luận văn...................................................................4 5. Phương pháp nghiên cứu................................................................4 6. Quy cách trình bày.........................................................................5 7. Cấu trúc của luận văn.....................................................................5 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁC VẤN ĐỀ TRONG LUẬN VĂN..................................................................................................6 1.1. Tác giả và nguồn ngữ liệu được khảo sát....................................6 1.1.1. Tác giả Tố Hữu.........................................................................6 1.1.2. Về hai tập thơ Việt Bắc và Gió lộng.......................................7 1.2. Một số vấn đề lý luận trong nghiên cứu từ vựng tác phẩm, tác giả..................................................................................................................7 1.2.1. Từ ngữ và đơn vị khảo sát, thống kê..........................................7 1.3. Một số vấn đề về thống kê và thủ pháp nghiên cứu định lượng...10 1.4. Một số khái niệm liên quan trong nghiên cứu định lượng..........13 1.5. Các lớp từ và tiêu chí nhận diện để phân lớp từ..........................14 1.5.1. Phân lớp từ ngữ theo nguồn gốc...............................................14 1.5.2. Phân lớp từ ngữ theo phạm vi sử dụng.....................................19 1.5.3. Phân lớp từ ngữ theo cấu trúc....................................................23 1.6. Chuyển nghĩa và năng lực hoạt động của từ..........................................25 1.6.1. Chuyển nghĩa ẩn dụ..................................................................26 1.6.2. Chuyển nghĩa hoán dụ..............................................................26 TIỂU KẾT.........................................................................................29 4 CHƢƠNG 2: PHÂN TÍCH ĐỊNH LƢỢNG VỀ VỐN TỪ VÀ PHÂN TÍCH CÁC LỚP TỪ TRONG VIỆT BẮC, GIÓ LỘNG............30 2.1. Đánh giá độ phong phú từ vựng của tác phẩm...........................30 2.1.1. Về chỉ số phong phú ( R ) của vốn từ......................................30 2.1.2.Các từ có tần số cao và sự phân bố của các vùng tần số khác nhau.............................................................................................................36 2.2. Phân tích thành phần từ vựng trong văn bản theo phạm vi sử dụng..................................................................................................................37 2.3. Phân tích thành phần từ vựng về mặt cấu trúc của từ................39 2.3.1. Từ đơn âm tiết và từ đa âm tiết trong hai tập thơ...................39 2.3.2. Từ láy trong hai tập thơ.............................................................41 2.3.3. Lớp thực từ và lớp hư từ trong hai tập thơ.............................42 2.4. Phân tích thành phần từ vựng về mặt nguồn gốc......................44 TIỂU KẾT...........................................................................................46 CHƢƠNG 3:CHUYỂN NGHĨA ẨN DỤ, HOÁN DỤ VÀ TÍN HIỆU THẨM MĨ TRONG VĂN BẢN ..............................................................48 3.1. Chuyển nghĩa ẩn dụ trong Việt Bắc và Gió lộng.......................48 3.2. Chuyển nghĩa hoán dụ trong Việt Bắc và Gió lộng...................60 3.3. Nghĩa chuyển của từ với việc thể hiện các tín hiệu thẩm mỹ....63 3.3.1. Nghĩa chuyển của từ với việc thể hiện tín hiệu thẩm mỹ Bác Hồ..63 3.3.2. Nghĩa chuyển của từ với việc thể hiện tín hiệu thẩm mỹ người lính................................................................................................................73 TIỂU KẾT..............................................................................................83 KẾT LUẬN............................................................................................84 TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................86 5 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nghiên cứu ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ tác phẩm là những việc không xa lạ trong lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ học. Công việc này đem đến cho chúng ta nhiều điều hữu ích về nhiều mặt: ngôn ngữ, văn chương, lịch sử và một phần nào đó cả xã hội học. Sự tiếp cận các hiện tượng văn chương không chỉ từ phía nghệ thuật - mỹ học, như là một loại hình nghệ thuật - nghệ thuật ngôn từ, mà cả từ phía ngôn ngữ - ngữ học. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trực tiếp của con người, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Ngôn ngữ cũng là phương tiện lưu giữ các kết quả của tư duy và hình thành tư duy. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, mỗi lớp người, mỗi loại hình văn bản ngôn ngữ được sử dụng (đặc biệt là về mặt từ vựng) không trùng khít với nhau. Điều này phụ thuộc vào giai đoạn lịch sử, giới tính, lứa tuổi, cá nhân, loại hình văn bản và ảnh hưởng sâu sắc tới sản phẩm ngôn ngữ (tác phẩm). Để nghiên cứu biểu hiện của ngôn ngữ qua những giai đoạn, những tác phẩm khác nhau, những tác giả khác nhau, người ta nghiên cứu nhiều phương diện như: ngữ pháp, từ vựng, ngữ nghĩa.. đặc biệt là nghiên cứu từ vựng. Cho đến nay trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về ngôn ngữ tác phẩm, tác giả như nghiên cứu từ vựng của Puskin, của Shakespeare hoặc nghiên cứu ngôn ngữ tác phẩm: Sông Đông êm đềm, Chiến tranh và hoà bình; lại có công trình nghiên cứu ngôn ngữ của danh nhân như nghiên cứu “từ vựng của tướng De Gaulle” của Cotteret và Moreau. [15] Ở Việt Nam có thử nghiệm nghiên cứu bước đầu về ngôn ngữ Hồ Chủ tịch1. Tiếp theo là nghiên cứu ngôn ngữ tác phẩm như từ điển tác phẩm 1 Bước đầu tìm hiểu “Sự phân bố tư vựng trong ngôn ngữ Hồ Chủ tịch” của Nguyễn Đức Dân, Hoàng Cao Cương, Trần Đình Cơ 6 Truyện Kiều, từ điển tần số truyện và ký tiếng Việt hiện đại 2. Trong luận văn này, chúng tôi nghiên cứu từ vựng trong hai tập thơ của Tố Hữu. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Tố Hữu (1920 - 2002) luôn được coi là tác giả sáng giá, một cây đại thụ. Ông đã có tên trong Từ điển Văn học Việt Nam và có một số lượng tác phẩm khá lớn. Hai tác giả Phong Lan và Mai Hương nhận xét về ông như sau: “Trên bầu trời của văn học Việt Nam hiện đại, Tố Hữu luôn được coi là ngôi sao sáng, là người mở đầu và dẫn đầu tiêu biểu cho thơ ca cách mạng. Sáu mươi năm gắn bó với hoạt động cách mạng và sáng tạo thơ ca, ông thực sự tạo nên được niềm yêu mến, nỗi đam mê bền chắc trong nhiều độc giả. Ông là người đã đem đến được cho công chúng và rồi cũng nhận lại được từ họ sự đồng điệu, đồng cảm, đồng tình tuyệt diệu – đáng là niềm ao ước của mọi sự nghiệp thơ ca, kể cả những nhà thơ lớn cùng thời với ông.” [31, tr.11]. Và cũng trong suốt hơn năm thập kỉ qua, thơ Tố Hữu đã trở thành một hiện tượng, một đối tượng nghiên cứu lớn của giới học thuật, thu hút hầu hết các nhà nghiên cứu, phê bình tên tuổi trong cả nước. Trải qua hơn 50 năm nghiên cứu, phê bình thơ Tố Hữu, giới học thuật nước ta ngày càng tiếp cận thế giới nghệ thuật của nhà thơ một cách toàn diện, phong phú và thực chất hơn. Thơ Tố Hữu là một thành tựu nổi bật của thơ ca cách mạng Việt Nam. Nói theo cách của Balzac, thì Tố Hữu chính là người thư ký của cách mạng. Không chỉ ở lĩnh vực nghiên cứu văn học, thơ ông còn được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm, nghiên cứu. Nhìn chung, thơ ông đã được đánh giá, phân tích về mọi mặt từ nội dung tư tưởng tới hình thức, phong cách, từ đề tài, chủ đề, hình tượng tới phương pháp sáng tác, thể loại, ngôn ngữ. Các nhà nghiên cứu đánh giá: Tố Hữu là một phong cách lớn trong sự phát triển của nền văn 2 Từ điển tần số truyện và ký tiếng Việt hiện đại của Vũ Thế Thạch, Phạm Thị Cơi (Luận văn tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội) 1973 7 học dân tộc. Thơ ông không chỉ đặc sắc về mặt nội dung, tư tưởng mà còn có giá trị đặc sắc về nghệ thuật trên các phương diện về phong cách và ngôn ngữ thơ. Cho đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về thơ Tố Hữu từ phương diện ngôn ngữ như: “Tính dân tộc và tính hiện đại của ngôn từ thơ Tố Hữu” của Trần Đình Sử (Báo Văn nghệ số 36 - 1985); “Từ địa phương trong thơ Tố Hữu” (Hoàng Thanh Vân: Luận văn Tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên - 2000), “Khảo sát việc sử dụng từ ngữ địa phương trong thơ Tố Hữu” (Phạm Thị Thuỳ Dương: Luận văn tốt nghiệp trường Đại học Thái Nguyên), “Bước đầu khảo sát vốn từ địa phương trong thơ Tố Hữu” (Hoàng Thị Hằng: Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - 2006),… Đến nay người ta đã bàn nhiều, phân tích và nghiên cứu nhiều mặt để khẳng định giá trị của thơ ông nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu riêng về từ vựng trong thơ ông với tư cách là một nghiên cứu tổng thể và cách thức sử dụng từ ngữ của ông trong thơ. Nghiên cứu ngôn ngữ tác phẩm của ông có thể sẽ góp phần nghiên cứu, miêu tả diện mạo từ vựng tiếng Việt hiện đại trong tiến trình phát triển của nó. Đó là lý do chúng tôi xác định đề tài để nghiên cứu trong luận văn này: Từ vựng trong thơ Tố Hữu (khảo sát qua hai tập Việt Bắc và Gió lộng). 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là toàn bộ vốn từ vựng trong hai tập thơ Việt Bắc và Gió lộng của Tố Hữu. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là khảo sát từ vựng chỉ trong hai tập thơ Việt Bắc và Gió lộng của ông. Chúng tôi sẽ khảo sát trên phạm vi toàn thể các lớp từ, các bộ phận của vốn từ trong hai tập thơ này. 3. Mục đích nghiên cứu của luận văn 8 Thực hiện đề tài “Từ vựng trong thơ Tố Hữu (khảo sát qua hai tập Việt Bắc và Gió lộng)”, luận văn hướng vào những mục đích nghiên cứu sau: + Tổng kiểm kê, khảo sát để có những thông tin định lượng về vốn từ trong hai tập thơ này. + Đánh giá từ vựng tiếng Việt được sử dụng trong nguồn ngữ liệu được khảo sát (Việt Bắc và Gió lộng). Qua đó, có thể góp phần nghiên cứu từ vựng tiếng Việt trong giai đoạn tương ứng được xét. + Góp phần phục vụ nghiên cứu tác phẩm văn chương từ góc độ ngôn ngữ học; bước đầu tìm hiểu nghệ thuật của Tố Hữu trong việc sử dụng ngôn từ. Điều này có ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca Việt Nam nói chung. 4. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, chúng tôi phải thực hiện một số nhiệm vụ sau đây: - Khảo chứng và lập được danh sách toàn bộ từ ngữ được sử dụng trong hai tác phẩm. - Phân tích định lượng các kết quả khảo sát được để rút ra những nhận xét về những nội dung như: * Nghiên cứu định lượng xác định độ phong phú, phân tán và tập trung của từ vựng xuất hiện trong tác phẩm. * Miêu tả, phân tích thành phần từ vựng trong 2 tập thơ “Việt Bắc” và “Gió lộng” * Đánh giá việc sử dụng từ vựng và một số điểm về nghĩa của từ ngữ trong tác phẩm. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong luận văn này chúng tôi sử dụng các phương pháp: - Thống kê định lượng ngữ liệu nghiên cứu. 9 - Vận dụng một số phương pháp trong nghiên cứu định lượng để đánh giá về từ vựng tác phẩm như: độ phong phú và độ tập trung từ vựng. - Phân tích cơ cấu vốn từ bằng các đối lập ngôn ngữ học trong nội bộ của nó. (phạm vi sử dụng, chủ đề…) 6. Quy cách trình bày 1. Tên tác phẩm nhất loạt in nghiêng, tác phẩm chính in nghiêng đậm. Ví dụ: Sông đông êm đềm, Gió lộng, Việt Bắc. 2. Chú thích tư liệu cũng như trích dẫn được đặt trong ngoặc kép và ghi bằng số trong ngoặc vuông, tương ứng với số thứ tự trong danh mục tài liệu tham khảo, cùng với số trang ghi ngay sau phần tư liệu trích dẫn. 7. Cấu trúc của luận văn Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi sẽ trình bày luận văn này trong một cấu trúc như sau: - Phần mở đầu - Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của các vấn đề trong luận văn - Chƣơng 2: Phân tích định lượng về vốn từ và phân tích các lớp từ trong Việt Bắc và Gió lộng - Chƣơng 3: Chuyển nghĩa ẩn dụ, hoán dụ và tín hiệu thẩm mỹ trong văn bản - Kết luận - Danh mục tài liệu tham khảo - Phụ lục 10 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁC VẤN ĐỀ TRONG LUẬN VĂN 1.1. Tác giả và nguồn ngữ liệu được khảo sát 1.1.1. Tác giả Tố Hữu Tố Hữu sinh ra và lớn lên ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Từ nhỏ Tố Hữu đã được cha – là một nhà nho dạy làm thơ theo lối cổ. Mẹ ông là con một nhà nho, thuộc nhiều bài ca dao, dân ca xứ Huế và rất giàu tình thương con. Tuy nhiên, năm Tố Hữu 12 tuổi thì bà đã qua đời. Tuy là một vùng đất nghèo nhưng phong cảnh thiên nhiên, sông nước ở xứ Huế rất nên thơ - một xứ Huế mộng mơ. Nơi đây có một nền văn hoá rất phong phú, độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc, là sự kết hợp của văn hoá cung đình và văn hoá dân gian mà nổi tiếng nhất là những điệu ca, hò như nam ai, nam bình, mái nhì, mái đẩy… Tố Hữu tham gia cách mạng từ rất sớm. Năm 1938, Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và từ đó ông hoàn toàn tự nguyện hiến dâng cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng. Ông từng bị bắt giam tại nhà lao Thừa Thiên, nhiều nhà tù ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, rồi vượt ngục tiếp tục hoạt động cách mạng. Cách mạng tháng Tám năm 1945, Tố Hữu được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa ở Huế, lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố quê hương, nơi đầu não của chính quyền phong kiến. Khánh chiến toàn quốc bùng nổ, Tố Hữu được điều động ra Thanh Hoá rồi lên Việt Bắc công tác ở cơ quan Trung ương Đảng, đặc trách về văn hoá, nghệ thuật. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và cho đến năm 1986, Tố Hữu luôn giữ những cương vị trọng yếu trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước (ông từng là Uỷ viên Bộ Chính 11 trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Sau một thời gian lâm bệnh nặng Tố Hữu đã ra vào ngày 9-12-2002 tại Hà Nội. Đời thơ của ông có nhiều tác phẩm. Quan niệm sáng tác của ông là thơ phải có tác dụng trong đời sống, trong đấu tranh cách mạng, phải nâng người ta lên, cuốn người ta theo, dẫn người ta về phía trước. Tập thơ Việt Bắc và Gió lộng của ông đã thể hiện đúng tinh thần và quan niệm ấy. 1.1.2. Về hai tập thơ Việt Bắc và Gió lộng Chúng tôi khảo sát từ vựng trong hai tập thơ Việt Bắc và Gió lộng in trong cuốn “Tố Hữu: Thơ” do Nhà xuất bản Văn học ấn hành, năm 2005. Việt Bắc là tập thơ được sáng tác chủ yếu trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954), gồm tổng cộng 27 bài (trong đó có 06 bài dịch, 03 bài sáng tác sau 1954). Tập thơ Gió lộng gồm 25 bài, sáng tác trong 06 năm (1955-1961) khi đất nước tập trung vào hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ Ngụy, thống nhất đất nước ở miền Nam. 1.2. Một số vấn đề lý luận trong nghiên cứu từ vựng tác phẩm, tác giả 1.2.1. Từ ngữ và đơn vị khảo sát, thống kê Đơn vị để khảo sát thống kê của chúng tôi là đơn vị từ vựng. Đó là từ và đơn vị tương đương với từ. Nói cách khác, đơn vị thống kê trong nghiên cứu định lượng ở đây là từ và đơn vị tương đương với từ: những ngữ cố định. a. Từ và vấn đề quan niệm, xác định từ Từ vựng vô cùng quan trọng để cùng với ngữ pháp làm thành ngôn ngữ. Xét ở nhiều khía cạnh, từ là đơn vị cơ bản, là đơn vị trung tâm trong toàn bộ hệ thống các đơn vị của ngôn ngữ, song việc xác định quan niệm về từ, phân giới từ, phân loại từ không phải lúc nào cũng thuận lợi. Tuy vậy, khi 12 nghiên cứu từ vựng, nếu thống kê, người ta vẫn phải lấy từ làm đơn vị khảo sát cơ bản. Chúng tôi cũng phải lấy từ làm đơn vị là như vậy. Về vấn đề quan niệm về từ của tiếng Việt, nhìn chung có hai khuynh hướng: * Coi từ tiếng Việt trùng với âm tiết ( hay tiếng). Nhìn chung, từ xưa đến nay, những tiếng độc lập, có nghĩa ai cũng coi là từ - từ đơn tiết; còn những tiếng không độc lập thì các nhà nghiên cứu xử lý khác nhau. M.B.Emenneau coi mỗi từ là một âm tiết, một chữ tách rời nhau. Đây cũng là ý kiến của G.Aubarey, Trương Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim,… Nguyễn Thiện Giáp cũng coi mỗi tiếng là một từ nhưng tác giả đã chứng minh một cách thấu đáo hơn. Những đơn vị từ vựng do tiếng kết hợp với tiếng mà thành được tác giả gọi chung là ngữ, gồm ngữ định danh, ngữ láy âm, thành ngữ và quán ngữ. “Từ của tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để tạo câu nói; nó có hình thức của một âm tiết, một khối viết liền”.[22, 69 ] * Coi từ tiếng Việt không hoàn toàn trùng âm tiết. Đây là quan niệm của nhiều tác giả, ví dụ như: - Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê: “Từ là âm có nghĩa, dùng trong ngôn ngữ để diễn đạt một ý đơn giản nhất, nghĩa là ý không thể phân tích ra được.[13, tr18] Ví dụ: bàn, ghế, thợ thuyền, gia đình, …” - Đỗ Hữu Châu: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến về hình thức ngữ âm theo các quan hệ hình thái học (như quan hệ về số, về giống,…) và cú pháp trong câu, nằm trong một kiểu cấu tạo nhất định, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, ứng với những nghĩa nhất định, sẵn có đối với mọi thành viên của xã hội Việt Nam, lớn nhất trong hệ thống tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu”. [8, tr 29] 13 Cùng quan niệm như Đỗ Hữu Châu, là quan niệm của các tác giả như: Nguyễn Kim Thản, Hoàng Tuệ, Ðái Xuân Ninh, Hồ Lê… Vẫn theo Đỗ Hữu Châu, đơn vị cấu tạo từ tiếng Việt gồm có hình vị và đơn vị cấu tạo từ, từ tố: Ngôn ngữ học thế giới nhất trí cho rằng, từ của tất cả các ngôn ngữ, dù là ngôn ngữ hoà kết như ngôn ngữ Châu Âu, hay các ngôn ngữ chắp dính, đơn lập, đều có thể phân tách ra thành những đơn vị ở cấp độ dưới trực tiếp và gọi các đơn vị đó là hình vị [8, tr 36]. Từ là đơn vị được cấu tạo bằng một hoặc một số từ tố (hình vị). Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa và có khả năng hoạt động độc lập. Từ có chức năng định danh, có khả năng đóng các vai trò khác nhau trong câu như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ. Ở phần trên, chúng ta đã bàn đến những đặc điểm chung của từ là có nghĩa hoàn chỉnh, mang tính cố định, sẵn có, và là đơn vị nhỏ nhất có thể tham gia tạo câu. Nó có hai đặc điểm đáng chú ý: - Có thể đơn tiết hoặc đa tiết. - Có thể có biến thể ngữ âm hoặc ngữ nghĩa nhưng không có biến thể hình thái học. Ý nghĩa ngữ pháp của từ không được biểu hiện trong nội bộ từ, mà được biểu hiện trong quan hệ giữa các từ trong câu. Mặt khác, từ không có những dấu hiệu hình thức giúp xác định ý nghĩa ngữ pháp mà phải dưa vào các loại từ hay phó từ như con, cái, chiếc ( đối với danh từ), đã, đang, đang, sẽ, rất, hơi, khá…( đối với động từ và tính từ). Như vậy, phải dựa vào chức năng ngữ pháp cụ thể ta mới xác định được ý nghĩa từ vựng của từng trường hợp. Những điều trình bày trên đây, phần nào đó đã nói lên được tính phức tạp của tình hình nghiên cứu về từ trong tiếng Việt. Rất nhiều khái niệm về từ đã được đưa ra, nhưng hầu hết đều không thể hiện khái quát hết bản chất của từ. Tuy nhiên để thuận tiện trong quá trình làm việc, chúng tôi chấp nhận quan niệm về từ sau đây để làm việc. 14 “Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để tạo câu” [14, tr142] Luận văn của chúng tôi chấp nhận quan niệm về từ theo định nghĩa trên tức là có từ đơn tiết và đa tiết. b. Đơn vị tương đương với từ: các ngữ cố định. Từ không những là đơn vị cơ bản của từ vựng, ngữ pháp; và như trên đã nói, đơn vị thống kê không chỉ có từ mà còn có ngữ cố định. Theo Nguyễn Thiện Giáp: “đơn vị cơ bản của từ vựng là từ. Bên cạnh các từ, trong thành phần từ vựng của mỗi ngôn ngữ còn tồn tại rất nhiều các cụm từ cố định, thường được gọi là các thành ngữ, quán ngữ. Cụm từ cố định có nhiều điểm giống với từ: Chúng cũng có khả năng tái hiện trong lời nói như các từ; về mặt ngữ pháp, chúng cũng có thể là thành phần của câu, cũng có thể là cơ sở để cấu tạo từ; về mặt ngữ nghĩa, chúng cũng biểu thị những hiện tượng của thực tế khách quan gắn liền với những kiểu hoạt động khác nhau của con người. Chính vì vậy, các cụm từ cố định cũng nằm trong thành phần từ vựng của ngôn ngữ, cũng được hệ thống hoá trong các từ điển. Từ và cụm từ cố định được gọi là những đơn vị định danh cơ bản của ngôn ngữ, thực hiện chức năng gọi tên các sự vật, hiện tượng… của thực tế. Tuy nhiên cụm từ cố định không phải là đơn vị từ vựng cơ bản, bởi vì chúng do các từ cấu tạo nên: muốn có cụm từ cố định trước hết phải có các từ”. [22, tr16,17] Có thể nêu một khái niệm cho cụm từ cố định điển hình như sau: Cụm từ cố định là đơn vị do một số từ hợp lại; tồn tại với tư cách một đơn vị có sẵn như từ, có thành tố cấu tạo và ngữ nghĩa cũng ổn định như từ. [14, tr153] 1.3. Một số vấn đề về thống kê và thủ pháp nghiên cứu định lượng 15 Thống kê là một phương pháp được sử dụng khi người ta muốn biết được số liệu, thu thập, lí giải các số liệu một cách khách quan, khoa học và đáng tin cậy. Phương pháp thống kê được sử dụng trong thống kê xã hội học, tâm lý học, y học,… Ngoài ra phương pháp này cũng được áp dụng trong địa hạt của ngôn ngữ học và do vậy đã hình thành một ngành học: Ngôn ngữ học thống kê. Ngôn ngữ học thống kê còn được sử dụng để nghiên cứu các phạm trù từ nguyên hoặc các lớp từ cơ bản, từ vay mượn, từ dân gian và ngôn ngữ địa phương. Ngôn ngữ học thống kê còn được sử dụng để thống kê từ vựng, từ loại, thống kê độ dài câu tiếng Việt, từ đó chúng ta có thể tìm hiểu phong cách ngôn ngữ của nhà văn, vận dụng phương pháp thống kê để tìm hiểu sự phân bố từ vựng, các đặc trưng của cấu trúc văn bản. Nhờ phương pháp này mà người ta có thể tìm ra được một số từ cơ bản được lặp lại nhiều lần hay những từ thông dụng, sự phát triển của vốn từ, từ loại theo thời gian và trong từng thể loại văn bản. Kết quả này giúp cho việc giảng dạy cho các sinh viên người nước ngoài hay ngoại ngữ rất có hiệu quả. Dựa vào ngôn ngữ học thống kê người ta có thể nghiên cứu sự hoạt động của ngôn ngữ. Các chỉ số thu được tự nó phản ánh đặc điểm, cấu trúc, chức năng của hiện tượng ngôn ngữ. Tần số của hiện tượng ngôn ngữ sẽ phản ánh cấu trúc nội tại của một văn bản, giúp người đọc nhận thức được các quy luật kết hợp từ của tác giả, cách sử dụng từ trong từng ngữ cảnh. Từ nghiên cứu định lượng về ngôn ngữ của văn bản thơ, có thể rút ra đặc điểm của thể loại thơ và giúp chúng ta hiểu thêm được nội dung, tính chất đặc thù của thơ trong một giai đoạn nhất định. Ngoài ra, thống kê định lượng còn giúp chúng ta hiểu được khả năng, quy luật phát triển vốn từ của tác giả nói riêng và vốn từ vựng nói chung. Như vậy, việc nghiên cứu định lượng về 16 vốn từ vựng của một tác phẩm cũng có tầm quan trọng rất lớn đối với việc nghiên cứu ngôn ngữ. Áp dụng phương pháp thống kê và dựa trên cơ sở đó để phân tích và nhận xét những số liệu đã thu được, kết quả của nó sẽ góp phần nhận thức sâu sắc và khoa học về cơ cấu ngôn ngữ trong thơ, phạm vi vốn từ mà tác giả sử dụng. Phương pháp thống kê trong nghiên cứu từ vựng đã giúp chúng tôi nghiên cứu Việt Bắc, Gió lộng chính xác dưới góc độ từ vựng. Bảng thống kê từ vựng trong hai tập thơ được lập trên cơ sở của phương pháp thống kê từ vựng học. Để có được những con số chính xác cho bảng thống kê từ vựng, chúng tôi tiến hành công việc đầu tiên là phân định ranh giới từ của toàn bộ hai tập thơ Việt Bắc và Gió lộng. Những danh sách từ ngữ mà chúng tôi thu được sẽ như một từ điển tần số về hai tập thơ này. Từ những nguồn ngữ liệu đó chúng ta có thể tìm hiểu những nét khái quát về từ vựng trong vốn từ của nhà thơ Tố Hữu và sự hoạt động của ngôn ngữ trong thơ ông. Kết quả thu được sẽ phản ánh đặc điểm, cấu trúc, chức năng của hiện tượng ngôn ngữ cũng như cấu trúc nội tại của văn bản. Chúng tôi chọn đơn vị thống kê là từ và cụm từ cố định vì chúng có chức năng định danh và chức năng làm thành phần câu, khả năng tách khỏi các đơn vị khác của lời nói để hoạt động độc lập và hoàn chỉnh về mặt ngữ âm, ý nghĩa. Các từ đồng âm được xếp thành các từ khác nhau theo từ loại của chúng. Ví dụ, chúng ta có 3 từ “hay” khác nhau: hay (động từ). Ví dụ: Họ đã hay việc này. hay (tính từ). Ví dụ: Bộ phim rất hay. hay (liên từ). Ví dụ: anh uống cà phê hay uống chè? Nguyên tắc thống kê, kiểm đếm định lượng: Chúng tôi phân cắt văn bản thành các đơn vị từ vựng dựa trên tiêu chí nhận diện từ ở trên, sau đó kiểm đếm, thống kê tần số xuất hiện của từng đơn 17 vị thống kê đó. Đơn vị thống kê (đơn vị từ vựng ) được chúng tôi phân biệt từ đa nghĩa, đồng âm, cách tính 2 từ đồng âm khác nhau. Số lần đơn vị thống kê (từ, ngữ cố định, thành ngữ, câu trích dẫn, những con số, những chữ viết tắt, những tên riêng chỉ người, chỉ địa danh,…) xuất hiện trên văn bản thống kê gọi là tần số của từ. Khi thống kê toàn bộ vốn từ trong 2 tập thơ Việt Bắc và Gió lộng, các lời phụ chú của tác giả như: “Thân tặng”, “Dịch thơ của…” thì không được tính. Từ những kết quả đã thu được qua quá trình thống kê, chúng tôi lập thành một bảng: Bảng thống kê từ vựng của Tố Hữu qua hai tập thơ Việt Bắc và Gió lộng. 1.4. Một số khái niệm liên quan trong nghiên cứu định lƣợng Trước khi đi vào chi tiết nội dung chính của luận văn, chúng ta sẽ đi tìm hiểu sơ qua các khái niệm có liên quan trong nghiên cứu định lượng. - Đơn vị thống kê: Như chúng tôi đã nói ở trên, mỗi đơn vị từ vựng (từ, ngữ cố định, thành ngữ, câu trích dẫn, những con số, những chữ viết tắt, những tên riêng chỉ người, chỉ địa danh,…) là một đơn vị thống kê. - Tần số của đơn vị thống kê: Số lần đơn vị thống kê (từ, ngữ cố định, thành ngữ, câu trích dẫn, những con số, những chữ viết tắt, những tên riêng chỉ người, chỉ địa danh,…) xuất hiện trên toàn bộ văn bản thống kê gọi là tần số của từ trong văn bản ấy. - Độ dài văn bản: Tổng tần số của tất cả đơn vị thống kê trong văn bản thì được gọi là độ dài văn bản. - Độ phân bố của từ: Từ, ngữ và những đơn vị thống kê khi nghiên cứu những nguồn ngữ liệu lớn thì người ta thường chia thành những đoạn văn bản khác nhau, trung bình khoảng 1000 lượt từ liên tiếp nhau là một đoạn văn bản. Như vậy, mỗi một đơn vị thống kê xuất hiện trong nhiều đoạn văn bản khác nhau thì gọi là có độ phân bố lớn. Độ phân bố phản ánh mức độ phổ biến từ ngữ trong văn bản đó. Độ phân bố của từ là một trong những chỉ số phổ 18 biến của nó. Như vậy, một đơn vị thống kê càng xuất hiện trong nhiều đoạn văn bản thì mức độ phổ biến của nó càng cao. Trong khảo sát của chúng tôi ở đây, chúng tôi chưa làm công việc phân đoạn như vậy, mà mới chỉ thông kê, phân tích trên tòn bộ văn bản. - Độ phong phú từ vựng: Mức độ "giàu có" của từ vựng, thể hiện ở số lượng từ khác nhau được sử dụng, ở tính ít lặp lại của các từ ngữ, ở độ phân bố rộng rãi và độ phân tán cao, độ tập trung thấp của vốn từ. - Độ phong phú của từ vựng được sử dụng trong văn bản có thể được đo bằng một số công thức tính khác nhau, bổ sung cho nhau. Đó là công thức tính tỉ lệ giữa số lượng từ khác nhau trên tổng độ dài văn bản (độ dài này tính bằng tổng tần số của các từ), tính độ phân tán từ vựng, độ tập trung từ vựng, tỉ lệ giữa thực từ với tổng tần số thực từ. 1.5. Các lớp từ và tiêu chí nhận diện để phân lớp từ Từ vựng của một ngôn ngữ không phải là một tập hợp hỗn độn mà chúng được phân chia một cách có hệ thống. Dựa vào các tiêu chí khác nhau, người ta có thể phân chia hệ thống từ vựng thành những lớp, hạng khác nhau một cách chặt chẽ và mạch lạc. Dựa vào từ vựng học thì việc phân chia dường như có vẻ không được rõ ràng, mạch lạc bằng. Mặc dù vậy, không phải vì lí do đó mà người ta không thể phân chia được tập hợp các từ trong một ngôn ngữ. 1.5.1. Phân lớp từ ngữ theo nguồn gốc a. Các từ ngữ gốc Hán Lớp từ này nói chung có vị trí đặc biệt trong vốn từ vựng tiếng Việt, chúng có số lượng lớn và năng lực sản sinh mạnh. Tiếng Việt đã trải qua quá trình tiếp xúc với tiếng Hán từ rất lâu đời, thông qua nhiều con đường và bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Trong quá trình tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ, tiếng Việt đã tiếp nhận một lượng từ ngữ rất 19 lớn của tiếng Hán để bổ sung cho vốn từ vựng của mình. Có thể chia quá trình tiếp xúc Hán – Việt thành hai giai đoạn lớn: một là giai đoạn từ đầu công nguyên đến đầu đời Đường (đầu thế kỉ 8); hai là giai đoạn từ đời Đường (thế kỉ 8 – thế kỉ 10) trở về sau. Hai lần tiếp xúc lớn này cung cấp cho từ vựng tiếng Việt hai nguồn gốc từ Hán mà như trước nay vẫn quen gọi là từ Hán cổ và từ Hán Việt. [14] Từ Hán cổ là những từ gốc Hán được du nhập vào tiếng Việt trong giai đoạn một. Vì đi vào tiếng Việt đã lâu, đã được đồng hoá rất mạnh, nên những từ này hiện nay nói chung không còn cái vẻ xa lạ đối với người Việt nữa. Ví dụ: chè, ngà, chén, chém, chìm, buồng, buồn, buồm, mùi, mùa... Từ Hán Việt là những từ gốc Hán du nhập vào tiếng Việt trong giai đoạn hai, sau đời Đường cho đến nay và người Việt vẫn lưu giữ cách phát âm đời Đường hệ thống ngữ âm của mình gọi là cách đọc Hán Việt. Có thể nói cách đọc Hán Việt là cách đọc chữ Hán của người Việt Nam. Cách đọc đó được duy trì (với những biến đổi ít nhiều) cho đến tận ngày nay. Ví dụ: nam, nữ, mã, trọng, khinh... Tên gọi "từ Hán Việt" còn bao gồm cả những từ vốn không phải là gốc Hán, mà do người Hán mượn một ngôn ngữ khác, rồi người Việt vay mượn lại và đọc theo âm Hán Việt như các từ Hán Việt khác. Ví dụ, có những từ vốn xuất thân nguồn gốc Nhật Bản như: nghĩa vụ, phục tùng, phục vụ, điều chế, đại bản doanh, kinh tế,… Có những từ lại vốn xuất thân từ nguồn gốc Phạn (Sanskrit) như Phật, Nát Bàn, Di lặc, Thích ca mầu ni... Có từ lại vốn thuộc nguồn gốc châu Âu như: câu lạc bộ, Anh Cát Lợi, Mạc Tư Khoa... Đối với những từ này, chúng ta không thể dùng nghĩa gốc của các từ Hán để giải thích nghĩa của chúng. Bên cạnh đó, những từ do người Việt tạo ra nhưng sử dụng yếu tố cấu tạo có nguồn gốc Hán thì cũng được gọi là từ Hán Việt. Đây là một bộ phận 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan